Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khóa luận quán ngữ tình thái trong tiểu thuyết sống mòn của nam cao...

Tài liệu Khóa luận quán ngữ tình thái trong tiểu thuyết sống mòn của nam cao

.PDF
104
142
124

Mô tả:

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM KHOA NGỮ VĂN QUÁN NGỮ TÌNH THÁI TRONG TIỂU THUYẾT SỐNG MÒN CỦA NAM CAO KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH SƢ PHẠM NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. BÙI TRỌNG NGOÃN Ngƣời thực hiện: NGUYỄN TƢỜNG VI (Khóa 2014 – 2018) Đà Nẵng, tháng 5/2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi: Nguyễn Tƣờng Vi xin cam đoan: Những nội dung trong luận văn này là tôi nghiên cứu, thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn của GVHD: PGS.TS Bùi Trọng Ngoãn. Mọi tham khảo trong luận văn này đều đƣợc trích dẫn rõ ràng tên tác giả, tên công trình, thời gian, địa điểm công bố. Tôi xin chịu trách nhiệm về những nội dung khoa học trong công trình này. Đà Nẵng, ngày 24 tháng 4 năm 2018 Ngƣời thực hiện NGUYỄN TƢỜNG VI LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến giảng viên PGS.TS Bùi Trọng Ngoãn, cán bộ giảng dạy khoa Ngữ Văn, trƣờng Đại học Sƣ phạm – Đại học Đà Nẵng đã tận tình hƣớng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm Khoa, các thầy, các cô giáo khoa Ngữ Văn, cùng các bạn bè đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành khóa luận. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các cán bộ đang công tác tại thƣ viện trƣờng Đại học Sƣ phạm – Đại học Đà Nẵng đã giúp đỡ tôi trong quá trình tìm kiếm và mƣợn tƣ liệu để phục vụ cho việc nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này. Do trình độ, kinh nghiệm nghiên cứu và thời gian có hạn nên mặc dù chúng tôi đã có nhiều cố gắng, khóa luận này khó tránh những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận đƣợc những ý kiến đóng góp quý giá của quý thầy cô và các bạn để khóa luận đƣợc hoàn thiện hơn. Đà Nẵng, ngày 24 tháng 4 năm 2018 Ngƣời thực hiện NGUYỄN TƢỜNG VI MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài................................................................................................ 1 2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu ............................................................................ 2 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................... 4 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................ 4 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................................................... 5 6. Dự kiến đóng góp của đề tài ............................................................................... 5 7. Bố cục của đề tài ................................................................................................... 6 PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................... 7 CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ TÁC PHẨM ...................... 7 SỐNG MÒN.............................................................................................................. 7 1.1. Cơ sở lí luận về tình thái và tình thái trong ngôn ngữ......................................... 7 1.1.1. Tình thái trong logic học và tình thái trong ngôn ngữ ..................................... 7 1.1.2. Các phƣơng tiện biểu thị tình thái.................................................................. 11 1.1.3. Khái niệm quán ngữ biểu thị tình thái ........................................................... 14 1.1.4. Đặc điểm của quán ngữ biểu thị tình thái trong tiếng Việt ............................ 20 1.1.4.1. Đặc điểm về ngữ nghĩa – chức năng ........................................................... 20 1.1.4.2. Đặc điểm về hình thức của quán ngữ biểu thị tình thái ............................... 23 1.1.4.4. Đặc điểm về ngữ nghĩa – chức năng của quán ngữ biểu thị tình thái trong quan hệ với nội dung mệnh đề đi kèm ..................................................................... 28 1.1.5. Phân loại tình thái theo phạm trù nội dung của tình thái nhận thức ............... 29 1.2. Tổng quan về tác giả, tác phẩm ........................................................................ 31 1.2.1. Nam Cao – một đời văn ................................................................................. 31 1.2.2. Tiểu thuyết Sống mòn .................................................................................... 32 CHƢƠNG 2. KHẢO SÁT QUÁN NGỮ TÌNH THÁI THEO CÁC PHẠM TRÙ NỘI DUNG CỦA TÌNH THÁI NHẬN THỨC TRONG TIỂU THUYẾT SỐNG MÒN CỦA NAM CAO ........................................................................................... 35 2.1. Các quán ngữ tình thái nhận thức thực hữu ...................................................... 35 2.2. Các quán ngữ tình thái nhận thức tiềm năng..................................................... 48 2.3. Các quán ngữ tình thái nhận thức phản thực hữu.............................................. 61 CHƢƠNG 3. NĂNG LỰC GỢI DẪN CỦA QUÁN NGỮ TÌNH THÁI ................ 72 ĐỐI VỚI THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT SỐNG MÒN – .... 72 NAM CAO .............................................................................................................. 72 3.1. Một góc cuộc sống ngột ngạt đƣợc thể hiện qua quán ngữ tình thái ................. 73 3.1.1. Tầm tác động quán ngữ tình thái nhận thức thực hữu đến hiện thực trong bức tranh tiểu thuyết Sống mòn ............................................................................... 73 3.1.2. Tầm tác động quán ngữ tình thái tiềm năng đến lý tƣởng sống con ngƣời trong tiểu thuyết Sống mòn ..................................................................................... 75 3.1.3. Tầm tác động quán ngữ tình thái phản thực hữu phản ánh thái độ nhà văn đối với hiện thực bức tranh tiểu thuyết Sống mòn ................................................... 78 3.2. Cá tính hóa nhân vật trong tiểu thuyết Sống mòn của Nam Cao qua năng lực gợi dẫn của quán ngữ tình thái ................................................................................ 79 3.2.1. Dấu ấn cá tính hóa nhân vật Thứ, San và Oanh trong tiểu thuyết Sống mòn . 80 3.2.2. Dấu ấn cá tính hóa nhân vật Mô và vợ chồng ông Học trong tiểu thuyết ...... 86 3.3. Phong cách nghệ thuật của Nam Cao qua quán ngữ biểu thị tình thái. ............. 87 3.3.1. Quán ngữ biểu thị tình thái gợi dẫn phong cách viết văn giàu yếu tố tình thái của Nam Cao ........................................................................................................... 87 3.3.2. Quán ngữ tình thái và lối văn đậm tính khẩu ngữ Bắc Bộ của Nam Cao ....... 89 PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................. 94 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 95 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Tình thái trong ngôn ngữ là một trong những vấn đề đặc biệt đƣợc quan tâm trong khoảng 30 năm trở lại đây. Trƣớc đây, trong ngữ pháp truyền thống, các yếu tố chỉ tình thái chỉ đƣợc xem xét nhƣ là một bộ phận trong kết cấu câu (tình thái ngữ) hoặc chỉ quan tâm đến thái độ ngƣời nói đối với đối tƣợng. Nhƣng trong những năm gần đây, cùng với sự xuất hiện của ngữ pháp chức năng, một khuynh hƣớng ngữ pháp thiên về ngữ nghĩa, vấn đề tình thái trong câu đã dần dần đƣợc khảo sát đầy đủ hơn. Theo đó, trong một phát ngôn, ngoài nghĩa sự tình ra còn có một nghĩa tình thái, đồng thời các phƣơng tiện thể hiện nghĩa tình thái đã đƣợc các nhà ngữ pháp miêu tả. Khi phân tích nghĩa tình thái, chúng ta sẽ nắm thông tin đầy đủ hơn trong một phát ngôn. Vì vậy, khi nghiên cứu vấn đề tình thái, nhất là những phƣơng tiện từ vựng biểu thị tình thái nhƣ tiểu từ tình thái, động từ tình thái, trợ từ tình thái, định ngữ tình thái, trong đó những tổ hợp “có lẽ, dễ thường, nói của đáng tội, nói khi vô phép, theo tôi thì, …” chúng ta quen gọi chúng là quán ngữ. Nhƣng trong cơ cấu nghĩa của chúng, nghĩa tình thái hầu nhƣ chƣa đƣợc quan tâm một cách thỏa đáng. Vì lẽ đó, đề tài này, chúng tôi sẽ lí giải ý nghĩa và giải nghĩa những tổ hợp này để bạn đọc khi đọc đến sẽ dừng lại, hiểu tầng nghĩa của chúng ngoài nghĩa sự tình của phát ngôn, còn nghĩa tình thái bên trong. Với đề tài này, chúng tôi hƣớng đối tƣợng nghiên cứu là quán ngữ một trong những phƣơng tiện biểu thị tình thái đặc dụng. Những tổ hợp này đƣợc khảo sát trên một tác phẩm của nhà văn Nam Cao. Việc lựa chọn nhà văn Nam Cao để biểu thị đối tƣợng này, bởi vì, câu văn của ông dồn nén thông tin nhiều, đồng thời con ngƣời trong viết văn của ông không phải mang sắc thái lạnh lùng khinh miệt. Làm rõ hai vấn đề trên chính là lí do chúng tôi lựa chọn để tìm hiểu sâu hơn về nhà văn và phân tích kĩ càng nghĩa sự tình và nghĩa tình thái trong sử dụng câu văn của Nam Cao. Hiện nay, trong môi trƣờng giáo dục đề cao vai trò chủ động của ngƣời học. Hơn nữa, giáo dục đang đi theo khuynh hƣớng của sự tích hợp trong khoa học xã 2 hội nhân văn, tự nhiên. Mặc khác, giáo dục hƣớng đến ngƣời học, khi học văn là nói đƣợc điều muốn nói và hiểu đƣợc lời ngƣời khác nói, đọc đƣợc văn bản. Vì thế, ngƣời học nắm bắt đƣợc các tầng nghĩa của văn bản sẽ giúp ngƣời học đạt đƣợc những mục tiêu nhất định. Từ những điều trên, chúng tôi chọn yếu tố tình thái làm đối tƣợng nghiên cứu của luận văn. Cụ thể hơn, chúng tôi đi vào nghiên cứu vấn đề quán ngữ tình thái và đƣợc khảo sát trên tiểu thuyết Sống mòn của Nam Cao. 2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu Trong thực tế sử dụng ngôn ngữ, chúng ta thƣờng bắt gặp những tổ hợp từ mang tính đƣa đẩy, rào đón… nhƣ: “Của đáng tội, làm như… không bằng”, “dễ thường…”, “theo tôi thì...” …. Những hiện tƣợng này đã trở nên quen thuộc trong tiếng Việt, tuy nhiên sự quan tâm đến những tổ hợp từ này của các nhà ngôn ngữ học còn ít. Song, với sự phát triển của ngữ pháp chức năng, ngữ nghĩa, ngữ dụng, khoa học ngôn ngữ đã có những thành tựu đáng kể. Những lý thuyết này là điểm dựa cho các nhà nghiên cứu đi theo hƣớng phân tích nội dung của tính tình thái và phƣơng tiện biểu hiện nội dung tình thái. Nắm bắt đƣợc hƣớng đi này, đã rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề tình thái đƣợc trình bày, đáng chú ý nhất là những công trình: Tuyển tập của Hoàng Tuệ, năm 2009. Logic ngôn ngữ học qua cứ liệu tiếng Việt của Hoàng Phê, năm 1989. Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng của Cao Xuân Hạo năm 1991. Ngữ pháp chức năng tiếng Việt, Quyển 1, Câu trong tiếng Việt – Cấu trúc – Ngữ nghĩa – Ngữ dụng của Cao Xuân Hạo (chủ biên), Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Văn Bằng, Nguyễn Tất Tƣơm, năm 1996. Logic và tiếng Việt của Nguyễn Đức Dân, năm 1996. 2.1. Các ý kiến về tình thái nói chung Cao Xuân Hạo, trong Tiếng Việt Sơ thảo ngữ pháp chức năng, chỉ ra tình thái hành động phát ngôn và tình thái lời phát ngôn là hai phạm trù khác biệt. (Quyển sách Tiếng Việt Sơ thảo ngữ pháp chức năng, xuất bản năm 2017, NXB Khoa học xã hội). 3 Nguyễn Thiện Giáp, trong giáo trình Ngôn ngữ học, cũng chỉ ra ý nghĩa tình thái của câu. (Giáo trình Ngôn ngữ học xuất bản năm 2008, NXB Đại học Quốc gia). Nguyễn Thị Ly Kha, trong giáo trình Tiếng Việt (tập II) cũng đề cập đến vấn đề tính tình thái của câu. Tác giả cũng chỉ ra tính tình thái trong logic học thì tình thái của một mệnh đề thƣờng đƣợc nghiên cứu thông qua ba thông số. (Giáo trình tiếng Việt II, xuất bản năm 2011, NXB Đại học Sƣ phạm). Nguyễn Minh Thuyết – Nguyễn Văn Hiệp, trong cuốn Thành phần câu Tiếng Việt, đã phân loại tình thái ngữ theo tiêu chí hình thức (đặc điểm cấu tạo), hoặc nội dung (ý nghĩa tình thái đƣợc biểu đạt). (Thành phần câu tiếng Việt, xuất bản năm 2014, NXB Giáo dục Việt Nam). 2.2. Các ý kiến về phƣơng tiện tình thái và quán ngữ tình thái Về phƣơng tiện tình thái: Diệp Quang Ban, trong cuốn Ngữ pháp Tiếng Việt năm 2013, đã trình bày về vấn đề tình thái tố nằm ngoài biểu thức của câu và tình thái tố với tƣ cách yếu tố cấu tạo trong câu. ( Sách Ngữ pháp tiếng Việt, xuất bản năm 2013, NXB Giáo dục Việt Nam). Nguyễn Đức Dân, đặc biệt trong công trình nghiên cứu về Logic ngữ nghĩa từ hư tiếng Việt, đã nghiên cứu một lớp từ vựng có tần số sử dụng rất cao và có vai trò quan trọng cả về phƣơng diện ngữ pháp lẫn ngữ nghĩa đối với tiếng Việt. (Logic ngữ nghĩa từ hư tiếng Việt, xuất bản năm 2016, NXB Trẻ). Bùi Trọng Ngoãn trong luận án tiến sĩ “Khảo sát các động từ tình thái trong tiếng Việt” (2004). Luận án đƣợc xem là đề tài đầu tiên đi sâu tìm hiểu một cách có hệ thống toàn bộ tiểu loại động từ tình thái tiếng Việt, đồng thời chỉ ra các đặc điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng của lớp từ này. Trịnh Bích Thùy trong luận văn thạc sĩ với đề tài “Nghĩa tình thái của các thành phần trạng ngữ trong câu Tiếng Việt” (2016) cũng đã đề cập đến vấn đề nghĩa tình thái đã khái quát hóa các nghĩa sự tình và nghĩa tình thái của các trạng ngữ 4 . Phạm Quỳnh Hồng Diễm trong luận văn thạc sĩ với đề tài “Nghĩa tình thái của câu ghép chính phụ tiếng Việt” (2016) đã phân tích và khái quát hóa nghĩa tình thái của từng kiểu câu ghép chính phụ tiếng Việt. Về quán ngữ tình thái: Nguyễn Văn Hiệp, với Cú pháp tiếng Việt đã phân loại quán ngữ biểu thị những nội dung thuộc tình thái nhận thức. (Cú pháp tiếng Việt, xuất bản năm 2009, NXB Giáo dục Việt Nam). Với đề tài “Khảo sát ý nghĩa và cách dùng các quán ngữ biểu thị tình thái trong tiếng Việt” (2000) luận văn thạc sĩ của Đoàn Thị Thu Hà, lần đầu tiên đi sâu nghiên cứu chức năng ngữ nghĩa của các quán ngữ biểu thị tình thái trong tiếng Việt. Với sự miêu tả hệ thống quán ngữ. Theo khảo sát các ý kiến và bài viết của những tác giả trên, chúng tôi nhận thấy cần tổng hợp một cách có hệ thống các lí luận liên quan đến tình thái, quán ngữ tình thái. Hơn hết, đƣa vấn đề quán ngữ tình thái gắn liền với tình huống và ngữ cảnh hiện thực, với mục đích, ý đồ của ngƣời sử dụng và tác động liên chủ thể giữa ngƣời tham gia giao tiếp. Trên cơ sở, tiếp thu lý thuyết của Đoàn Thị Thu Hà kết hợp với các tác giả khác. Đề tài này, chúng tôi tìm thấy hƣớng đi mới đó là không chỉ đi tìm hiểu về quán ngữ biểu thị tình thái thuần túy mà quan tâm đến tất cả các quán ngữ nói chung và tìm hiểu nghĩa tình thái của các quán ngữ. Đồng thời, chúng tôi nghiên cứu quán ngữ biểu thị tình thái trong phạm vi một đối tƣợng cụ thể là tác giả Nam Cao, gắn với một không gian văn hóa, hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, và đối tƣợng giao tiếp cụ thể. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là: Quán ngữ tình thái trong câu văn của Nam Cao, trong tiểu thuyết Sống mòn. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi là văn bản nghệ thuật của cuốn tiểu thuyết này. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Với đề tài nghiên cứu, hƣớng đến mục đích sau: 5 -Vận dụng lí luận ngôn ngữ để khảo sát, phân tích các quán ngữ biểu thị tình thái trong một tác phẩm cụ thể, là tiểu thuyết “Sống mòn” của Nam Cao. -Trên cơ sở đó chúng tôi đƣa ra những nhận xét, đánh giá về quán ngữ biểu thị tình thái trong việc thể hiện xuất sắc vai trò của nó trong tiểu thuyết. - Vận dụng khéo léo quán ngữ tình thái vào sáng tác tiểu thuyết, Nam Cao đã góp phần lột tả đƣợc cá tính hóa nhân vật, ngôn ngữ hội thoại, đặc biệt là ngƣời đọc hiểu rõ hơn về con ngƣời, phong cách sáng tác của nhà văn. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Nghiên cứu đề tài: chúng tôi chọn áp dụng các phƣơng pháp nghiên cứu ngôn ngữ sau: - Thủ pháp tổng hợp – thống kê: phƣơng pháp này giúp chúng tôi khảo sát các quán ngữ tình thái có trong tác phẩm. Trên cơ sở đó phân loại chúng thành từng tiểu loại theo từng tiêu chí nhất định. Từ đó phân tích nguồn tƣ liệu đã đƣợc thống kê và khái quát nên những kết luận. - Thủ pháp đối chiếu – so sánh: vận dụng phƣơng pháp này, chúng tôi sẽ có cái nhìn đa dạng hơn về quán ngữ tình thái trong tiếng Viêt. Đây là cơ sở lí thuyết cho chúng tôi thực hiện đề tài này, khi so sánh đối chiếu về hiện tƣợng vận dụng quán ngữ tình thái. - Thủ pháp cải biến: sử dụng thủ pháp này chúng tôi có thể xác định hiệu lực biểu đạt của đối tƣợng nghiên cứu quán ngữ biểu thị tình thái trong tiểu thuyết. - Phƣơng pháp phân tích – miêu tả: đây là phƣơng pháp chủ đạo của luận văn, giúp chúng tôi rút ra đƣợc ý nghĩa và làm rõ giá trị, phong cách ngôn ngữ trong tiểu thuyết Sống mòn – Nam Cao. 6. Dự kiến đóng góp của đề tài Chúng tôi khi thực hiện luận văn này, có thể nói là một kết quả của quá trình nghiên cứu về chức năng ngữ nghĩa của các quán ngữ biểu thị tình thái trong tiếng Việt và chỉ ra đặc điểm hình thức. Củng cố một cách hiểu về quán ngữ tình thái. 6 Cung cấp một bảng thống kê các quán ngữ tình thái trong trang viết của một tác giả. 7. Bố cục của đề tài Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung của đề tài gồm các chƣơng nhƣ sau: Chƣơng 1. Cơ sở lí luận và tổng quan Chƣơng này trình bày những vấn đề có liên quan đến đề tài, làm cơ sở để phân tích các chƣơng tiếp theo. Trong đó, chúng tôi trình bày về tình thái trong ngôn ngữ, về quán ngữ trong câu và là phƣơng tiện biểu thị ý nghĩa tình thái. Trình bày vài nét về nhà văn Nam Cao và tiểu thuyết Sống mòn của ông. Chƣơng 2. Khảo sát quán ngữ biểu thị tình thái trong tiểu thuyết Sống mòn của Nam Cao Chúng tôi tiến hành khảo sát và rút ra nhận xét, kết luận về vấn đề sử dụng quán ngữ biểu thị tình thái trong tiểu thuyết Sống mòn của Nam Cao. Chƣơng 3. Năng lực gợi dẫn của quán ngữ biểu thị tình thái đối với thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Sống mòn của Nam Cao Ở chƣơng này là sự nhìn nhận tổng quát về năng lực gợi dẫn của quán ngữ biểu thị tình thái trong tác phẩm văn chƣơng nghệ thuật. 7 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ TÁC PHẨM SỐNG MÒN 1.1. Cơ sở lí luận về tình thái và tình thái trong ngôn ngữ 1.1.1. Tình thái trong logic học và tình thái trong ngôn ngữ Đầu tiên, chúng ta cần phân biệt tình thái trong ngôn ngữ học với tình thái trong logic học, từ đó phân xuất ra khái niệm tình thái và cho thấy tình thái biểu thị trong ngôn ngữ học nhƣ thế nào. Thuật ngữ tình thái, tƣơng ứng với modalité … biểu thị một khái niệm về cấu trúc ngữ nghĩa của câu. a. Tình thái trong logic học Trong logic học, ngƣời ta quan tâm tới tình thái khách quan, tức là chỉ quan tâm đến giá trị chân ngụy của mệnh đề. Cho nên họ chỉ hạn chế ở tính hiện thực (có thật hay không có thật), tính tất yếu (tất yếu hay không tất yếu) và tính khả năng (có thể có đƣợc hay không thể có đƣợc). Khái niệm tình thái đƣợc gắn liền với sự phân loại của phán đoán, Nguyễn Đức Dân cho rằng “Phán đoán là hình thức cơ bản của tƣ duy, dƣới dạng khẳng định hoặc phủ định, thể hiện nhận thức con ngƣời về những đối tƣợng trong thế giới khách quan, Một phán đoán chỉ có một và chỉ một trong hai giá trị đúng hay sai”.[15, tr.43]. Xét ở khía cạnh mức độ phù hợp giữa các phán đoán và thực tế đã phân loại các phán đoán, các mệnh đề logic thành 3 nhóm lớn: khả năng, tất yếu, hiện thực. Phán đoán là khả năng phản ánh xác xuất có mặt hay vắng mặt của một đặc trƣng nào đó ở đối tƣợng của phán đoán tức đối tƣợng có thể mang đặc trƣng đó ít nhất trong một thế giới khả hữu nào đó. Vậy nên, tình thái trong logic học chỉ nhằm biểu thị một số kiểu quan hệ chung nhất của phán đoán với hiện thực và không quan tâm đến những nhân tố nhƣ mục đích, yêu cầu, ý chí, thái độ, tình cảm, đánh giá trong nội dung giao tiếp. 8 b. Tình thái trong ngôn ngữ học Ngƣời ta xem xét tình thái trong ngôn ngữ học liên quan đến thái độ chủ quan của ngƣời nói. Đó là thái độ của ngƣời nói đối với nội dung mệnh đề mà câu biểu thị hay tình trạng mà mệnh đề đó miêu tả. Tình thái là thông tin ngữ nghĩa của câu thể hiện thái độ hoặc ý kiến của ngƣời nói đối với điều đƣợc nói ra. Nhà ngôn ngữ học Pháp Charles Bally đã cho rằng cần phân biệt trong câu về hai yếu tố khác nhau: Nội dung biểu hiện có tính chất cốt lõi về ngữ nghĩa của câu và thái độ của ngƣời nói đối với nội dung ấy. Tình thái là một khái niệm rõ ràng có tính chất phổ quát trong các ngôn ngữ. Có thể theo Bally, định nghĩa tình thái là thái độ của ngƣời nói đƣợc biểu thị đối với sự việc hay trạng thái diễn đạt trong câu. Theo đó, có những cách biểu thị tình thái với những phƣơng tiện khác nhau, tình thái hiện ra tƣơng đối rõ: tình thái hiển ngôn, tình thái hiện ra không với phƣơng tiện riêng, mà nhờ các yếu tố ngôn bản, đó là tình thái không hiển ngôn. [19, tr.334] Về ý nghĩa tình thái thì ngoài ý nghĩa biểu hiện (sự tình của thế giới đƣợc nói đến trong câu), ý nghĩa logic – ngôn từ (nội dung mệnh đề), ý nghĩa tình thái (modal meaning) cũng là những thông tin không thể thiếu trong ý nghĩa của câu. Từ lâu, Bally phân biệt trong mệnh đề một phần là ngôn liệu, tức là cái tập hợp gồm vị từ logic và các tham tố của nó và một phần đƣợc gọi là tình thái (madalité) biểu hiện thái độ của ngƣời nói. Ông khẳng định tình thái là linh hồn của câu, của văn bản và của cả hoạt động giao tiếp. Nhiều nhà ngôn ngữ học khác đã đi sâu nghiên cứu tình thái nhƣ: Von Wright, Lyons, Givón, Palmer,… John Lyons cho rằng: Tình thái đều đƣợc trình bày nhƣ một cái gì đó hiện tồn trong một thế giới khả hữu mang tính nhận thức hay đạo nghĩa nào đó, vốn ở bên ngoài bất kì ai nói ra câu đó trong những trƣờng hợp phát ngôn cụ thể. Palmer đã phân tình thái chủ quan, tức là tình thái trong ngôn ngữ thành hai loại: tình thái nhận thức (epistemic modality) và tình thái đạo lí (deontic modality). Tình thái nhận thức là tình thái về độ chân thực, độ cam kết đối với tính chân thực của điều đƣợc nói ra. Xét về độ chân thực, có ba kiểu tình thái nhận thức: 9 -Tình thái thực hữu (factive modality): ngƣời nói cho rằng sự việc đƣợc nói đến là hiện thực hay tất yếu hiện thực. -Tình thái phản thực hữu (contre – factive modality): ngƣời nói cho rằng sự việc nói đến là phi hiện thực hay tất yếu phi hiện thực. -Tình thái không thực hữu (non - factive modality): ngƣời nói cho rằng sự việc nói đến có thể xảy ra trong một thế giới khả năng nào đó. Tình thái đạo lí là những tình thái thể hiện mức độ áp đặt của ngƣời nói về mặt đạo đức. phong tục, tập quán … với sự phân biệt các kiểu: bắt buộc/ không bắt buộc, đƣợc phép/ không đƣợc phép, cấm đoán/ không cấm đoán, miễn trừ/ không đƣợc miễn trừ. [19, tr.334] Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu Hoàng Phê, Hoàng Tuệ, Diệp Quang Ban, Cao Xuân Hạo và nhiều ngƣời khác đã nghiên cứu ý nghĩa tình thái của câu, trong đó Cao Xuân Hạo đã nêu ra nhiều vấn đề đáng chú ý. Trƣớc hết, ông phân biệt tình thái của hành động phát ngôn và tình thái của lời phát ngôn. Cao Xuân Hạo cho rằng “trong ngôn ngữ, các tình thái của phát ngôn làm thành một bảng màu cực kì đa dạng, trong đó phần lớn đều có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến tính hiện thực, tính tất yếu và tính khả năng, nhƣng dƣới nhiều màu sắc khác nhau và có nhiều cách biểu hiện khác nhau”. Ông phân biệt tình thái của hành động phát ngôn, là tình thái “phân biệt các lời nói về phƣơng tiện mục tiêu và tác dụng trong giao tiếp” và tình thái của lời phát ngôn là tình thái “có liên quan đến thái độ của ngƣời nói đối vơi điều mình nói ra hoặc đến quan hệ sở đề và sở thuyết của mệnh đề”. [19, tr.335]. Tình thái của hành động phát ngôn liên quan đến sự phân biệt quen thuộc giữa các loại câu trần thuật, câu hỏi, và câu cầu khiến, đã đƣợc ngữ pháp hóa và sự phân biệt các hành động ngôn ngữ khác nhau trong dụng pháp học (chẳng hạn một câu trần thuật có thể đƣợc dùng nhƣ một câu cầu khiến). [19, tr.336]. Ngoài cách chia ra tình thái của hành động phát ngôn và tình thái của lời phát ngôn. Cao Xuân Hạo còn đề cập đến tình thái của câu và tình thái của cấu trúc vị ngữ hạt nhân. [19, tr.336]. 10 Theo ông, tình thái của câu nói phản ánh thái độ đánh giá tính hiện thực hay không hiện thực, giới hạn của tính hiện thực, mức độ của tính xác thực của tính tất yếu, tính khả năng, tính chất đáng mong muốn hay đáng tiếc… của điều đƣợc thông báo. Ông còn đề cập đến tầm tác dụng của các yếu tố tình thái. Có những yếu tố tình thái có tác dụng đến cả câu, lại có những yếu tố tình thái chỉ tác dụng đến cấu trúc vị ngữ hạt nhân, đến một số tham tố hay một phụ ngữ nào đấy trong câu. Những yếu tố đánh dấu hành động phát ngôn nhƣ: à, ư, nhỉ, nhé, đấy, đi… có tác dụng đến tới cả câu. Những yếu tố tình thái nhƣ: lẽ nào, chắc chắn, may ra, quả là, dường như… cũng có tầm tác dụng đến cả câu. Những yếu tố tình thái nhƣ: ngay, chính, chỉ, chỉ có, những, … chỉ tác dụng đến một tham tố của câu. Những vị từ tình thái nhƣ: suýt, muốn, vẫn, đã đang, chưa,… chỉ có tác dụng đến cấu trúc vị ngữ hạt nhân. Hoàng Trọng Phiến cho rằng: câu lệ thuộc vào hoạt động ngôn từ. Chính vì thế mà chúng ta có thể xem câu là đơn vị của lời nói. Cơ sở của lập luận ấy là câu bao giờ cũng mang tính tình thái nhất định. Tính tình thái là phạm trù ngữ pháp của câu. Ở trong dạng tiềm tàng nó có mặt trong tất cả các kiểu câu. Điều kiện này thể hiện ở chỗ câu có giá trị thời sự. Nó có tác dụng thông báo một điều gì mới mẻ. Qua câu ngƣời nhận hiểu rõ ngƣời nói có thái độ nhƣ thế nào đối với hiện thực, ngƣời nói trình bày hiện thực với sự đánh giá của mình (đánh giá đúng hay sai, tin hay ngờ, ƣớc đoán hay đã tồn tại thực, khuyên bảo hay ra lệnh). Dựa vào điều kiện này mà câu đƣợc chia thành câu tƣờng thuật, câu cầu khiến, câu nghi vấn, câu cảm thán. Tính tình thái của câu bắt nguồn từ sự tƣơng ứng của nội dung câu và bối cảnh phi ngôn ngữ thông qua tƣ duy. [Dẫn theo, 44, tr. 44] Nguyễn Minh Thuyết gọi tên tình thái là tình thái ngữ là một thành phần phụ của câu và xác định tình thái ngữ trong mối quan hệ với mệnh đề và đƣợc phân loại theo ngữ nghĩa – chức năng. [Dẫn theo, 56, tr.250]. Nguyễn Văn Hiệp thì xem tình thái của câu thể hiện thái độ của ngƣời nói đối với điều đƣợc nói ra: ngƣời nói đánh giá về tính xác thực hay không xác thực, giới hạn của tính xác thực, mức độ của tính xác thực xét về khía cạnh nhận thức. [Dẫn theo, 29, tr. 290]. 11 Trong Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học đƣợc giải thích nhƣ sau: “Phạm trù ngữ pháp – ngữ nghĩa biểu thị quan hệ của ngƣời nói với phát ngôn, và quan hệ của nội dung phát ngôn với hiện thực khách quan”. [59, tr. 296 – 297]. Tính tình thái là một phổ niệm ngôn ngữ, nó thuộc các phạm trù cơ bản của ngôn ngữ tự nhiên. Nội dung phát ngôn có thể hiểu nhƣ hiện thực hoặc không hiện thực, mong muốn hoặc không mong muốn, có thể hoặc không có thể, tất yếu hoặc ngẫu nhiên, … Tính tình thái đƣợc biểu hiện bằng các phƣơng tiện ngữ pháp, và từ vựng (hình thái “thức” của từ tình thái, tiểu từ, ngữ điệu). Tính tình thái có thể chia ra tính tình thái chủ quan và tình thái khách quan. Theo những quan niệm của nhiều tác giả trên về vấn đề tình thái, chúng tôi đi theo quan niệm về tình thái trong mối quan hệ ngữ nghĩa, ngữ dụng của Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Thiện Giáp. Tình thái cùng với nội dung mệnh đề là hai thành phần cấu tạo nên cấu trúc ngữ nghĩa của câu: nghĩa sự tình và nghĩa tình thái. Hai nét nghĩa này, sẽ góp phần hiện thực hóa câu, gắn câu với điều kiện giao tiếp, ngữ cảnh hiện thực. Đồng thời, nó sẽ biểu hiện thái độ, những dạng đánh giá khác nhau của ngƣời nói đối với nội dung sự tình, với ngƣời đối thoại và với các nhân tố khác của ngữ cảnh liên quan đến sự tình đƣợc phản ánh. Nội dung, ý nghĩa cụ thể của tính tình thái rất đa dạng nhƣng phần lớn đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến các nhân tố nhƣ tất yếu, khả năng, hiện thực, phi hiện thực, trạng thái nhận thức của ngƣời nói và những quy tắc đạo lý của xã hội. 1.1.2. Các phƣơng tiện biểu thị tình thái Trong các ngôn ngữ khác nhau, ý nghĩa tình thái đƣợc diễn đạt bằng những phƣơng tiện không giống nhau. Ở những ngôn ngữ biến hình, ý nghĩa tình thái có thể đƣợc thể hiện thông qua các phạm trù ngữ pháp nhƣ: thì, thức, bằng các phƣơng tiện từ vựng, chẳng hạn các vị từ tình thái, các tiểu từ tình thái. Trong tiếng Việt, ý nghĩa tình thái có thể đƣợc thể hiện bằng các từ, các ngữ đoạn, thậm chí bằng cả những cấu trúc chủ vị. Từ biểu thị ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt có thể là những vị từ tình thái, các tiểu từ tình thái, những cặp liên từ. Những ngữ đoạn biểu thị ý nghĩa tình thái có thể là những ngữ đoạn đứng đầu câu, 12 cuối câu, giữa câu. Những cấu trúc đề - thuyết mà đề là “tôi” (có thể ẩn) và thuyết là một vị từ có ý nghĩa nhận thức nhƣ: tôi nghĩ, tôi cho, tôi không ngờ, tôi lấy làm tiếc, … cũng biểu thị ý nghĩa tình thái. Khi phân tích tình thái trong câu cần phải xét đến phƣơng tiện biểu thị tình thái. Sự phân biệt các phƣơng tiện từ vựng và ngữ pháp trong việc biểu thị nội dung tình thái không đƣợc đặt ra nghiêm ngặt. Theo Hoàng Tuệ, các phƣơng tiện biểu thị tình thái hiểu là thái độ của ngƣời nói đối với sự việc hay trạng thái đƣợc diễn đạt trong câu nói trong tiếng Việt là “khá đa dạng và phong phú”. Tác giả dẫn ra những phƣơng diện: Những phƣơng tiện đƣợc gắn với vị ngữ. Nhƣ trong tiếng Việt, ngôn ngữ đơn lập, đó là những phụ từ thƣờng làm yếu tố quần tụ chung quanh yếu tố chính của vị ngữ. Tiếp nữa là những phƣơng tiện từ vựng đƣợc dùng không gắn với vị ngữ mà ở ngoài cấu trúc vị ngữ, đó là những từ thƣờng gọi là phó từ hay trạng từ và ngữ tƣơng đƣơng với phó từ, trạng từ. Cuối cùng, một loại phƣơng tiện đƣợc gặp trong các ngôn ngữ và rất đáng chú ý: kiểu câu thƣờng đƣợc coi là câu ghép, nhƣng thành phần chính ở kiểu câu này biểu thị tình thái, còn thành phần phụ biểu thị nội dung cốt lõi của câu. [Dẫn theo, 51, tr. 353] Hoàng Trọng Phiến cũng nêu nhận xét: “Trong các ngôn ngữ khác nhau tính tình thái đƣợc biểu hiện khác nhau.” [56, tr.249] Thông thƣờng nó đƣợc biểu hiện bằng ngữ điệu, bằng danh xƣng của động từ, bằng trật tự và bằng các tình thái kiểu à, ư, nhỉ, nhé, sao, chăng, ru, chăng tá… Cao Xuân Hạo cho rằng: “Tình thái của câu có thể đƣợc biểu thị bằng khởi ngữ (ngữ đoạn mở đầu câu) [56, tr.249], nhƣ có lẽ, tất nhiên, những cấu trúc chủ vị (đề - thuyết) có tôi làm chủ thể của một vị từ, bằng những vị từ tình thái mà bổ ngữ là cấu trúc vị ngữ hạt nhân, bằng những trợ từ tình thái đặt trong ngữ đoạn vị từ hay ở ngoài đoạn này, chẳng hạn nhƣ cuối câu. Qua các nhận xét trên, chúng tôi nhận ra vai trò của các từ biểu thị tình thái trong tổ chức trừu tƣợng của câu vẫn chƣa đƣợc nhận thức đầy đủ, nhƣng không ít các nhà nghiên cứu đã chỉ ra sự đa dạng phong phú cả các đơn vị biểu hiện này. Tập 13 hợp những ý kiến của các tác giả về vấn đề các phƣơng tiện biểu thị tình thái trên, chúng tôi xác lập ba phƣơng diện sau là phƣơng tiện biểu thị tình thái, bao gồm: a. Các phƣơng tiện ngữ âm: dùng ngữ điệu để thể hiện thái độ hoặc cách nhìn nhận của ngƣời nói đối với điều đƣợc nói đến trong câu. Sử dụng trọng âm và biến âm có chủ ý để thể hiện đƣợc ý nghĩa tình thái trong câu. Bằng cách ngữ điệu, trọng âm hoặc lên giọng ngƣời giao tiếp có thể nhận thấy đƣợc thái độ trong phát ngôn đó. Dùng ngữ điệu bằng cách lên giọng hoặc xuống giọng ở những ngữ đoạn nhất định để thể hiện thái độ, tình cảm hoặc nhấn mạnh vào điểm mà ngƣời nói cho là cần chú ý là loại phƣơng tiện ngôn điệu phổ biến ở tiếng Anh, Pháp… Tiếng Việt rất ít dùng ngữ điệu mà thay vào đó nhấn giọng hay dài giọng ở các trợ từ nhấn mạnh cuối câu hoặc các thành phần khác của câu, hay kết hợp ngữ điệu với trọng âm để gắn ngữ điệu với cách nhấn âm tiết. Ví dụ khi ngƣời nói lên giọng “Giỏi nhỉ” đã biểu hiện sắc thái khác nhau trong từng ngữ cảnh khác nhau: -Hôm nay con làm toán đƣợc 10 điểm (nếu nhƣ ngƣời con này học có tiến bộ) thì “giỏi nhỉ” đƣợc dùng nhƣ là một lời khen ngợi. -Con ráng trứng bị cháy thì “giỏi nhỉ” (Hành động làm cháy trứng: chỉ chủ thể hành động chủ động làm một việc X nào đấy nhƣng thành quả lại bị thất bại). Từ dùng giỏi nhỉ nhằm chỉ sự chê trách của ngƣời nói. b. Các phƣơng tiện ngữ pháp: Tất cả các phƣơng tiện ngữ pháp hầu nhƣ đều biểu thị ý nghĩa tình thái nhƣ tình thái ngữ, trạng ngữ, chú thích ngữ, khởi ngữ, các kiểu cấu trúc câu bất thƣờng: câu đặc biệt, câu dƣới bậc, câu tỉnh lƣợc và đặc biệt là các kết từ trong câu ghép. c. Các phƣơng tiện từ vựng: Các tính từ tình thái nhận thức, động từ tình thái nhận thức, trạng từ tình thái nhận thức, danh từ tình thái nhận thức trong tiếng Anh, hoặc các quán ngữ tình thái, tiểu từ tình thái, phó từ tình thái, động từ tình thái… trong tiếng Việt. Cụ thể, đƣợc biểu hiện qua các mặt: (1) Các động từ tình thái: muốn, toan, định, dám hòng, … (2) Các trợ từ, tiểu từ tình thái: à, ƣ, nhỉ, nhé, cơ, ngay, cả, … 14 (3) Các động từ chỉ thái độ mệnh đề gắn với cấu trúc câu ghép: lo rằng, tiếc là, ngờ rằng, sợ rằng, … (4) Các động từ ngữ vi: hỏi, mời, khuyên, yêu cầu, đề nghị tuyên bố, hứa, cam đoan, … (5) Các thán từ: ôi, chao, trời ơi, chết, ối dào, ối giời ơi, … (6) Các phó từ, tổ hợp phó từ, tổ hợp liên từ: có lẽ là, ắt là, đƣơng nhiên là, hay là, quả thực là, thực tình là, ấy thế mà, … (7) Các cụm từ biểu hiện ý nghĩa tình thái mang tính chất cố định nhƣ: làm nhƣ… không bằng, xem ra, nghe đâu, nghe nói, nghe bảo, thế nào cũng, theo ý tôi, nói tóm lại là, ƣớc gì… (8) Các quán ngữ biểu thị tình thái: nói của đáng tội, nói khí vô phép, chẳng giấu gì… 1.1.3. Khái niệm quán ngữ biểu thị tình thái Quán ngữ thuộc kiểu đơn vị từ vựng. Vì vậy, khái niệm quán ngữ chúng ta thƣờng bắt gặp nhiều trong nghiên cứu từ vựng hơn là trong nghiên cứu ngữ pháp. Quán ngữ là đơn vị thuộc cụm từ cố định. Đơn vị dùng làm chất liệu cơ sở để tạo ra câu – đơn vị giao tiếp – không phải chỉ có từ. Ngoài từ ra, còn có một loại đơn vị gọi là cụm từ cố định. Khái niệm cụm từ cố định đƣợc khái quát: “Cụm từ cố định là đơn vị do một số từ hợp lại; tồn tại với tƣ cách một đơn vị có sẵn nhƣ từ, có thành tố cấu tạo và ngữ nghĩa cũng ổn định nhƣ từ” [12, tr.153]. Cụm từ cố định là đơn vị do một số từ hợp lại, tồn tại với tƣ cách là một đơn vị có sẵn, mang tính xã hội hóa cao nhƣ từ, có cấu tạo và ngữ nghĩa cũng ổn định nhƣ từ, có chức năng làm đơn vị cơ sở để tạo câu nhƣ từ. Cũng nhƣ từ, cụm từ cố định nằm trong thành phần từ vựng của ngôn ngữ, cũng đƣợc hệ thống hóa trong từ điển, cũng đƣợc gọi là đơn vị định danh cơ bản của ngôn ngữ, thực hiện chức năng gọi tên các sự vật hiện tƣợng… của thực tế. Tuy nhiên, cụm từ cố định không phải là đơn vị từ vựng cơ bản, bởi vì chúng do các từ cấu tạo nên (muốn có các cụm từ cố định thì trƣớc hết phải có các từ). Từ ghép và cụm từ tự do là những đơn vị lân 15 cận, dễ lẫn với cụm từ cố định. Vì vậy, để nhận diện cụm từ cố định, cần phân biệt nó với các đơn vị này. Phân loại cụm từ cố định tiếng Việt nhƣ sau: Cụm từ / ngữ cố định Thành ngữ Quán ngữ Ngữ định danh Ngữ cố định là đơn vị do các từ tạo nên, có cấu tạo ổn định và có tính thành ngữ. Ngữ cố định tƣơng ứng với từ ở tính hiển nhiên tồn tại trong hệ thống ngôn ngữ và thực hiện chức năng tạo câu trong hoạt động. Căn cứ vào mức độ của tính thành ngữ mà ngữ cố định đƣợc chia thành quán ngữ và thành ngữ. “Quán ngữ là cách nói quen thuộc (cấu tạo có tính ổn định của ngữ cố định) dùng để đƣa đẩy, rào đón, liên kết” [13, tr.190]. Còn thành ngữ là đơn vị đặc trƣng của ngữ cố định về tính ổn định trong cấu tạo và giá trị biểu trƣng về mặt nghĩa. Ví dụ: quán ngữ khẩu ngữ: của đáng tội, nói khí phải, vô phép…; quán ngữ sách vở: nói tóm lại, suy rộng ra, theo tôi thì… Trong quán ngữ tính thành ngữ và tính ổn định cấu trúc không đƣợc nhƣ thành ngữ. Dáng vẻ của cụm từ tự do còn in đậm trong các cụm từ cố định thuộc loại này. Chỉ có điều, do nội dung biểu thị của chúng đƣợc ngƣời ta thƣờng xuyên nhắc đến cho nên hình thức và cấu trúc của chúng cũng tự nhiên ổn định và rồi ngƣời ta quen dùng nhƣ một đơn vị có sẵn. Vũ Đức Nghiệu còn phân loại các quán ngữ của Tiếng Việt dựa vào phạm vi và tính chất phong cách của chúng. Những quán ngữ hay dùng trong phong cách hội thoại, khẩu ngữ: của đáng tội, khí vô phép, khổ một nỗi là, nói bỏ ngoài tai, nói dại đó đi, còn mồ ma, nó chết (mọt) cái là, nói…bỏ quá cho, cắn rơm cắn cỏ, chẳng nước non gì, dùng một cáu, chẳng ra chó gì, nói trộm bóng vía…Những quán ngữ hay dùng trong phong cách viết (khoa học, chính luận…) hoặc diễn giảng nhƣ: nói tóm lại, có thể nghĩ rằng, ngược lại, một mặt thì, mặt khác thì, có nghĩa là, như trên đã nói, từ đó suy ra, có thể cho rằng, như sau, như dưới đây, như đã nêu trên, sự thực là, vấn đề là ở chỗ…
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan