Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khóa luận so sánh tu từ trong gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi của lưu qua...

Tài liệu Khóa luận so sánh tu từ trong gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi của lưu quang vũ

.PDF
93
196
78

Mô tả:

2 ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KHOA NGỮ VĂN -------- SO SÁNH TU TỪ TRONG GIÓ VÀ TÌNH YÊU THỔI TRÊN ĐẤT NƯỚC TÔI CỦA LƯU QUANG VŨ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH CỬ NHÂN VĂN HỌC Người hướng dẫn: PGS. TS. Bùi Trọng Ngoãn Người thực hiện: NGUYỄN THỊ KIỀU NHUNG (Khóa 2015 – 2019) Đà Nẵng, tháng 4 / 2018 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong khóa luận là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Nếu không đúng như trên, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm Đà Nẵng, ngày 20 tháng 4 năm 2018 Tác giả luận án Nguyễn Thị Kiều Nhung 4 TRANG GHI ƠN Chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và giúp đỡ của PGS. TS. Bùi Trọng Ngoãn trong quá trình hoàn thành khóa luận này. Chân thành cảm ơn quý thầy cô trong khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng đã giảng dạy nhiệt tình trong suốt quá trình học tập tại trường và quý thầy cô trong Hội đồng chấm khóa luận. Trong quá trình học tập và thực hiện khóa luận này luôn có sự giúp đỡ và chia sẻ của các bạn và gia đình. Tôi xin chân thành cảm ơn. 5 MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1 NỘI DUNG ................................................................................................................ 5 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU .......................................................................................................... 5 1.1. Khái niệm so sánh tu từ và phân loại................................................................... 5 1.1.1. Khái niệm so sánh tu từ ................................................................................... 5 1.1.2. Phân loại so sánh tu từ..................................................................................... 8 1.1.2.1. Theo quan điểm của Cù Đình Tú .................................................................. 8 1.1.2.2. Theo quan điểm của Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa ......................... 9 1.1.2.3. Theo quan điểm của Hữu Đạt ..................................................................... 10 1.1.2.4. Theo quan điểm của Bùi Trọng Ngoãn ....................................................... 12 1.2. Lưu Quang Vũ và tuyển thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi .................. 13 1.2.1. Lưu Quang Vũ – nhà thơ, nhà văn tài hoa mà bạc mệnh .............................. 13 1.2.2. Tuyển thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi .......................................... 14 CHƯƠNG 2 KHẢO SÁT VỀ SO SÁNH TU TỪ TRONG GIÓ VÀ TÌNH YÊU THỔI TRÊN ĐẤT NƯỚC TÔI CỦA LƯU QUANG VŨ .................................... 16 2.1. So sánh tu từ “A như B” .................................................................................... 16 2.1.1. Dạng đầy đủ: “A – cơ sở so sánh – từ chức năng – B” ................................. 16 2.1.1.1. Khi cơ sở so sánh là cụm từ ........................................................................ 16 2.1.1.2. Khi cơ sở so sánh là từ ................................................................................ 20 2.1.2. Dạng sơ giản: “A – từ chức năng – B” .......................................................... 23 2.1.2.1. Từ chức năng là “như” ................................................................................ 24 2.1.2.2. Từ chức năng khác ...................................................................................... 25 2.1.3. Phân tích thành phần thuyết minh của B trong so sánh tu từ “A như B” ...... 28 2.1.3.1. Thành phần thuyết minh của B khi có cơ sở so sánh .................................. 28 2.1.3.2. Thành phần thuyết minh của B khi không có cơ sở so sánh ....................... 29 2.2. So sánh tu từ “A là B” ....................................................................................... 32 2.2.1. Dạng sơ giản: “A – từ chức năng – B” .......................................................... 32 2.2.1.1. Từ chức năng “là” ....................................................................................... 32 2.2.1.2. Từ chức năng là phó từ kết hợp với “là” ..................................................... 33 2.2.2. Phân tích thành phần thuyết minh của B trong so sánh tu từ “A là B” ......... 34 2.3. So sánh tu từ “A//B” (so sánh song hành) ......................................................... 36 2.3.1. Dạng đầy đủ của so sánh song hành: “A – cơ sở so sánh – B” .................... 36 2.3.2. Dạng sơ giản của so sánh song hành: “A – B” .............................................. 37 6 2.3.3. Phân tích thành phần thuyết minh của B trong so sánh song hành ............... 38 2.4. Nhận xét chung .................................................................................................. 40 2.4.1. Cái được so sánh: A ...................................................................................... 40 2.4.2. Cái dùng để so sánh: B .................................................................................. 41 2.4.3. Hiện tượng bao gộp nhiều cấu trúc so sánh .................................................. 41 2.4.4. Sự kết hợp giữa các biện pháp so sánh tu từ trong một đoạn thơ ................. 42 CHƯƠNG 3 NĂNG LỰC BIỂU ĐẠT CỦA CÁC LOẠI SO SÁNH TU TỪ TRONG GIÓ VÀ TÌNH YÊU THỔI TRÊN ĐẤT NƯỚC TÔI CỦA LƯU QUANG VŨ ............................................................................................................................ 43 3.1. Tầm tác động của biện pháp so sánh tu từ trong Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi của Lưu Quang Vũ với nội dung thể hiện của tập thơ ........................................ 43 3.1.1. Một tình yêu mãnh liệt, một cảm xúc dạt dào dành cho đất nước, nhân dân và thời đại với sự tiếp sức của phép so sánh tu từ ........................................................ 43 3.1.2. Một thế giới tình yêu nhiều cung bậc được bổ trợ bằng phép so sánh tu từ . 45 3.1.2.1. Những cung bậc cảm xúc trong tình yêu được diễn tả bằng so sánh tu từ . 45 3.1.2.2. Hình ảnh và những cảm nhận về người yêu diễn đạt thông qua so sánh tu từ ...................................................................................................................... 48 3.2. So sánh tu từ đối với tư duy nghệ thuật của Lưu Quang Vũ ............................. 49 3.2.1. Tư duy nghệ thuật được thể hiện qua cái được so sánh (A) trong thơ Lưu Quang Vũ ........................................................................................................................ 50 3.2.2. Tư duy nghệ thuật được thể hiện qua cái dùng để so sánh (B) trong thơ Lưu Quang Vũ .................................................................................................................. 53 3.2.3. Tư duy nghệ thuật thể hiện qua kiểu liên tưởng trong thơ Lưu Quang Vũ ... 58 3.3. So sánh tu từ đối với phong cách ngôn ngữ thơ Lưu Quang Vũ ....................... 60 3.3.1. Cái nhìn giàu tính phát hiện .......................................................................... 60 3.3.2. Hình ảnh thơ gợi mở trí tưởng tượng và hình ảnh so sánh gắn với trạng thái cảm xúc ..................................................................................................................... 62 3.3.3. Cấu trúc so sánh tu từ phong phú .................................................................. 63 3.3.3.1. Cấu trúc bao gộp ......................................................................................... 63 3.3.3.2. Cấu trúc kết hợp .......................................................................................... 63 3.3.4. So sánh tu từ trong thơ Lưu Quang Vũ sâu sắc trong năng lực biểu đạt ...... 65 3.3.5. “Thơ tôi là mây trắng của đời tôi” ................................................................ 66 KẾT LUẬN ............................................................................................................. 68 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 70 PHỤ LỤC ................................................................................................................ 72 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Lưu Quang Vũ được bước chân vào thế giới văn chương khi còn rất trẻ. Tập thơ đầu tay Hương cây – Bếp lửa (in chung với Bằng Việt, 1968) được đón nhận nồng nhiệt. Viết phê bình nghệ thuật văn học, viết truyện và 55 vở kịch bản đã đưa tên tuổi Lưu Quang Vũ trở thành một tác giả lớn. Tuy nhiên, thơ mới là thể loại có sức hấp dẫn Lưu Quang Vũ nhất. Các tác phẩm thơ ca của Lưu Quang Vũ đã khẳng định tài năng của nhà thơ này và cũng được nghiên cứu trên nhiều phương diện. Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi là tuyển thơ được chọn lọc từ các tập thơ đã công bố và đặc biệt là sự xuất hiện của các bài thơ trong tập Cuốn sách xếp lầm trang mà trước khi qua đời Lưu Quang Vũ chưa kịp xuất bản. Sử dụng các biện pháp tu từ để làm nổi bật hình ảnh là thủ pháp quen thuộc trong văn chương Việt Nam. Mặc dù quen thuộc song ở mỗi tác giả, các biện pháp tu từ ấy bao giờ cũng là một sự sáng tạo bởi kiểu tư duy nghệ thuật và năng lực sử dụng các phương tiện ngôn ngữ. Trong đó, biện pháp tu từ so sánh là một trong số những biện pháp được Lưu Quang Vũ sử dụng khá nhiều và đó cũng là một yếu tố ngôn ngữ giúp các tác phẩm thơ của ông trở nên sâu sắc hơn. Nghiên cứu về Lưu Quang Vũ nói chung và thơ của Lưu Quang Vũ nói riêng thì đã có nhiều công trình nghiên cứu song nhận thấy nghiên cứu về các biện pháp tu từ trong thơ Lưu Quang Vũ cũng còn ít và chỉ tập trung ở bề mặt theo chiều rộng. Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài So sánh tu từ trong Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi của Lưu Quang Vũ nhằm đi sâu thêm về biện pháp so sánh tu từ và tác dụng tạo hình của nó trong Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi để thấy được tài năng của tác giả cũng như nhìn nhận, đánh giá thêm về giá trị của tác phẩm. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nói đến Lưu Quang Vũ thập niên 70, 80 của thế kỉ XX, người ta chỉ biết đến chủ yếu với các tác phẩm kịch và truyện, thơ ca của Lưu Quang Vũ được biết tới ít hơn trong giai đoạn đó, chỉ có tập thơ đầu tay in chung với Bằng Việt Hương cây – Bếp lửa (1968). Các tập thơ của Lưu Quang Vũ sau đó trở thành đề tài thu hút rất đông người nghiên cứu, và các kết quả nghiên cứu này đã đem đến cái nhìn mới cùng với sự khám phá những giá trị mới trong thơ Lưu Quang Vũ. Trong quá trình tìm hiểu 2 đề tài chúng tôi nhìn nhận được các vấn đề: Nói về tài năng và lao động nghệ thuật của nhà thơ phải kể đến Lưu Quang Vũ tài năng và lao động nghệ thuật do Lưu Khánh Thơ biên soạn. Trong cuốn sách này đã giới thiệu được nhiều bài viết của các nhà văn, nhà phê bình nổi tiếng đã cho thấy được những đánh giá của giới phê bình về Lưu Quang Vũ ở nhiều góc độ: Hoài Thanh, Lê Đình Kỳ, Vũ Quần Phương, Phạm Xuân Nguyên, Anh Ngọc, Hoàng Sơn, … Bài viết đầu tiên về Lưu Quang Vũ là Một cây bút trẻ nhiều triển vọng của Hoài Thanh. Bằng “đôi mắt xanh” của một nhà phê bình đã sống chết với thơ từ thời tiền chiến, ông dự cảm về một Lưu Quang Vũ của tương lai: “Thơ văn ta nói về tình quê hương đã có những lời thật thiết tha, đằm thắm…bao nhiêu tầng lớp nhà thơ nói hoài vẫn không trùng, không cạn. Đến lượt mình, Lưu Quang Vũ đã góp tiếng nói của anh. Một tiếng nói nhỏ nhẹ mà sâu”[28, tr.8], “Cảm xúc của anh thường nhuần nhị, lời thơ cũng thời nhuần nhị. Ý có khi mượn chỗ này chỗ nọ nhưng giọng thì đúng là giọng của anh” [28, tr.19] và kết lại Hoài Thanh cho rằng “ Năng khiếu của anh đã rõ. Miễn anh đi đúng, nhất định anh sẽ đi xa ”[28, tr.22]. Theo Vũ Quần Phương, với đông đảo công chúng rằng Lưu Quang Vũ được biết đến là một nhà viết kịch song thơ mới là nơi Lưu Quang Vũ ký thác nhiều nhất trong bài Đọc thơ Lưu Quang Vũ: “… Nhưng đọc hết các bản thảo anh để lại, tôi thấy thơ mới là nơi anh ký thác nhiều nhất và tôi tin nhiều bài thơ của anh sẽ thắng được thời gian.”[28, tr.33]. Ông cũng đã phát hiện ra cái khác biệt ở Lưu Quang Vũ với các nhà thơ cùng thời: “đặc biệt là một giọng thơ rất đắm đuối”, “ đắm đuối là một đặc điểm của suốt đời Lưu Quang Vũ”, “cái giọng say đắm, đắm đuối của Lưu Quang Vũ lúc ấy rất được mến chuộng”, “đắm đuối là bản sắc cảm xúc của Lưu Quang Vũ” [28, tr.36-38]. Bích Thu đã thể hiện lòng thương cảm và chia sẻ với nỗi đau của Lưu Quang Vũ trong những vần thơ viết về chiến tranh qua Những bài thơ sống với thời gian. Chính những lời thơ đầy đau thương, mất mát, những day dứt thể hiện ở nỗi đau tâm hồn và cay nghiệt của số phận là yếu tố khiến thơ Lưu Quang Vũ sống mãi trong lòng bạn đọc. Ngoài ra còn nhiều các bài viết khác của Vũ Thị Khánh, Doãn Châu, Tất Thắng, Định Nguyễn, Lưu Khánh Thơ… với những suy nghĩ riêng, cảm nhận riêng của mỗi người nhưng đều thể hiện tình yêu đối với Lưu Quang Vũ và công nhận tài năng của ông. (xem [28]) Thơ trẻ Việt Nam 1965 -1975 khuôn mặt cái tôi trữ tình, Bùi Bích Hạnh đã có những nhìn nhận, đánh giá chung cho các nhà thơ giai đoạn 1965 – 1975, trong đó 3 nhắc đến Lưu Quang Vũ khá nhiều. Nói đến cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ, cái tôi day trở, đa đoan thấm tình người và tình dân tộc để dù trải qua bao đổ vỡ thì “cái tôi trữ tình trong thế giới nghệ thuật ấy vẫn đến được thềm cao của niềm tin, vẫn lấy lại tin yêu từ trong cõi sống”. Lưu Quang Vũ cũng khẳng định những thành công trong việc sử dụng các thủ pháp nghệ thuật “lạ hóa”, “tự do”, “cách điệu” của thơ trẻ. (xem [8]) Tuy nhiên, có thể thấy rằng việc nghiên cứu thơ Lưu Quang Vũ ở phương diện ngôn ngữ học mới chỉ dừng ở những bài viết riêng lẻ hoặc một số các luận văn, luận án chứ chưa thực sự có công trình nào làm nổi bật được bản sắc thơ của Lưu Quang Vũ. Có thể kể đến một số khóa luận tham khảo được: Ẩn dụ bổ sung trong thơ Lưu Quang Vũ (2016) của Nguyễn Thị Thảo My; Các biện pháp tu từ theo quan hệ liên tưởng trong tập thơ “Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi” của Lưu Quang Vũ (2016) khóa luận tốt nghiệp của Đỗ Thị Thảo; Đặc điểm ngôn ngữ thơ tình Lưu Quang Vũ (2012) luận văn thạc sỹ của Lê Lan Hương… là các nghiên cứu bao quát ở góc nhìn ngôn ngữ vào thơ Lưu Quang Vũ. So sánh tu từ là một biện pháp xuất hiện rất sớm trong ngôn ngữ văn chương, vốn đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước đề cập đến. Trong việc nghiên cứu về phép so sánh tu từ thì ở Việt Nam hiện nay đã có rất nhiều nghiên cứu, có một số các tác giả tiêu biểu: Đinh Trọng Lạc với Giáo trình Việt ngữ, 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Phong cách học tiếng Việt; Hữu Đạt với Phong cách học tiếng Việt hiện đại; Cù Đình Tú có Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt; Võ Bình và Lê Anh Hiền có Phong cách học - thực hành tiếng Việt…Trong khi Đinh Trọng Lạc khảo sát các câu so sánh ngang bằng tu từ học thì Hữu Đạt cũng có đề nghị một số mô hình của cấu trúc so sánh ngang bằng, hơn kém và nhất, song tác giả chưa phân tích sâu vào cơ chế hoạt động của các thành tố tạo nên câu so sánh. Các luận văn, bài viết, đề tài nghiên cứu khoa học về so sánh tu từ trong văn học cũng được nghiên cứu từ sớm. Song việc nghiên cứu về so sánh tu từ trong tập thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi của Lưu Quang Vũ chưa được đi sâu, làm rõ mà chỉ có một số luận văn và bài viết tìm hiểu về các biện pháp tu từ từ vựng, các biện pháp tu từ cấu tạo theo quan hệ liên tưởng trong tuyển tập này. Với những tìm tòi và nghiên cứu được, chúng tôi nhận thấy cần đi sâu hơn, vận dụng lý thuyết so sánh tu từ để tìm hiểu thêm nghệ thuật trong Gió và tình yêu 4 thổi trên đất nước tôi. Đó không chỉ là để hiểu thêm về tập thơ về tác giả mà còn nhằm mục đích tạo thêm những hướng đi mới nghiên cứu về thơ Lưu Quang Vũ. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: biện pháp so sánh tu từ . Phạm vi nghiên cứu: trong tuyển thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi của Lưu Quang Vũ xuất bản năm 2017 của nhà xuất bản Hội Nhà văn. 4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ Thực hiện đề tài nghiên cứu này nhằm đi sâu hơn vào một khía cạnh phong cách nghệ thuật trong thơ Lưu Quang Vũ. Đồng thời, chúng tôi muốn tìm hiểu rõ hơn về giá trị của so sánh tu từ trong tuyển thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi. Gắn liền với mục đích nghiên cứu là nhiệm vụ nghiên cứu, nhiệm vụ phải chỉ ra được những điểm mới khi đánh giá tập thơ trên một bình diện mới. Theo đó, đúc kết được giá trị của biện pháp so sánh tu từ tác động đến nhà thơ và được thể hiện trong tác phẩm như thế nào. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong khóa luận này, tôi sử dụng các thủ pháp: - Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại - Phương pháp so sánh, đối chiếu Ngoài các thủ pháp nêu trên ra thì chúng tôi sử dụng phương pháp chủ yếu là phương pháp phân tích và miêu tả. 6. Bố cục đề tài Ngoài mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài bao gồm ba chương như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận và tổng quan đối tượng nghiên cứu Chương 2: Khảo sát về so sánh tu từ trong tuyển thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi của Lưu Quang Vũ Chương 3: Năng lực biểu đạt của so sánh tu từ trong Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi của Lưu Quang Vũ. 5 NỘI DUNG CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 1.1. Khái niệm so sánh tu từ và phân loại 1.1.1. Khái niệm so sánh tu từ Tu từ là một khái niệm được bắt nguồn từ tiếng La-tinh “figura” mang ý nghĩa “bóng bẩy”, “lôi cuốn”, “có sức hấp dẫn”. Từ thời cổ Hy Lạp, người ta đã coi tu từ là công cụ riêng của nghệ thuật viết văn cho tới nay nó là hình thức diễn đạt chung cho mọi phong cách nhằm làm đẹp, làm hay, làm tăng sức biểu cảm cho ngôn ngữ. Hữu Đạt nhận định: “So sánh là đặt hai hay nhiều sự vật, hiện tượng vào các mối quan hệ nhất định nhằm tìm ra sự giống nhau và khác biệt giữa chúng” [3, tr.363]. Với quan điểm của Hữu Đạt về so sánh cũng là quan điểm chung về so sánh trong ngôn ngữ trong giới nghiên cứu Việt. Như đã nói, so sánh tu từ xuất hiện từ rất sớm, tới nay trên thế giới và cả ở Việt Nam có nhiều nghiên cứu về so sánh tu từ. Ở Việt Nam so sánh tu từ đã được nhiều nhà ngôn ngữ nghiên cứu: Cù Đình Tú, Đinh Trọng Lạc, Hữu Đạt, Lê Anh Hiền, Bùi Trọng Ngoãn… Thông qua một số các giáo trình của Cù Đình Tú (xem [30]), Hữu Đạt (xem [3]), Đinh Trọng Lạc (xem [10;12]), Lê Anh Hiền, Võ Bình (xem [2]), Bùi Trọng Ngoãn (xem [19]) chúng tôi thấy: Trong Phong cách học – thực hành tiếng Việt,Võ Bình và Lê Anh Hiền có viết: “So sánh là đối chiều hai hiện tượng, hai sự kiện, nhằm làm nổi bật đặc điểm của hiện tượng, sự kiện này, nhờ những tính chất có dấu hiệu chung được biểu hiện cụ thể ở hiện tượng, sự kiện kia. Đó là hình thức miêu tả sinh động, có khả năng khắc họa hình ảnh và gây ấn tượng mạnh mẽ, chứ không phải là sự giải thích thuần túy, có tính chất logic”.[2, tr.90]. Còn Đinh Trọng Lạc cho rằng: “So sánh tu từ (còn gọi: so sánh hình ảnh) là một biện pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó người ta đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực tế khách quan, không đồng nhất với nhau hoàn toàn, mà chỉ có một nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng.” [12, tr.239]. Đó cũng là nhận định của hầu hết các nhà nghiên cứu ngôn ngữ hiện nay tại Việt Nam. Trong khi đề cập đến khái niệm so sánh tu từ các nhà nghiên cứu cũng lưu ý cần phân biệt giữa so sánh tu từ và so sánh logic, so sánh lí luận. Tập hợp từ nhiều nguồn, chúng tôi xác định: 6 So sánh tu từ So sánh logic Đối tượng Khác loại, khác phạm vi biểu vật Cùng loại, cùng phạm vi biểu so sánh vật Mục đích Cách nói hình ảnh nhằm diễn đạt đặc Xác lập sự tượng đương giữa so sánh điểm của một đối tượng, có tính biểu hai đối tượng, nhấn mạnh tính cảm, thẩm mỹ trong nhận thức người tương đương về mặt giá trị tiếp nhận Phương Dựa vào nét cá biệt giống nhau giữa Dựa vào tính đồng chất, đồng so các đối tượng thức loại giữa các đối tượng sánh Yêu cầu Cần phải có sự chọn lọc về hình ảnh Đơn giản, không cần yêu cầu so sánh so sánh, phải chọn những hình ảnh cao về cách dùng từ cũng như sinh động và khó thể thay thế được các diễn đạt, không cần có sự hình ảnh đã chọn bằng hình ảnh khác tuyển chọn về hình ảnh so vì vậy nó mang tính nghệ thuật cao. sánh. Mang tính khách quan Mang đậm dấu ấn cá nhân của người sử dụng Ví dụ Em nông nổi như một dòng suối chảy Mặt con cũng dài như mặt bố (Lưu Quang Vũ) Phép so sánh tu từ được hình thành dựa trên quy luật đối chiếu nét liên tưởng tương đồng của hai hay nhiều đối tượng không cùng loại để gợi hình, gợi cảm. Còn so sánh logic chỉ là sự đối chiếu nét giống nhau giữa hai vật cùng loại. Hiện nay có nhiều cách gọi khác nhau tùy vào từng nhà nghiên cứu: phép so sánh tu từ, cách so sánh tu từ, so sánh nghệ thuật, phương thức so sánh tu từ,… Nhưng dù với cách gọi nào thì so sánh tu từ có cấu trúc hoàn chỉnh gồm 4 phần. Theo PGS. TS. Bùi Trọng Ngoãn, cấu trúc 4 phần của so sánh tu từ được gọi tên như sau: (1) Cái được so sánh ( cái chưa biết, cái cần được giải thích): A (2) Cơ sở so sánh (nét tương đồng, vốn là thuộc tính, đặc trưng của cái dùng để so sánh có sự tương đồng với một khía cạnh nào đó của cái được so sánh) (3) Từ chức năng (từ dùng để so sánh) 7 (4) Cái dùng để so sánh ( cái đã biết, dùng làm phương tiện thuyết giải, là cái dùng làm chuẩn, lý tưởng thẩm mĩ): B Trong giáo trình Phong cách học Tiếng Việt [19, tr.33] của Bùi Trọng Ngoãn có ví dụ cụ thể sau: Cái được so sánh Cơ sở so sánh Từ chức năng Cái dùng để so sánh (1) (2) (3) (4) Mắt Sắc Như Dao cau Trong đó: - Cái được so sánh kí hiệu: A - Cái dùng để so sánh kí hiệu: B - Lưu ý: Chỉ riêng Nguyễn Thái Hòa lại gọi cái được so sánh là (B) và cái dùng so sánh là (A). Còn các nhà nghiên cứu ngôn ngữ khác đều thống nhất như trên. Trong phép so sánh tu từ thì (A) và (B) là các yếu tố bắt buộc không thể thiếu. Ta có thể viết gọn cấu trúc đầy đủ của so sánh tu từ: A – cơ sở so sánh- từ chức năng - B Theo mô hình trên, chúng ta có nhiều cách biến đổi khác nhau tạo ra các biến thể: - Lượt bớt cơ sở so sánh: A- từ chức năng - B “Con mắt em liếc như là dao cau” (Ca dao) - Lượt bớt, cơ sở so sánh và từ chức năng: A – B “Gái thương chồng đang đông buổi chợ Trai chưa vợ nắng quái chiều hôm” (Ca dao) - Đảo trật tự: Từ chức năng – A – B “Như hai dòng sông gặp gỡ đổi phù sa Nhập luồng nước, hòa nhau màu sắc Trao cảm thương hai bàn tay nắm chặt Nghe máu mẹ cha chuyển giữ mỗi tay mình” (Hơi ấm bàn tay – Lưu Quang Vũ) Khi có cơ sở so sánh thì gọi là trường hợp so sánh nổi và những trường hợp không có cơ sở so sánh thì được gọi là so sánh chìm. Ở những trường hợp so sánh chìm người đọc phải dựa vào cái dùng để so sánh để tìm ra cơ sở so sánh. Ngoài ra, 8 một số trường hợp không có cơ sở so sánh thì cái dùng để so sánh sẽ được thuyết minh: “Thân em như hạt mưa sa Hạt vào đài các, hạt ra cánh đồng” (Ca dao) Ở trường hợp này, ta có “hạt vào đài các, hạt ra cánh đồng” là thuyết minh cho “hạt mưa sa”. Dựa vào phần thuyết minh ta có thể suy ra được cơ sở so sánh là sự nhỏ bé, số phận may rủi, không tự quyết định được, không thể biết trước được sang hèn hay nghèo khổ. Từ những kiến thức thu thập được, ngoài những hiểu biết chung về các khái niệm, cấu tạo của phép so sánh tu từ thì việc phân loại phép so sánh tu từ cũng là một yếu tố quan trọng để thực hiện nghiên cứu này. 1.1.2. Phân loại so sánh tu từ Từ cấu trúc hoàn chỉnh của so sánh tu từ: A – cơ sở so sánh – từ chức năng – B ngoài các biến thể như đã nói ở trên, mỗi nhà nghiên cứu lại có quan niệm phân loại khác nhau trong nghiên cứu so sánh tu từ. 1.1.2.1. Theo quan điểm của Cù Đình Tú Trong Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt hiện đại, Cù Đình Tú đã căn cứ hai mặt hình thức và nội dung để phân loại. Dựa vào đó, Cù Đình Tú hình thành các công thức so sánh sau: - A như (tựa như, giống như…) B Đôi ta làm bạn thong dong Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng (Ca dao) - A bao nhiêu B bấy nhiêu Qua đình ngả nón trông đình Đình bao nhiêu ngói trông mình bấy nhiêu (Ca dao) - A là B Từ “là” được sử dụng với ý nghĩa và giá trị tương đương với “như”. (1): “Lũ đế quốc như là bầy dơi hốt hoảng” (2): “Lũ đế quốc là bầy dơi hốt hoảng” 9 Qua hai ví dụ trên có thể nhận ra, (1) mang sắc thái giả định còn (2) có sắc thái khẳng định. Điều đó cho thấy mặc dù “là” và “như” có ý nghĩa và giá trị tương đương song sắc thái biểu cảm của chúng lại khác nhau. Cù Đình Tú cũng nhận định rõ ràng: ““Như” có sắc thái giả định, “là” có sắc thái khẳng định” [30, tr.176]. Phó giáo sư cũng nói thêm về so sánh giữa phán đoán logic khẳng định với công thức “S là P” và cấu trúc “A là B”. Về mặt nội dung, Cù Đình Tú chia thành hai loại so sánh: So sánh nổi và so sánh chìm. Tác giả nhận thấy “các đối tượng nằm trong hai vế so sánh tu từ là khác loại nhưng lại có một nét giống nhau nào đó, tạo thành cơ sở cho so sánh tu từ” [30, tr.177]. Trong đó, so sánh tu từ nổi là các phép so sánh tu từ có nét giống nhau biểu hiện ra bằng các từ ngữ cụ thể: “Dù ai nói ngả nói nghiêng Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân” (Ca dao) Và, nét giống nhau khi không được phô bày ra bằng từ ngữ cụ thể mà người đọc phải tự tìm ra được gọi là so sánh tu từ chìm: “Chủ nghĩa Lênin là cái cẩm nang thần kì” (Hồ Chí Minh). 1.1.2.2. Theo quan điểm của Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa Theo nguồn khảo cứu của chúng tôi, tác giả Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa trong Phong cách học tiếng Việt gần đồng quan điểm với Cù Đình Tú, Nguyễn Thái Hòa thể hiện quan điểm của bản thân về so sánh tu từ trong Phong cách học tiếng Việt như sau: Hình thức đầy đủ nhất của phép so sánh tu từ gồm bốn yếu tố đã kể: A - cơ sở so sánh – Từ so sánh – B Cùng với đó, Nguyễn Thái Hòa chia ra tùy từng trường hợp tạo ra các biến thể: - Đảo ngược trật tự so sánh: Chòng chành như nón không quai Như thuyền không lái như ai không chồng (Ca dao) Ở trường hợp này nếu đúng theo mô hình chuẩn thì: “ai không chồng” chòng chành như “nón không quai”, “thuyền không lái”. Việc đảo trật tự so sánh nhằm để nổi bật tính chất của cơ sở so sánh – chòng chành. 10 - Bớt cơ sở so sánh: Ai về ai ở mặc ai Ta như dầu đượm thắp hoài năm canh (Ca dao) - Bớt từ so sánh: “Gái thương chồng, đương đông buổi chợ…” (Ca dao) - Thêm “bao nhiêu”, “bấy nhiêu”: Qua đình ngả nón trông đình Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu (Ca dao) - Dùng “là” làm từ so sánh Nguyễn Thái Hòa nói thêm, đây là loại so sánh ẩn dụ, gọi như vậy là vì “là” có chức năng liên hệ so sánh ngầm mà không phải “là” trong kiểu câu tường giải khái niệm: Gió thổi là chổi trời Nước mưa là cưa trời. (Tục ngữ) Mở rộng thêm trong Phong cách học tiếng Việt (1997), Đinh Trọng Lạc có viết thêm về so sánh chìm (tức so sánh vắng yếu tố 2) và so sánh đối chọi (tức so sánh sử dụng chỗ ngắt giọng). 1.1.2.3. Theo quan điểm của Hữu Đạt Cho đến 2016 xuất hiện quan điểm của Hữu Đạt trong Phong cách học tiếng Việt hiện đại, xem xét phép so sánh có thể dựa vào mặt cấu trúc hoặc ngữ nghĩa của nó, ông chia ra 5 loại: - So sánh không có từ so sánh: A - B “Bác ngồi đó lớn mênh mông Trời cao biển rộng ruộng đồng nước non” (Sáng tháng năm - Tố Hữu) Tác giả cho rằng phép so sánh được thực hiện bởi ngữ điệu kết thúc một dòng thơ. - So sánh có từ so sánh: A x B 11 Trong dạng A x B, Hữu Đạt chia nhỏ ra các dạng biến thể như sau: A x B; A x B1, B2; A x B1 x B2 Ví dụ: “Đẹp như tiên” “Con sẽ chết như những người đã chết Và những người đang chết” (Thưa mẹ, trái tim – Trần Quang Long) “Ta yêu mưa như yêu gì thân thiết Như tre, dừa, như làng xóm quê hương Như những con người – biết mấy yêu thương” (Nhớ mưa quê hương – Lê Anh Xuân) - So sánh ngang bằng: như, bao nhiêu… bấy nhiêu, là “Nhớ lại hồi kháng chiến, mỗi lần nhìn về phía Đà Nẵng, tôi nhớ Ngân như một con bướm trắng bay chập chờn trong khói súng” (Nguyễn Văn Bổng) - So sánh bậc hơn – kém: cao hơn, hơn, kém “Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn Làn thu thủy, nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh” (Truyện Kiều – Nguyễn Du) - So sánh bậc cao nhất “Ôi lòng Bác bao la trong Di chúc Vẫn hạt lúa củ khoai chân chất bình thường Cả dân tộc khóc Người thương mình nhất Người được thương trên tất cả người thương Người suốt đời quên mình cho Tổ quốc” (Muôn vạn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương – Việt Phương) Chúng tôi nhận thấy mô hình khái quát mà tác giả đưa ra chưa thật sự rõ ràng, còn gây ra khó hiểu cho người mới tiếp cận. Trong các phân loại và đưa ra ví dụ còn có điểm hạn chế, khi phân loại so sánh có từ so sánh lại có thêm so sánh ngang bằng, so sánh bậc hơn – kém. Thực chất, so sánh ngang bằng, so sánh hơn – kém đều là phép so sánh có sử dụng từ so sánh, lẽ ra tác giả không nên phân thêm hai loại sau. 12 Còn trong phần ví dụ về so sánh bậc cao nhất, Hữu Đạt có đưa ra ví dụ: “Thế thì thật đáng tiếc. Trong tất cả các tiểu thuyết Đông Tây, có hai quyển tôi mê nhất là Tam quốc và Đông Chu liệt quốc. Về các môn tiểu thuyết thì thằng Tàu nhất” (Đôi mắt – Nam Cao) [3, tr.369]. Chúng tôi cho rằng, việc so sánh “mê” “Tam quốc”, “Đông Chu liệt quốc” nhất trong các tiểu thuyết Đông Tây không phải là so sáng tu từ mà đây là so sánh logic, bởi giữa “tiểu thuyết Đông Tây” và “Tam quốc”, “Đông Chu liệt quốc” đều chung loại, và “Tam quốc” cùng “Đông Chu liệt quốc” thuộc phạm vi biểu vật của “tiểu thuyết Đông Tây”. Như vậy, tạm kết luận rằng quan điểm của Hữu Đạt còn những hạn chế, chưa rõ ràng và xác tín. 1.1.2.4. Theo quan điểm của Bùi Trọng Ngoãn Đồng quan về cách chia hình thức với Cù Đình Tú, Tiến sĩ Bùi Trọng Ngoãn cũng chia so sánh tu từ thành ba loại trên và có thêm loại: A  B. Quan điểm về phân loại so sánh tu từ được tác giả làm rõ hơn trong bài báo “Bàn thêm về phép so sánh tu từ” in trên tạp chí Khoa học và Công nghệ. Trong đó, tác giả phân tích sâu hơn về từ chức năng, cơ sở so sánh, mô hình bao nhiêu…bấy nhiêu và đặc biệt là cấu trúc A hóa B và A thành B có phải là so sánh tu từ hay không. Trong đó, tác giả đã chỉ ra 20 từ, cụm từ là “từ chứng” cho cấu trúc “A như B”: giường như, na ná, chẳng khác, kém, nhường, khác chi… và gọi chúng là “từ ngữ biểu đạt quan hệ so sánh”. Cùng với đó là các đóng góp cách nhìn mới về so sánh chìm, so sánh nổi và lý giải thêm về mô hình bao nhiêu… bấy nhiêu. Giá trị nhất trong bài báo, Bùi Trọng Ngoãn đã đưa ra nhận định của mình về cấu trúc A hóa B và A thành B, tác giả đã đưa ra 5 lý do để chứng minh cho quan điểm của bản thân đó không phải cấu trúc của so sánh tu từ. [21, tr.249 - 261] Qua những kiến thức có được, xét thấy với quan điểm cấu trúc của Hữu Đạt có nhiều phần còn thô sơ và nhiều hạn chế còn quan điểm của Cù Đình Tú chúng tôi khá đồng tình. Bùi Trọng Ngoãn cũng với cách phân loại cấu trúc so sánh tu từ như Cù Đình Tú song lại có phần ngắn gọn hơn, đơn giản hơn, thêm đó phần viết thêm về các vấn đề so sánh tu từ đã làm rõ quan điểm của tác giả nhờ vậy áp dụng để nghiên cứu trong đề tài này sẽ khả thi hơn. Đó là những lý do chúng tôi quyết định sử dụng cách phân loại của tác giả Bùi Trọng Ngoãn cho bài nghiên cứu này, cấu trúc so sánh tu từ gồm 4 loại: A như B; A là B; bao nhiêu … bấy nhiêu; A  B. 13 1.2. Lưu Quang Vũ và tuyển thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi 1.2.1. Lưu Quang Vũ – nhà thơ, nhà văn tài hoa mà bạc mệnh Lưu Quang Vũ là một nhà thơ, nhà văn và một nhà viết kịch nổi tiếng. Trong cuộc đời hoạt động nghệ thuật của Lưu Quang Vũ ông được biết đến nhiều với các tác phẩm kịch và văn xuôi bởi tính hiện thực, chất phê phán và tính dự phóng. Tuy nhiên, con đường thơ của Lưu Quang Vũ lại gặp nhiều trắc trở. Hầu hết các bài thơ của ông không được chấp thuận khi ông còn đương sống song sức sống của chúng lại mãnh liệt hơn, chúng bùng nổ sau khi cha đẻ đã về thế giới bên kia lúc tuổi đời còn quá trẻ. Lưu Quang Vũ sinh năm 1948, tại Phú Thọ và mất năm 1988 trong chuyến xe định mệnh cùng vợ - Xuân Quỳnh, và con Lưu Quỳnh Thơ. Khi nhỏ, ông sống tại Phú Thọ cùng cha mẹ đến năm 1954 gia đình nhà thơ chuyển về sống tại Hà Nội. Thiên hướng và năng khiếu nghệ thuật của nhà thơ đã sớm bộc lộ tự nhỏ và vùng quê trung du Bắc Bộ đó đã in dấu trong các sáng tác của tác giả sau này. Lưu Quang Vũ cũng chịu nhiều ảnh hưởng tích cực của người cha tài hoa – Lưu Quang Thuận. Năm 13 tuổi, Lưu QuangVũ đã giành được giải thưởng của thành phố về cả văn và họa. Lớn lên, Lưu Quang Vũ nhập ngũ và nhanh chóng được biết đến với tư cách là một nhà thơ trẻ tài năng khi mới 20 tuổi qua phần thơ Hương cây in chung với Bằng Việt trong tập Hương cây – Bếp lửa. Năm 1965 đến 1970, Lưu Quang Vũ nhập ngũ, phục vụ trong quân chúng Phòng không – Không quân. Đây là thời kỳ thơ của nhà thơ bắt đầu nở rộ. Năm 1970 đến 1978, Lưu Quang Vũ xuất ngũ sớm và tiếp tục viết truyện, làm thơ trong khi gặp nhiều trắc trở trong cuộc sống. Đây được coi là giai đoạn khó khăn nhất trong cuộc đời Lưu Quang Vũ. Ông làm đủ mọi nghề để mưu sinh, làm ở Xưởng Cao su Đường sắt, làm hợp đồng cho nhà xuất bản Giải phóng, chấm công trong một đội cầu đường, vẽ pa – nô, áp – phích,... Năm 1973, đánh dấu một sự kiện quan trọng cuộc đời Lưu Quang Vũ, gắn bó với Xuân Quỳnh, tác giả không chỉ có được một người bạn đời mà còn có được một người bạn văn, cùng nhau vượt qua những năm tháng gian khổ, lận đận. Trước đó, Lưu Quang Vũ đã có một mái ấm cùng tình đầu là diễn viên Tố Uyên, nhưng nữ diễn viên ra đi để lại cho Lưu Quang Vũ đứa con trai và nỗi đau lớn. Chính sự ra đi của 14 Tố Uyên đã ảnh hưởng rất nhiều đến một giai đoạn sáng tác của ông, cho mãi đến khi tình yêu với Xuân Quỳnh đơm hoa thì các sáng tác lại được thay sắc mới. Năm 1978, Lưu Quang Vũ làm biên tập ở Tạp chí Sân khấu, ông viết báo, và cuối năm 1979 cuốn Diễn viên và sân khấu ra đời. Cũng năm này vở kịch đầu tay Sống mãi tuổi 17 (viết lại theo kịch bản của Vũ Duy Kỳ) của ông ra mắt công chúng và được đánh giá cao. Ngày 29 tháng 8 năm 1988, Lưu Quang Vũ đột ngột qua đời trong một vụ tai nạn giao thông cùng vợ và con trai út. Ông ra đi khi tuổi đời vừa mới 40. Thế nhưng ông đã kịp để lại cho đời rất nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật trên những thể loại mà ông đã tham gia sáng tác: thơ, truyện ngắn, kịch. Với những đóng góp của mình, năm 2000 Lưu Quang Vũ được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tài năng của Lưu Quang Vũ được ghi nhận từ những chặng đường đầu tiên vào nghề và cho đến nay, ông luôn giành được sự yêu mến của bạn đọc, những người hâm mộ thơ văn. 1.2.2. Tuyển thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi là tuyển thơ do nhà thơ, nhà nghiên cứu Lưu Khánh Thơ đồng thời là em gái của Lưu Quang Vũ đã tập hợp, biên soạn lại. Gió và tình yêu thôi trên đất nước tôi được xuất bản năm 2010 với 130 bài thơ tập hợp gần như đầy đủ các bài thơ của Lưu Quang Vũ trong các tập thơ trước và có cả những bài chưa được xuất bản trước đây kèm với đó là sự sắp xếp theo trật tự thời gian mà Lưu Khánh Thơ biết được. Điều đặc biệt trong tuyển thơ lần này là sự xuất hiện các hình ảnh thủ bút một số bài thơ của Lưu Quang Vũ với độc giả yêu mến Lưu Quang Vũ và các nhà nghiên cứu văn học thì quả đây là những tư liệu rất có giá trị. Tuyển thơ có sự góp mặt của 130 bài thơ được chia thành 5 phần: Hương cây, Viết cho em từ cửa biển, Đất nước đàn bầu, Mắt của trời xanh và Những đám mây ban sớm. Trong đó, phần Hương cây là những bài thơ trích trong tập thơ Hương cây – Bếp lửa mà Lưu Quang Vũ đã in cùng Bằng Việt từng được bạn đọc đón nhận nồng nhiệt bởi những cảm xúc trong trẻo, thiêng liêng đầy tin cậy. Đó cũng là hồn thơ đậm nét trong những bài thơ đầu tay của ông, nhờ đó từ những ngày đầu tham gia sáng tác Lưu Quang Vũ đã lọt mắt xanh của các nhà nghiên cứu phê bình danh tiếng: Vũ Quần Phương, Hoài Thanh, … Tiếp sau đó những vần thơ viết về đất nước, về con người và về chiến tranh, với những khó khăn trong cuộc sống chung của cả nước và nỗi 15 niềm đa đoan của riêng tác giả, thơ dường như là những trang nhật ký. Lưu Quang Vũ viết để chỉ giữ cho riêng mình, những bài thơ lưu giữ và truyền lại những cảm xúc, suy tưởng của nhà thơ lúc bấy giờ. Những vần thơ đầy dằn vặt, đau xót, cô đơn, trăn trở, hoài nghi, có lúc ngán ngẩm đến tuyệt vọng, những vẫn tha thiết muốn thoát ra khỏi những nỗi chán chường, mệt mỏi, hoài nghi để sống thực sự có ích cho đời. Chính từ đó, Lưu Quang Vũ đã tìm lại và nhận thức được bản thân mình. Lưu Quang Vũ vừa là một nhà thơ, nhà văn và đặc việt là được mến mộ với tư cách nhà viết kịch tài hoa song với ông: “Trên mái nhà cao vút rừng cây Trên rừng cây những đám mây xô dạt Trên hạnh phúc, trên cả niềm cay đắng Thơ tôi là mây trắng của đời tôi.” (Mây trắng của đời tôi) Thơ với ông là cuộc sống đó mới là nơi để ông được là chính mình, một thế giới của riêng ông, mới thấy được hết tài hoa trong bút pháp nghệ thuật của người nghệ sĩ bạc mệnh. Vũ Quần Phương cũng đã nói: “Đọc thơ anh có cảm giác anh viết kịch để sống với mọi người, và làm thơ để sống với riêng mình.” [31, tr.355]
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan