MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................
Bố cục................................................................................................................ 7
CHƯƠNG 1 ....................................................................................................... 8
NHŨNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THAM NHŨNG VÀ PHÒNG,
CHỐNG THAM NHŨNG.................................................................................. 8
1.1..........................................................................................................
Những vấn đề lí luận chung về tham những ......................................................8
1.2. Tác hại của tham nhũng ........................................................................... 10
CHƯƠNG 2: THựC TRẠNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM VÀ sự
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM....................................... 27
VỚI CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG..................................... 27
GIAI ĐOẠN 2006-2015................................................................................... 27
2.1. Nhận định của Đảng và Nhà nước về tình hình tham những ở Việt Nam
giai đoạn 2006-2015..................................................................................... 27
2.2. .....................................................................................................
Thực trạng tham những ở Việt Nam trong những năm 2006-2015 ................32
2.3. .....................................................................................................
Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng ................41
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM...............................52
3.1. Một số nhận xét về công tác phòng chống tham nhũng trong thời gian
qua ............................................................................................................... 52
3.2 Những hạn chế yếu kém và nguyên nhân ............................................... 60
3.3. Một số kinh nghiệm ............................................................................. 63
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 70
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
PCTN: Phòng chống tham nhũng
VAT: Thuế giá trị gia tăng
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với xu thế toàn cầu hóa, tham những đã vượt ra khỏi phạm vi biên
giới quốc gia và trở thành vấn đề nhức nhối, đe dọa nghiêm trọng đến tiến trình
phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Hành vi tham những
được xác định là một trong những nguyên nhân chính tạo ra sự phản kháng của
nhân dân, làm cho bộ máy quyền lực nhà nước bị tha hóa, đời sống kinh tế- xã
hội bị suy thoái; đe dọa tới sự tồn vong của cả một chế độ xã hội ; làm suy giảm
sức chiến đấu của các đảng cầm quyền. Do đó,đấu tranh chống tham nhũng được
xác định là một trong những tiêu chí hàng đầu để nắm giữ, củng cố và duy trì
quyền lực.
Vấn đề tham nhũng và việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng luôn
được Đảng và Nhà nước xem là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm,
được đặc biệt nhấn mạnh trong các văn kiện Đại hội của Đảng từ rất sớm. Tham
nhũng đã được Đảng xác định là một trong bốn nguy cơ cản trở sự phát triển bền
vững của đất nước, là nguyên nhân kìm hãm bước tiến của công cuộc đổi mới,
tiềm ẩn nguy cơ đe dọa an ninh chính trị, kinh tế, xã hội, làm giảm sút lòng tin
của nhân dân với Đảng. Do vậy, đấu tranh phòng, chốngtham những là sự nghiệp
của Đảng, Nhà nước và nhân dân, trong đó vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự
nghiệp chung ấy có ý nghĩa chiến lược và quyết định sự thành bại.
Trải qua các thòi kỳ, Đảng và Nhà nước đã đề ra và thực hiện nhiều chủ
trương, giải pháp tích cực để phòng, chống tham nhũng, xây dựng một bộ máy
lãnh đạo và quản lý trong sạch, vững mạnh, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
(nhiệm kỳ 2006-2011) của Đảng đã xác định: “Tích cực phòng ngừa và kiên
quyết chống tham nhũng, lãng phí là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm
chính trị của Đảng ta, nhằm xây dựng một bộ máy lãnh đạo và quản lí trong sạch,
vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế
2
độ”. Tiếp theo, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ ba (khóa X)
đã ban hành riêng một Nghị quyết chuyên đề về “Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng , lãng phí”, trong đó xác định: “
Phòng chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài; phải
tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục”, nhằm “ngăn chặn, từng bước đẩy lùi
tham nhũng, lãng phí”.
Đại hội lần thứ XI (nhiệm kỳ 2011-2016) của Đảng một lần nữa khẳng
định: Thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ rất quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài của
công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước.
Bên lề Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, nhiều đại biểu nhấn mạnh tầm
quan trọng của phòng, chống tham nhũng và đề nghị cần tăng cường sự tham gia
của cộng đồng xã hội và người dân để công tác này có hiệu quả cao hơn trong
thời gian tới.
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về các văn kiện
Đại hội XII của Đảng đã xác định: "Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, đồng thời là nhiệm vụ
khó khăn, phức tạp, lâu dài. Các cấp ủy Đảng, trước hết là người đứng đầu cấp
ủy, chính quyền và toàn bộ hệ thống chính trị phải kiên quyết phòng, chống tham
những, lãng phí; chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham những, lãng phí;
xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung
túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc
chống tham nhũng, lãng phí."
Có thể nói, với sự cố gắng của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước đối với công tác phòng, chống
tham nhũng trong thời gian qua, chứng ta đã tạo được những chuyển biến tích
cực cả về nhận thức và hành động. Công tác phòng, chống tham nhũng đã đạt
được những kết quả bước đầu quan trọng, nhất là trong xây dựng thể chế và công
3
tác phòng ngừa. Trong một số lĩnh vực, tham nhũng từng bước được kiềm chế.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, khi nghiêm túc nhìn nhận, đánh giá, chúng ta có thể thấy
công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế,
yếu kém. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, quyết tâm, công tác phòng, chống tham
những đã có chuyển biến theo hướng tích cực nhưng chưa tạo được sự chuyển
biến có tính cơ bản. Tình hình tham những hiện nay vẫn ở mức nghiêm trọng,
diễn biến phức tạp, xảy ra ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên có chức, có quyền suy thoái đạo đức, lối sống, với
hình thức,thủ đoạn tham những ngày càng tinh vi, gây bức xúc xã hội. Nguyên
nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém đó một phần là do quyết tâm chính trị
của Đảng và Nhà nước chưa trở thành hành động tự giác của nhiều ngành, nhiều
cấp. Không ít cấp ủy đảng, chính quyền và người đứng đầu thiếu quyết tâm và
chưa quan tâm đúng mức tới công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Năng
lực và sức chiến đấu của không ít tổ chức cơ sở đảng còn mờ nhạt, yếu kém.
Trong bối cảnh hiện nay, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác phòng, chống tham nhũng là vấn đề tất yếu và sống còn của sự nghiệp cách
mạng và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay. Trong cuộc
đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam , nhân tố có ý nghĩa quyết định
hàng đầu là có sự lãnh đạo của Đảng, và đấu tranh chống tham nhũng được coi là
nhiệm vụ hàng đầu trong công tác chỉnh đốn và nâng cao sức chiến đấu của
Đảng và trong giải quyết các vấn đề xã hội.
Từ nhận thức trên, qua quá trình học tập nghiên cứu, tôi nhận thấy việc
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với công tác phòng, chống tham
những là thực sự cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Do đó tôi đã chọn đề tài: “Sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chốngtham nhũng giai đoạn 20062015” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam
4
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với công tác phòng,
chống tham nhũng là một trong những nội dung quan trọng của nghiên cứu lý
luận, là một đề tài giành được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, lãnh đạo,
quản lý. Trong những năm qua, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về công
tác phòng, chống tham nhũng dưới những phạm vi và cấp độ khác nhau. Đáng
chú ý như:
Trương Vĩnh Trọng: “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh cuộc
đấu tranh phòng, chống tham những , lãng phí”, Tạp chí Cộng sản, số 771(12007); Tạp chí Báo cáo viên, sốio tháng 10 năm 2015; Tạp chí Báo cáo viên, số
01 tháng 01 năm 2016; Trương Tấn Sang: “Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ
thống chính trị và của toàn xã hội, đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí”, Tạp chí Cộng sản số 776(6/2007); Thanh tra Chính phủ:
“Những nghĩa vụ chủ yếu và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam khi phê chuẩn Công
ước của Liên họp quốc về Chống tham nhũng”, Đề tài khoa học cấp Bộ (2010);
Vũ Quốc Hùng: “Phòng, chống tham nhũng trong tình hình hiện nay”, Tạp chí
xây dựng Đảng, số 9/2007. PGS,TS Nguyễn Thế Thắng: “ Tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhân tố nhân dân và dư luận xã hội trong đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng”, Tạp chí Cộng sản, số 789 (7/2008);Nguyễn Thị Hương Giang; “
Tạp chí Lý luận chính trị, số 4/2010; Nguyễn Thị Thanh Tâm: “Tham nhũng ở
Việt Nam và những giải pháp đấu tranh phòng ngừa”, Luận văn tốt nghiệp Cao
cấp lý luận chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 2005
;Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, “ Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống tham những trong thời kỳ đổi
mới, lịch sử và kinh nghiệm”, Đề tài khoa học cấp bộ tuyển thầu, do TS. Đỗ
Xuân Tuất làm chủ nhiệm đề tài, 2011.
Hầu hết các công trình nêu trên ít nhiều đều có đề cập đến sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng xong các đề
5
tài nghiên cứu chủ yếu trong thời gian trước năm 2011. Vì vậy khóa luận đã kế
thừa và tiếp thu có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố có
liên quan đến vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác đấu tranh
phòng, chống tham những để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài khóa luận này.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận chung về tham nhũng , xuất phát từ thực tiễn lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham những
thời gian qua, khóa luận làm sáng tỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tham nhũng, từ đó nêu lên một số kinh nghiệm nhằm nâng cao sự
lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay, góp
phần làm trong sạch bộ máy Đảng, bộ máy Nhà nước, làm lành mạnh hóa các
quan hệ xã hội, khôi phục lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng,
tạo điều kiện ổn định để phát triển kinh tế, xã hội đồng thời bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay. Làm rõ và hệ thống
hóa những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và Đảng Cộng sản Việt
Nam về vấn đề tham những và công tác phòng, chống tham nhũng.
Để đạt mục đích trên, khóa luận tập trung:
• Làm rõ những vấn đề cơ bản về tham nhũng nói chung và tình hình tham
nhũng ở Việt Nam nói riêng cũng như quan điểm của Đảng ta về phòng, chống
tham những.
• Đánh giá kết quả đạt được và những hạn chế cũng như nguyên nhân
của hạn chế trong quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện công tác phòng, chống tham
nhũng.
• Đề xuất một số phương hướng giải pháp có tính khả thi nhằm góp phần
đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trong
công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta trong giai đoan 20062015 và những năm tiếp theo.
6
3.2. Đổi tượng và phạm vỉ nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với công tác phòng, chống tham nhũng trong giai đoạn 20062015. Trong phạm vi nghiên cứu, khóa luận tập trung nêu bật những quan điểm
của Đảng về phòng, chống tham những; thực trạng tham nhũng ở Việt Nam
trong giai đoạn 2006-2015; những kết quả đạt được cũng như những mặt hạn chế
trong công tác phòng, chống tham nhũng nói chung và trong lãnh đạo của Đảng
đối vói công tác này nói riêng, từ đó làm nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với công tác phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2006 - 2015.
4. Cơ sở lý luận của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham nhũng; quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tham những và yêu cầu của việc tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công tác đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp chung trong nghiên cứu khoa học,
kết hợp lý luận và thực tiễn, phân tích và tổng họp theo các quan điểm Mác - xít,
kết họp chặt chẽ lịch sử và lôgic, phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, phương pháp phân tích, thống kê, mô tả, tổng họp,...
6. Đóng góp vào lý luận và thực tiễn của luận văn
- Khóa luận hệ thống hóa các chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật Nhà nước về phòng, chống tham những giai đoạn 2006-2015
một cách có hệ thống.
- Những nhận định, đánh giá nêu lên một số phương hướng về sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2006- 2015
có thể là một căn cứ để xây dựng bộ tiêu chí đánh giá về tham nhũng và công tác
7
phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam.
- Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo đối với những người nghiên cứu vấn đề này
7. Kết cấu của khóa luận;
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khóa luận gồm Ba
chương và 7 tiết:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về tham nhũng và phòng chống
tham nhũng.
Chương 2: Thực trạng tham những ở Việt Nam và sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam với công tác phòng chống tham nhũng giai đoạn 2006-2015.
Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm.
8
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐÈ LÝ LUÂN CHUNG VÈ THAM NHŨNG
VÀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
1.1. Những vấn đề lí luận chung về tham nhũng
1.1.1. Khái niệm, bản chất của tham nhũng
1.1.1.1 Khái niệm tham nhũng
Theo quan điểm truyền thống tham nhũng là hành vi lọi dụng quyền
hạn để chiếm đoạt các lợi ích bất chính. Yếu tố quyền hạn trong hành vi tham
nhũng phát sinh trên cơ sở quyền lực nhà nước, gắn chặt với quyền lực nhà
nước. Vì vậy tham những là một hiện tượng xã hội gắn liền với sự hình thành
giai cấp và sự ra đời và phát triển của bộ máy nhà nước. Theo Montesquier “
mọi người có quyền lực đều có xu hướng lạm dụng quyền lực đó”.
Theo từ điển Tiếng Việt thì: “Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để
nhũng nhiễu nhân dân và lấy của”1.
Tùy thuộc vào chế độ chính trị- pháp lý của mỗi quốc gia mà tham
nhũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Ở nhiều nước hoặc trong nhiều tổ
chức pháp lý quốc tế, “tham nhũng” được quan niệm là hành vi lợi dụng chức
vụ, quyền hạn vì động cơ vụ lợi trong cả khu vực nhà nước và khu vực ngoài
nhà nước. Tuy nhiên, ở rất nhiều quốc gia, chỉ những hành vi lợi dụng chức
vụ, quyền hạn vì động cơ vụ lợi của cán bộ, công chức viên chức nhà nước
mới được coi là “ tham nhũng”.
Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng không đưa ra một khái
niệm chung về tham nhũng. Tuy nhiên, Công ước có quy định về các biện
pháp phòng ngừa, cũng như yêu cầu về hình sự hóa đối với các hành vi tham
những được thực hiện bởi người có chức vụ , quyền hạn trong cả khu vực
công và khu vực tư.
9
Theo pháp luật Việt Nam, tham nhũng được coi là một hiện tượng tiêu
cực gắn liền với một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, những người có
chức vụ, quyền hạn trong các đom vị, cơ quan, tổ chức thuộc bộ máy nhà nước
đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn vì vụ lợi. Luật, Phòng chống tham nhũng quy
định rõ: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng
chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”2.
Như vậy, còn có nhiều cách hiểu khác nhau về tham nhũng, xong cơ
bản “tham những” có thể hiểu chung là một hiện tượng gắn liền với quyền lực
và sử dụng quyền lực trong xã hội khi người nắm giữ đã sử dụng sai quyền lực
đó vì lợi ích của họ hoặc của một nhóm người có liên quan đến họ.
1.1.1.2 Bản chất của tham nhũng
Bản chất của tham nhũng là chủ nghĩa cá nhân là lòng tham của con
người. Do chủ nghĩa cá nhân, mà kẻ tham nhũng cố ý sử dụng sai lệch quyền
lực công (nhà nước) và quyền lực công cộng (tổ chức, cộng đồng) để trục lợi
bất chính.
Xét dưới khía cạnh chính trị- pháp lý, có một công thức được tổng kết
từ nhiều nghiên cứu đã được công bố là: Tham nhũng = chuyên quyền +tùy
tiện - trách nhiệm giải tŕnh.
Theo công thức này, tham những chính là kết quả hay biểu hiện tất yếu
của một nhà nước, một xã hội mà ở đó quyền lực chính trị không thống nhất
với quyền lực nhà nước và quyền làm chủ của người dân; quyền lực nhà nước
chỉ tập trung vào tay của một hoặc một nhómngười trong xã hôi để phục vụ,
củng cố cho quyền lực chính trị của họ và khi đó, quyền làm chủ của người
dân cũng không được coi trọng. Lúc này tính thượng tôn của pháp luật trong
các quan hệ xã hội bị đe dọa và pháp luật trở thành phương tiện để bảo vệ lợi
ích cho bộ phận nhỏ của người nắm quyền trong xã hội. Tựu chung lại, có thể
coi tham những là tác nhân chính gây nên xói mòn lòng tin của người dân đối
10
với chính quyền và trở thành nguy cơ đe dọa sự tồn vong của bất cứ chế độ
nếu không được kiểm soát kịp thời.
Xét dưới khía cạnh đạo đức, văn hóa, tham những là biểu hiện của sự
tham lam, ích kỷ và vô trách nhiệm của những người có chức vụ quyền hạn
khi mong muốn tìm kiếm những giá trị vật chất hoặc tinh thần mà đáng lẽ
không thuộc về họ thông qua việc lợi dụng chức quyền được giao. Đồng thòi
tham nhũng còn thể hiện sự dung túng, bao che cho những giá trị lệch chuẩn,
trái với thuần phong, mỹ tục và giá trị đạo đức truyền thống.
Xét dưới khía cạnh xã hội, tham nhũng là hành vi đi ngược lại lợi ích
xã hội và cộng đồng khi người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền
hạn của mình vì lợi ích cá nhân của mình hoặc người thân của mình; làm gia
tăng sâu sắc thêm khoảng cách giàu nghèo, sự bất công và những xung đột
trong xã hội.
1.1.2. Quan điểmcủa Đảng Nhà nước ta về phòng chống tham nhũng
Chống tham nhũng là cuộc đấu tranh hết sức phức tạp, đòi hỏi có sự
lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng. Từ trước đến nay, Đảng và Nhà
nước luôn coi trọng công tác phòng, chống tham nhũng và trong quá trình đấu
tranh phòng, chống tham nhũng Đảng đã xác định được một hệ quan điểm về
phòng, chống tham nhũng. Tạo cơ sở, định hướng để thể chế hóa thành Pháp
luật của Nhà nước, nhằm phòng ngừa, phát hiện và sử lý tội phạm tham những
hiệu quả.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (nhiệm kỳ 2006-2011) của Đảng
đã xác định: “Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí
là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng, nhằm phục một
trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ”. Đại hội X đã đề ra
những định hướng và chủ trương lớn cho công tác phòng chống tham những ,
lãng phí”, trong đó xác định: “ Phòng chống tham những, lãng phí là nhiệm vụ
11
trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ trực tiếp thường xuyên của
cả hệ thống chính trị và toàn xã hội”.
Tiếp theo, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ ba (khóa
X) đã ban hành riêng một Nghị quyết chuyên đề về “Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng , lãng phí”, trong đó xác
định: “ Phòng chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu
dài; phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục”, nhằm “ngăn chặn, từng bước
đẩy lùi tham nhũng, lãng phí”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nhiệm kỳ (2011-2016)
Đảng ta khẳng định:Tích cực phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí thực hành tiết kiệm. Tiếp tục hoàn thiện thể chế
và đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ tham nhũng, lãng phí tập trung các
lĩnh vực dễ sảy ra tham nhũng, lãng phí”.
Tiếp tục khẳng định quyết tâm chính trị, quan điểm, đường lối về
phòng, chống tham nhũng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XI) về: “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay” xác định: “ Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm
toán, điều tra, truy tố, xét sử để nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tham
những, lãng phí...Kiện toàn và tăng cường trách nhiệm, nâng cao hiệu quả hoạt
động của cơ quan phòng, chống tham nhũng. Xét sử nghiêm vụ án tham
những, trước hết là những vụ nghiêm trọng, phức tạp được nhân dân quan
tâm”.
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về các văn kiện
Đại hội XII của Đảng đã xác định: "Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, đồng thời là nhiệm vụ
khó khăn, phức tạp, lâu dài. Các cấp ủy Đảng, trước hết là người đứng đầu cấp
ủy, chính quyền và toàn bộ hệ thống chính trị phải kiên quyết phòng, chống
12
tham nhũng, lãng phí; chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng,
lãng phí; xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, lãng phí, bao
che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn
cản việc chống tham nhũng, lãng phí.
Có thể nói quan điểm của Đảng và Nhà nuớc ta về phòng, chống tham
nhũng được thể hiện ở nhiều văn kiện khác nhau của Đảng qua các nhiệm kỳ,
nhưng tựu chung lại chứng đều nhất quán thể hiện lại các quan điểm lớn sau
đây:
- Đấu tranh chống tham những phải gắn chặt với ổn định kinh tế- xã
hội, nâng cao đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chíng trị, tăng cường đoàn
kết toàn dân.
- Đấu tranh chống tham những phải gắn liền và phục vụ cho đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng Đảng và kiện toàn, tăng cường đoàn kết nội bộ.
- Chống tham nhũng phải gắn liền với chống quan liêu, lãng phí.
- Đấu tranh chống tham nhũng phải kết họp giữa xây, phòng và chống,
vừa tích cực phòng ngừa, vừa xử lí nghiêm mọi hành vi tham nhũng
- Đẩy mạnh phòng, chống tham những một cách chủ động, huy động
và phối họp chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh chống tham nhũng ở mọi cấp,
mọi nghành.
- Đấu tranh chống tham những là nhiệm vụ lâu dài, phải tiến hành kiên
quyết, kiên trì và thận trọng, khôngnóng vội, không chủ quan; phải có kế
hoạch cụ thể, có bước đi vững chắc; sử dụng nhiều biện pháp, trong đó lấy
giáo dục làm cơ sở, lấy pháp chế làm đảm bảo.
1.1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về tham nhũng và phòng chổng tham
nhũng
về vai trò, ỷ nghĩa của công tác chổng tham nhũng
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm rằng, chống tham ô, lãng phí là cách
13
mạng, là dân chủ.
Sự nghiệp cách mạng do toàn thể hệ thống chính trị, toàn thể quần
chúng nhân dân tiến hành, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiêu diệt chế độ thực dân, phong kiến,
xây dựng đất nước tiến lên xã hội chủ nghĩa là nội dung, mục tiêu của cách
mạng. Hồ Chí Minh khẳng định: "tham ô, lãng phí, quan liêu là những xấu xa
của xã hội cũ", tham ô là đặc trưng, gắn liền với thực dân, phong kiến. Đấu
tranh chống thực dân, phong kiến, xây dựng xã hội mới phải bao hàm cả đấu
tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Cách mạng không thể thành công
hoàn toàn nếu vẫn còn tham ô, lãng phí. Vì vậy, chống tham ô, lãng phí là một
nội dung, nhiệm vụ quan trọng của cách mạng.
Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Quyền lực thuộc về
nhân dân. Tất cả tài sản là của nhân dân. Nhân dân đóng góp mồ hôi xương
máu, tiền của cho công cuộc kháng chiến, xây dựng đất nước. Vì vậy, bảo vệ
tài sản công, chống tham ô, lãng phí là bảo vệ tài sản của nhân dân, bảo vệ
quyền dân chủ của nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "phong trào chống tham ô,
lãng phí, quan liêu ẳtphải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công.
Dân chủ tức là nhân dân làm chủ. Cán bộ là người được giao quản lý tài sản để
thực hiện các nhiệm vụ do nhân dân giao phó. Vì vậy, nhân dân có quyền và
nghĩa vụ giám sát, phê bình cán bộ, đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu,
tham ô, lãng phí. Sự tham gia của quần chúng quyết định sự thành công của
công cuộc đấu tranh phòng, chống tham ô, lãng phí. Quần chứng tham gia tích
cực, đông đảo thì cuộc đấu tranh càng mang lại hiệu quả cao. Hồ Chí Minh
khẳng định: "Quần chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau
chóng".
b) Quan điểm chỉ đạo công tác phòng, chổng tham â, lãng phí
Công tác chống tham ô, lãng phí rất quan trọng, cần phải được tất cả
14
các cấp, các ngành quan tâm và tiến hành thường xuyên. Cũng như các mặt
trận khác, muốn giành thắng lợi trên mặt trận chống tham ô, lãng phí, chúng ta
phải nắm được quan điểm chỉ đạo cuộc đấu tranh trên mặt trận đó. Hồ Chí
Minh nêu rõ: “phải có chuẩn bị, kế hoạch, tổ chức, ắt phải có lãnh đạo và
trung kiên”. Đấu tranh chống tham ô, lãng phí cần phải bằng hệ thống các biện
pháp đồng bộ, cả trước mắt và lâu dài, kết họp chặt chẽ giữa “xây” và
“chống”. Cùng với việc xây dựng cơ chế phòng, chống, tấn công tham ô, lãng
phí trên tất cả các lĩnh vực, cần xác định và tập trung vào các lĩnh vực trọng
tâm. Yếu tố quan trọng, quyết định hiệu lực, hiệu quả của cuộc đấu tranh
phòng, chống tham ô, lãng phí chính là công tác lãnh đạo. Sự lãnh đạo tập
trung thống nhất của Đảng, thông qua các chủ trương, chính sách mang tính
chỉ đạo, thông qua các cấp uỷ đảng quyết định sự thành bại của cuộc đấu tranh
chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu.
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh phải kết họp chặt chẽ giữa tuyên truyền,
giáo dục và cưỡng chế, trong đó lấy tuyên truyền, giáo dục là nền tảng, cơ sở.
Người nói: “Trong phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu, giáo dục là
chính, trừng phạt là phụ”. Việc tuyên truyền, giáo dục cần được đặc biệt coi
trọng, làm sao để cán bộ hiểu được sự nguy hại, xấu xa của tham ô, lãng phí,
từ đó có các hành động tích cực nhằm phòng, chống. Đồng thời, công tác
tuyên truyền, giáo dục sẽ giúp nêu gương tốt, lên án các hành vi tham ô, lãng
phí, góp phần tích cực vào việc ngăn chặn nạn tham ô, lãng phí. Nhưng khi
cần thiết, đối với những người đã suy thoái về đạo đức, không chịu rèn luyện,
cố tình tư lợi, chiếm đoạt tài sản của nhà nước, của nhân dân, phá hoại sự
nghiệp cách mạng, phải bị xử lý nghiêm khắc để bảo vệ sự nghiêm minh của
pháp luật và để răn đe, làm gương cho những người khác.
c) Các biện pháp phòng, chổng tham ô, lãng phí, quan liêu Trên cơ sở
nhận thức sâu sắc sự nguy hiểm, tìm ra bản chất, nguyên nhân của tham ô,
15
lãng phí, quan liêu, Hồ Chí Minh đã nêu ra hàng loạt biện pháp nhằm đấu
tranh phòng, chống. Trong các biện pháp phòng, chống tham ô, lãng phí, quan
liêu, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng biện pháp giáo dục tư
tưởng cho quần chúng. Người nói: “làm cho quần chứng khinh ghét tệ tham ô,
lãng phí, quan liêu; biến hàng trăm, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của
quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ
tham ô, lãng phí, quan liêu còn chồ ẩn nấp”. Quần chúng là lực lượng chính
của cách mạng, sự tham gia tích cực của quần chúng quyết định sự thành bại
của cách mạng. Trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham ô, lãng phí, quan
liêu, quần chúng nhân dân giám sát cán bộ, công chức, kịp thời phát hiện sai
phạm, phê bình, lên án các biểu hiện tiêu cực của cán bộ. Sự giám sát chặt chẽ
của quần chúng nhân dân đối với cán bộ, công chức nhà nước, thông qua các
hình thức khác nhau là một cơ chế ngăn ngừa tham ô, lãng phí hữu hiệu. Đồng
thời, các phản ánh, kiến nghị kịp thời của nhân dân qua công tác giám sát sẽ
giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sớm phát hiện các hành vi tham ô,
lãng phí, từ đó có các biện pháp xử lý phù họp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khởi xướng, phát động, chỉ đạo và
hướng dẫn phong trào phê bình và tự phê bình trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Người chỉ đạo: "bộ đội, cơ quan, đoàn thể và nhân dân phải tổ chức một
phong trào thật thà tự phê bình và phê bình từ cấp trên xuống, từ cấp dưới lên.
Trong phong trào này, mỗi cán bộ, Đảng viên phải luôn ý thức tự phê bình và
phê bình, không phải để đả kích nhau, mà để cùng nhau nhận thức các sai lầm,
khuyết điểm, cùng bàn cách khắc phục, sửa chữa, để thực hiện chức trách,
công vụ tốt hơn. Người nêu các bước thực hiện tự phê bình và phê bình. Trước
hết, tự phê bình và phê bình ở các "tiểu tổ". Sau đó, cơ quan triển khai kiểm
thảo chung. Phê bình và tự phê bình phải tiến hành từ trên xuống, từ dưới lên,
phải làm thường xuyên, liên tục, phải có báo cáo, điều tra, hướng dẫn việc
16
kiểm thảo. Sau khi công khai, thật thà tự phê bình và phê bình, cán bộ, đảng
viên phải kiên quyết sửa đổi những sai lầm, khuyết điểm.
Hồ Chí Minh coi các biện pháp về tư tưởng như giáo dục, thuyết phục,
các biện pháp phòng ngừa là nền tảng trong cuộc đấu tranh chống tham ô, lãng
phí, quan liêu. Đồng thòi, Người luôn nhấn mạnh việc nghiêm trị các hành vi
tham ô, lãng phí. Việc xử lý nghiêm khắc hành vi tham ô, lãng phí phải đúng
các quy định của pháp luật, không được nể nang người có chức vụ, địa vị, với
mục đích bảo vệ công lý, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật, răn đe, làm
gương cho những người đang hoặc có ý định tham ô. Người chỉ thị: “Pháp luật
phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề
nghiệp gì”. Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu, vốn là người có
công với cách mạng, nhưng đã có hành động tham ô tài sản của Nhà nước.
Toà án kết án Trần Dụ Châu tử hình. Gia đình Trần Dụ Châu đã làm đơn gửi
Hồ Chí Minh xin được ân giảm. Nhưng Hồ Chí Minh bác đơn xin ân giảm đó.
Và hình phạt đã được thi hành. Đây chính là sự thể hiện sinh động, cụ thể, rõ
nét quan điểm, sự nghiêm khắc của Bác đối với hành vi tham ô, lãng phí.
d) Vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước trong cuộc đẩu tranh
chống tham nhũng, lãng phi
Trong công cuộc đấu tranh chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan
liêu, các cơ quan thanh tra nhà nước đóng vai trò rất quan trọng. Hồ Chí Minh
huấn thị: “các ban thanh tra phải chú ý kiểm tra chống lãng phí, tham ô. Phát
hiện ra những việc lãng phí, tham ô, chẳng những cần báo cáo với Trung ương
và Chính phủ giải quyết mà còn phải giúp các cấp lãnh đạo địa phương tìm ra
được những biện pháp để tích cực chống lãng phí, tham ô”.
Như vậy, thanh tra, kiểm tra không những để phát hiện vi phạm, phát
hiện tham ô, lãng phí để xử lý. Quan trọng hơn, qua kiểm tra, các cơ quan
thanh tra nhà nước tìm hiểu nguyên nhân tham ô, lãng phí, từ đó, kiến nghị với
- Xem thêm -