Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khóa luận ngư nghiệp nam trung bộ từ thế kỷ xvi xix....

Tài liệu Khóa luận ngư nghiệp nam trung bộ từ thế kỷ xvi xix.

.PDF
62
132
104

Mô tả:

LỜI CẢM ƠN Khi em viết những lời này, cũng là lúc em biết mình sắp phải chia xa mái trường Đại học Sư phạm thân yêu. Khoảng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời em là được làm một sinh viên của khoa Lịch Sử, cũng là khoảng thời gian rực rỡ nhất trong sự nghiệp học hành của em. Người ta thường nói, lịch sử là một vòng xoáy trôn ốc, dù thế nào đi nữa nó cũng phát triển đi lên. Tuy có nhiều lúc em chưa thực sự cố gắng, nhưng em tin rằng mình đã trưởng thành hơn rất nhiều. Sự trưởng thành của em hôm nay có một phần lớn công lao của các thầy cô, vì thế em luôn biết ơn và trân trọng điều đó. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Duy Phương. Em đã ấn tượng với cô ngay từ những bài học đầu tiên, em luôn cảm thấy vô cùng dễ hiểu và thoải mái khi nghe cô giảng bài. Em nghĩ mình thật may mắn khi được cô hướng dẫn cả đề tài nghiên cứu khoa học và đề tài khóa luận tốt nghiệp. Cô luôn giúp đỡ em một cách nhiệt tình, tỉ mẫn và đầy trách nhiệm, đó sẽ là những hành trang quý giá cho em trong công việc cũng như cuộc sống sau này. Em cảm ơn cô vì tất cả, chúc cô mọi điều tốt đẹp nhất ! Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô trong khoa Lịch Sử, những người đã mang đến cho em cơ hội học tập và hoàn thiện bản thân mình. Cảm ơn các thầy cô trong thư viện Đại học Sư phạm, thư viện Khoa học Tổng hợp Đà Nẵng, phòng học liệu khoa Lịch Sử đã tạo mọi điều kiện cho em trong công tác tìm kiếm tài liệu. Cảm ơn người thân, gia đình và bạn bè luôn động viên, cổ vũ em hoàn thành đề tài khóa luận này. Em biết mình vẫn còn nhiều thiếu sót, rất mong sự góp ý của thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn thầy cô. Kính chúc thầy cô luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công ! Đà Nẵng, ngày 25/4/2018 Người thực hiện Sinh viên Nguyễn Thị Thúy MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................ 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 2 3.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................. 2 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 3 4.1. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................. 3 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................................. 3 5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ............................................................ 3 5.1. Nguồn tư liệu........................................................................................................... 3 5.2. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................... 4 6. Đóng góp của khóa luận ........................................................................................... 4 7. Bố cục của khóa luận ................................................................................................ 4 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VÙNG BIỂN ĐẢO NAM TRUNG BỘ VÀ HOẠT ĐỘNG NGƯ NGHIỆP TRƯỚC THẾ KỶ XVI ......................................................... 5 1.1. Tổng quan vùng Nam Trung Bộ ........................................................................... 5 1.1.1. Vị trí địa lý ............................................................................................................ 5 1.1.2. Điều kiện tự nhiên................................................................................................ 6 1.1.3. Dân cư................................................................................................................. 11 1.1.4. Vùng biển và một số đảo, quần đảo vùng Nam Trung Bộ ............................... 12 1.2. Khái quát lịch sử hình thành vùng đất Nam Trung Bộ .................................... 14 1.3. Ngư nghiệp Nam Trung Bộ trước thế kỷ XVI................................................... 16 CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH NGƯ NGHIỆP VÙNG BIỂN ĐẢO NAM TRUNG BỘ TỪ THẾ KỶ XVI – XIX ............................................................................................. 19 2.1. Chính sách của các chính quyền phong kiến đối với kinh tế ngư nghiệp trong các thế kỷ XVI – XIX .................................................................................................. 19 2.1.1. Xây dựng các lực lượng tuần tiễu, bảo vệ ngư dân và biển đảo ...................... 19 2.1.2. Hoạt động cứu hộ, cứu nạn đối với ngư dân .................................................... 24 2.1.3. Quản lý hoạt động khai thác hải sản của ngư dân .......................................... 26 2.1.4. Chính sách thuế khóa ........................................................................................ 27 2.1.4.1. Thuế thuyền đánh cá ........................................................................................ 27 2.1.4.2. Thuế đầm,vụng, hồ, ao ..................................................................................... 30 2.1.4.3. Thuế mắm, muối, lệ tiến sản vật....................................................................... 32 2.2. Hoạt động ngư nghiệp Nam Trung Bộ từ thế kỷ XVI –XIX ............................ 36 2.2.1. Khai thác thủy, hải sản ...................................................................................... 36 2.2.2. Chế biến và mua bán các sản phẩm ngư nghiệp .............................................. 41 2.2.2.1. Chế biến sản phẩm ngư nghiệp ........................................................................ 41 2.2.2.2. Trao đổi, mua bán các sản phẩm ngư nghiệp .................................................. 43 2.2.3. Các nghề hỗ trợ kinh tế ngư nghiệp.................................................................. 45 2.2.3.1. Nghề làm nước mắm ........................................................................................ 45 2.2.3.2. Nghề làm muối ................................................................................................. 45 2.2.3.3. Nghề làm ngư cụ .............................................................................................. 46 2.2.3.4. Nghề đóng thuyền, ghe ..................................................................................... 47 2.3. Tác động của ngư nghiệp đối với kinh tế và văn hóa Nam Trung Bộ ............. 50 2.3.1. Tác động về kinh tế ............................................................................................ 50 2.3.2. Tác động về văn hóa – xã hội ............................................................................ 51 2.4. Đánh giá chung ..................................................................................................... 52 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 55 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 56 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngư nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng đối với một nước có thế mạnh về biển đảo như Việt Nam. Trong cuộc sống thường nhật, con người dựa vào biển để sống vì trong bữa cơm chẳng thể thiếu cá, tôm, trong mâm cỗ chẳng thể nào vắng đi chén nước mắm đậm đà. Từ nhu cầu cuộc sống con người phải xuống sông hay ra khơi đánh cá, trang trải bữa cơm gia đình hay đem bán đi xa. Cá đánh bắt nhiều cũng vơi cạn, người dân còn phải bảo vệ nguồn lợi của mình trên biển, ở phạm vi nhỏ là vùng biển địa phương, còn xa hơn là hải đảo tổ quốc. Chính vì vậy, hoạt động đánh bắt cá và khai thác các nguồn lợi từ biển không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội mà còn có ý nghĩa trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Từ xa xưa, cuộc sống của người Việt đã gắn liền với biển, không chỉ về đời sống vật chất mà cả tinh thần. Các nhà khảo cổ đã phát hiện ra những dấu tích liên quan đến hoạt động đánh bắt cá như chì lưới, xương cá và vỏ nhuyễn thể của các cư dân ven biển như Quỳnh Văn, Sa Huỳnh. Đến thời kỳ phong kiến, ngư nghiệp bước đầu đã trở thành một nghề sản xuất được đưa vào trong hạng mục đánh thuế của nhà nước. Giữa thế kỷ XVI, sau khi vào trấn thủ vùng Thuận Hóa, các chúa Nguyễn đã sớm ý thức được tầm quan trọng của biển. Đàng Trong được xem như một vùng biển đầy tiềm năng để phát triển kinh tế biển. Đầu thế kỷ XIX, sau khi triều Nguyễn lên trị vì nước ta, chính sách phát triển kinh tế biển và các chính sách ngư nghiệp cũng được chú trọng, đặc biệt đối với cư dân ven biển Nam Trung Bộ. Cuộc sống của họ từ lâu dựa vào biển đảo, ngư nghiệp đã gắn bó với họ trong cả đời sống kinh tế lẫn văn hóa, tín ngưỡng. Nghiên cứu về ngư nghiệp Nam Trung Bộ từ thế kỷ XVI – XIX giúp chúng ta có một cái nhìn toàn diện và đầy đủ hơn về các vấn đề như kỹ thuật khai thác, đánh bắt của ngư dân, các loại ngư cụ, các làng nghề truyền thống và các hình thức sinh hoạt văn hóa. Qua đó giúp chúng ta hiểu hơn về những chính sách của nhà nước đối với kinh tế ngư nghiệp. Để có thể định hướng cho việc bảo vệ và phát triển ngư nghiệp trước những kinh nghiệm trong quá khứ cũng như việc bảo vệ nguồn lợi thủy hải sản trước những tác động xấu của môi trường và các nhân tố từ con người. Điều này cũng có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng 1 liêng của tổ quốc, cho ngư dân yên tâm bám biển. Xuất phát từ những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Ngư nghiệp Nam Trung Bộ từ thế kỷ XVI - XIX” làm đề tài nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nghiên cứu đến đề tài ngư nghiệp Việt Nam, mới chỉ có một số đề tài. Trong đó tiêu biểu như công trình nghiên cứu của Nguyễn Quang Trung Tiến, Ngư nghiệp Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX (1995), Nxb Thuận Hóa. Tác giả đã nghiên cứu khá hoàn thiện và đầy đủ mọi khía cạnh của ngư nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên chỉ đề cập tới giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, sau khi thực dân Pháp đã đô hộ nước ta mà chưa khái quát được giai đoạn trước đó. Liên quan đến đề tài này còn có tác phẩm của Nguyễn Duy Thiệu, đó là cuốn sách Cộng đồng ngư dân Việt Nam (2002), Nxb Khoa Học -Xã Hội, cuốn sách viết về cộng đồng ngư dân Việt Nam trong bối cảnh xã hội cổ truyền. Cuốn sách chỉ tập trung đi sâu vào mảng văn hóa, xã hội mà còn nhẹ về khai thác một cách toàn diện mọi mặt của nền kinh tế ngư nghiệp việt Nam. Liên quan đến đề tài còn có cuốn sách của tác giả Lê Văn Kỷ, Văn Hóa Biển Miền Trung Việt Nam, NXB Khoa Học- Xã Hội. Ngoài ra còn có nhiều bài viết trên các báo, tạp chí khoa học như bài viết của Thạc sĩ Đinh Thị Hải Đường, Quản lý và khai thác vùng biển đảo của triều Nguyễn giai đoạn 1802-1858, đăng trên tạp chí của Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Chủ yếu đề cập tới những chính sách của triều Nguyễn, các hoạt động quản lý, khai thác và bảo vệ vùng biển đảo. Như vậy, có một số công trình nghiên cứu về đề tài ngư nghiệp, hoặc liên quan đến một vài khía cạnh của vấn đề. Tuy nhiên nghiên cứu về đề tài ngư nghiệp Nam Trung Bộ từ thế kỷ XVI – XIX thì chưa có đề tài nào. Những công trình đó là cơ sở để tôi kế thừa và tham khảo nhằm hoàn thành tốt công trình khóa luận của mình. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về ngư nghiệp vùng Nam Trung Bộ từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX 3.2. Phạm vi nghiên cứu 2 Về mặt không gian: Các tỉnh Nam Trung Bộ nước ta ngày nay, bao gồm: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Về mặt thời gian: Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX. Đề tài chỉ nghiên cứu ngư nghiệp dưới thời các chúa Nguyễn và vua Nguyễn, vì hạn chế về tư liệu nên ngư nghiệp dưới thời Tây Sơn không được đưa vào phạm vi nghiên cứu của đề tài. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài “Ngư nghiệp Nam Trung Bộ từ thế kỷ XVI – XIX ” nhằm mục đích làm rõ về tình hình ngư nghiệp Nam Trung Bộ trong một giai đoạn lịch sử, mà từ trước đến nay vẫn chưa được nghiên cứu. Trên cơ sở đó khai thác được vai trò, vị trí của ngư nghiệp trong đời sống của ngư dân ven biển Nam Trung và đối với cả nước. Góp phần giáo dục tinh thần lao động, ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên môi trường biển. Ngoài ra còn làm sáng tỏ vai trò của ngư dân trong công cuộc bảo vệ chủ quyền trên biển. Nghiên cứu đề tài này còn giúp cho tôi có những kỹ năng cần thiết trong việc nghiên cứu sau này, trang bị những kiến thức liên quan đến đề tài, phục vụ cho việc học tập cũng như giảng dạy. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, đề tài thựchiện những nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu một cách tổng quan về Nam Trung Bộ và ngư nghiệp Nam Trung Bộ trước thế kỷ XVI. - Làm rõ mọi mọi mặt của đời sống kinh tế ngư nghiệp của ngư dân Nam Trung Bộ từ thế kỷ XVI - XIX và các chính sách của nhà nước đối với ngư dân, những tác động của ngư nghiệp. Từ đó đưa ra một số đánh giá, nhận xét. 5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tư liệu Để thực hiện được đề tài này tôi sử dụng các nguồn tư liệu sau đây: Các tác phẩm sử học của Quốc sử quán triều Nguyễn như Đại Nam Thực Lục, Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sử Lệ, Hoàng Việt nhất thống Dư địa chí,… Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài ngư nghiệp, biển đảo như Nguyễn Quang Trung Tiến, Ngư nghiệp Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Lê Văn Kỷ, 3 Văn Hóa Biển Miền Trung Việt Nam,…Ngoài ra còn có các bài viết trên các báo, tạp chí, tài liệu internet liên quan đến đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Với đề tài này tôi dựa trên quan điểm sử học Mác - xít, quan điểm của Đảng và nhà nước để tiến hành nghiên cứu.Phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hai phương pháp chính trong quá trình nghiên cứu. Ngoài ra còn có các phương pháp như sưu tầm, phân tích tài liệu, so sánh, đối chiếu và mô tả. Trong quá trình nghiên cứu có thường xuyên có sự kết hợp giữa các phương pháp. 6. Đóng góp của khóa luận Đề tài giúp hiểu rõ hơn về một ngành kinh tế của nước ta trong giai đoạn lúc bấy giờ, đó là ngành kinh tế ngư nghiệp. Đồng thời giúp chúng ta thấy được tầm quan trọng của ngư nghiệp đối với sự phát triển kinh tế xã hội của một vùng miền hoặc đối với một quốc gia. Góp phần định hướng cho con người cách khai thác và ứng xử với môi trường biển sao cho hợp lý. Bên cạnh đó, cũng làm rõ việc nhân dân ta đã đánh bắt và thực thi chủ quyền trên biển qua bao thời kỳ lịch sử. Đề tài này còn là nguồn tài liệu bổ ích cho những ai tham khảo học tập, tìm hiểu về lịch sử của một ngành kinh tế mà trước đây chưa được mọi người chú trọng. Là nguồn tư liệu cho những ai quan tâm nghiên cứu về kinh tế ngư nghiệp từ thế kỷ XVI –XIX. 7. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục thì cấu trúc đề tài gồm có hai chương: Chương 1: Tổng quan vùng biển đảo Nam Trung Bộ và hoạt động ngư nghiệp trước thế kỷ XVI Chương 2: Tình hình ngư nghiệp vùng biển đảo Nam Trung Bộ từ thế kỷ XVI XIX 4 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VÙNG BIỂN ĐẢO NAM TRUNG BỘ VÀ HOẠT ĐỘNG NGƯ NGHIỆP TRƯỚC THẾ KỶ XVI 1.1. Tổng quan vùng Nam Trung Bộ 1.1.1. Vị trí địa lý Vùng Nam Trung Bộ là một dải đất hẹp ngang, hình cong, hướng ra biển, trải dài gần 10 vĩ độ, từ 10035’ Bắc đến 16012’ Bắc và 107012’ Đông đến 1090 20’Đông. Trên dải đất hình chữ S đây là phần đất “nhô ra nhiều đầu nối”, “vươn ra biển”, tạo tiền đề cho vùng đất này tiếp thu các nền văn hóa, văn minh từ các nước theo đường biển, cũng là nơi có điều kiện giao thương và buôn bán với các nước. Duyên hải Nam Trung Bộ gồm 6 tỉnh thành theo thứ tự Bắc – Nam: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, có diện tích tự nhiên gần 44.4 nghìn km2. Các tỉnh Nam Trung Bộ tất cả đều tiếp giáp với biển Đông, với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có thềm lục địa và biển sâu. Vị trí, ranh giới, hình thể của các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ đã được ghi lại trong sách Đại Nam nhất thống chí như sau: Tỉnh Quảng Nam: Phía Đông có biển bao vòng, phía Tây có núi che chở, phía Nam liền tỉnh Quảng Ngãi, rừng Trì Bình làm giới hạn cõi bờ, phía Bắc hướng về kinh đô, cửa Hải Vân chẹn chỗ xung yếu [29, tr.393]. Tỉnh Quảng Ngãi: Phía Đông tỉnh có đảo Hoàng Sa, liền cát và biển làm trì, phía Tây Nam miền Sơn Nam có lũy dài vững vàng, phía Nam liền với tỉnh Bình Định, có đèo Bến Đá chắn ngang, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam, có ghềnh Sa Thổ làm giới hạn [29, tr.71-72]. Tỉnh Bình Định: Phía Đông giáp biển, phía Tây giáp các sơn động, phía Bắc có đèo Bến Đá ngăn cản, phía Nam có đèo Cù Mông dốc hiểm [30, tr.13]. Tỉnh Phú Yên: Phía Đông giáp biển, phía Tây dựa núi, phía Bắc giáp tỉnh Bình Định, có đèo Cù Mông hiểm trở, phía Nam giáp tỉnh Khánh Hòa, có đèo Đại Lĩnh cao dốc [30, tr.75]. Tỉnh Ninh Thuận:Ninh Thuận thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có hình thể giống như một hình bình hành, hai góc nhọn ở về phía Tây Bắc và Đông Nam. 5 Phía Bắc giáp tỉnh Khánh Hòa, phía Nam giáp tỉnh Bình Thuận, phía Tây giáp tỉnh Lâm Đồng và phía Đông giáp Biển Đông. Tỉnh Bình Thuận: Bình Thuận là tỉnh có dãy đất bắt đầu chuyển hướng từ Nam sang Tây của phần còn lại của Việt Nam trên bản đồ hình chữ S, Phía Bắc của tỉnh Bình Thuận giáp với tỉnh Lâm Đồng, phía Đông bắc giáp tỉnh Ninh Thuận, Phía Tây giáp tỉnh Đồng Nai, phía Tây Nam giáp Bà Rịa-Vũng Tàu, ở phía Đông và nam giáp biển Đông với đường bờ biển dài 192 km [44]. Hầu hết các tỉnh Nam Trung Bộ đều giáp biển, ở phía Đông là đồng bằng nhỏ hẹp, phía Tây là miền núi, trung du. Mặt khác đây cũng là đặc điểm cho thấy sự đa dạng về các điều kiện tự nhiên, khí hậu, văn hóa để các tỉnh có điều kiện phát triển kinh tế biển và kinh tế đất liền [24, tr.10]. 1.1.2. Điều kiện tự nhiên - Địa hình và đất đai Diện tích đất đồi chiếm ¾ tổng diện tích tự nhiên ở đây, còn đồng bằng Duyên hải chỉ chiếm ¼ tổng diện tích tự nhiên của vùng. Do vị trí địa lý, cũng như điều kiện tự nhiên đã tạo nên kết cấu đất ở đây chủ yếu là đất cát ven biển, đất mặn, đất phù sa, vùng núi phía Tây thì có đất feralit vàng. Nhìn chung đất ở Duyên hải Nam Trung Bộ có độ phì nhiêu thấp. Đất cấu tạo tại chỗ do được hình thành trên đất mẹ nghèo chất dinh dưỡng, lại có địa hình dốc, khí hậu chia làm hai mùa rõ rệt nên dễ bị rửa trôi. Các loại đất được hình thành từ nguồn gốc khác nhau: Đất dốc tự và phù sa phân bố ven sông hoặc các bãi đá chân núi là loại đất hình thành do bồi tụ hàng năm của các con sông, suối hoặc do ảnh hưởng của lắng đọng, dốc tụ, đất có thành phần cơ giới trung bình đến nhẹ, tầng đất dày, tơi xốp. Đây chính là diện tích đất nông nghiệp quan trọng. Đất feralit vàng nhạt trên vùng núi trung bình, đất feralit trên đá vôi là điều kiện phát triển cây công nghiệp và chăn nuôi, hình thành trên nhiều loại đá mẹ như phiến sét, granit, đá vôi, sa thạch. Đất tốt, thành phần cơ giới từ nặng đến trung bình, tầng đất trung bình và nông [21, tr.17]. Duyên hải Nam Trung Bộ có đặc điểm tự nhiên rất đặc sắc: Một dải lãnh thổ hẹp, mà phía Tây là sườn Đông của Trường Sơn Nam ôm lấy Tây Nguyên rộng lớn, phía Đông là biển Đông. Phía Bắc có dãy núi Bạch Mã là ranh giới tự nhiên với Bắc Trung Bộ, còn phía Nam là Đông Nam Bộ. Các nhánh núi ăn ra biển đã chia nhỏ 6 phần duyên hải thành các đồng bằng nhỏ hẹp. Chính vì sự hình thành địa hình như vậy nên đồi núi, đồng bằng và bờ biển ở đây luôn xâm nhập lẫn nhau, tạo nên nhiều vũng, vịnh, đầm phá, sông suối, ao hồ với mật độ tương đối dày đặc. Về địa hình, bề mặt địa hình của các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ bị chia cắt nhiều bởi những sườn núi kéo dài từ dãy Trường Sơn ra đến biển, tạo nên những thung lũng rộng hẹp khác nhau. Địa giới từng tỉnh trong khu vực được xác định theo lưu vực sông, đèo và núi. Mỗi một lưu vực gồm đồng bằng, biển và bờ biển tương ứng. Tất cả địa hình đều được bao bọc bởi các dãy, núi song song xuất phát từ dãy Trường Sơn hùng vĩ ở phía Tây chạy thấp dần theo hướng Tây Bắc xuống Đông Nam, ôm lấy các tỉnh. Đồng bằng các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ có đặc điểm giống nhau về hình thái, được hình thành không tách rời với một bên là dãy Trường Sơn và bên kia là biển Đông. Các đồng bằng đó lại chia theo từng vệt, tiếp đồi núi là vùng gò đồi, thềm phù sa cổ (trung du) rồi đến đồng bằng. Đồng bằng được bồi đắp bằng phù sa của hệ thống sông suối và bị chắn bởi dãy cát, cồn cát ven biển [21, tr.16]. Địa hình của vùng được mô tả như sau: “Thực ra người ta có thể thấy một sự phân biệt rõ rệt: bậc thứ nhất đổ từ bờ ra đến độ sau 40 – 80m có địa hình bị chia cắt mạnh mẽ, bậc thứ hai nối tiếp từ đó xuống độ sâu khoảng 150m có bề mặt gồ ghề, bậc thứ ba chạy thẳng ra thềm lục địa đến độ sâu 800 - 1000m”. Địa hình bị cắt xẻ mạnh bởi những dãy núi đâm ngang ra tận đồng bằng tạo thành những xứ đồng bằng nằm xen kẻ đồi núi nhỏ hẹp, bề mặt đồng bằng có độ dốc, độ cao tuyệt đối từ 15 – 10m trở xuống. Các vùng đồng bằng được hình thành do địa hình và sự bồi đắp bởi các con sông [21, tr.17]. - Sông ngòi và khí hậu Ở các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ có hệ thống sông ngòi dày đặc, thường ngắn nhưng độ dốc tương đối cao, lớn dần về phía hạ lưu và đổ trực tiếp ra biển. Nước sông đáp ứng tốt nhu cầu sinh hoạt và sản xuất, song do phân bố không đều về không gian và thời gian nên có nơi có mùa thiếu nước, có nơi có mùa lại thừa nước. Hơn nữa do sông có đặc điểm là ngắn dốc, lưu lượng không điều hòa nên thường gây ra lũ lụt trong mùa mưa và khô hạn trong mùa nắng ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt và sản xuất. Nhưng cũng mang lại lượng phù sa lớn và màu mỡ cho các vùng đồng bằng thuận lợi phát triển kinh tế, chủ yếu là nông nghiệp. Do đặc điểm 7 sông ngòi như vậy nên đòi hỏi công tác đê điều, thủy lợi phải được chú trọng để đáp ứng nhu cầu tưới tiêu cũng như ngăn chặn lũ lụt [21, tr.17]. Duyên hải Nam Trung Bộ nằm trên nền khí hậu chung của cả nước, đó là khí hậu nhiệt đới gió mùa với các đặc trưng chủ yếu như nhiệt độ cao, khí hậu nóng ẩm, cường độ ánh sáng mạnh, lượng mưa nhiều và tập trung vào một số tháng trong năm, do vậy hàng năm thường xuyên xảy ra hạn hán, mưa bão, gây thiệt hại lớn về người và của. Đồng thời do ảnh hưởng của địa hình và sông ngòi thì khí hậu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ cũng mang đặc tính riêng- một vùng đất được mô tả là nơi “Bốn mùa ấm áp, cây cỏ mùa đông tươi tốt, bốn mùa đều ăn rau sống”. Đó là khí hậu thuộc vùng Đông Trường Sơn, mang sắc thái của khí hậu Á xích đạo nằm trong vùng ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình, hàng năm có hai mùa mưa, nắng rõ rệt, mùa mưa bắt đầu từ tháng 8 đến tháng 12 hoặc tháng 1 năm sau, những tháng còn lại là mùa nắng. Khí hậu này cũng được sách Ô châu cận lục viết như sau: “Thời tiết mùa xuân, mùa hạ thì nắng, mùa thu, mùa đông thì mưa”. Do lượng mưa lớn trung bình khoảng 2000-2500 mm trên một năm, lại tập trung trong khoảng thời gian ngắn, nên vào mùa mưa các con sông, suối trở nên ngập tràn và gây ra lũ lụt lớn, sạt lở ở nhiều nơi. Trong khi đó vào mùa nắng lại khô hạn thiếu nước sinh hoạt, tưới tiêu [21, tr.18]. Sự khắc nghiệt của thời tiết còn thể hiện qua chỗ hằng năm khu vực Nam Trung Bộ còn chịu ảnh hưởng từ các cơn bão trong tháng 9 đến tháng 11, gây thiệt hại nặng nề, mặc dù nằm trong khu vực nhiệt đới, là nơi gặp gỡ các khối không khí lục địa và nguồn gốc đại dương xích đạo, chịu ảnh hưởng khá sâu của chế độ gió mùa châu Á, chủ yếu là gió mùa Đông Bắc và Đông Nam, nhưng sự chia cắt mạnh của địa hình núi kéo dài ra biển của dãy Trường Sơn hình thành nên bức tường chắn đèo Hải Vân, nên hàng năm Duyên hải Nam Trung Bộ hầu như chịu tác động của gió mùa Đông Nam vì khí hậu ở khu vực này quanh năm luôn nóng ẩm [21, tr.1819]. Với sông ngòi thì ngắn dốc, khí hậu lại thay đổi theo mùa khi thổi qua đại dương gặp hướng bờ biển thay đổi, cùng địa hình cao của vùng núi gây mưa lũ. Ở các tỉnh này mùa mưa chung với mùa bão, các cơn bão hình thành ở vùng biển Đông hướng về phía Tây, bão lại tạo thêm mưa, thường gặp gió mùa Đông Bắc tạo nên triều cường cùng nước lũ của các con sông nên hàng năm trên vùng đất này 8 luôn phải chịu nhiều ảnh hưởng của thiên tai gây ra, lũ lụt, hạn hán, thủy triều. Đồng thời do trải dài trên 10 vĩ độ nên với các đèo chắn ngăn cách và hướng bờ biển thay đổi khác nhau nên khí hậu có sự phân hóa, chia thành các tiểu vùng khác nhau như sau: Tiểu vùng Quảng Nam-Quảng Ngãi có lượng mưa khá lớn, khoảng 20002500 mm, mùa mưa kéo dài 6 tháng, từ tháng 8 đến tháng 1 năm sau và mùa khô từ tháng 2 đến tháng 7. Tiểu vùng Bình Định-Phú Yên với kiểu khí hậu đầu mùa xuân khí hậu ôn hòa, tháng 3 đã nóng như mùa hè, tháng 7, tháng 8 khí hậu nóng vẫn chưa rút, khoảng sang thu đông thường có mưa dầm, mới thấy có hơi mát. Với kiểu khí hậu như vậy thì tiểu vùng này có số ngày mưa tương đối ít, lượng mưa trung bình chỉ khoảng 1500-2000mm, mùa khô kéo dài từ tháng 1 đến tháng 8. Tiểu vùng Khánh Hòa với khí hậu mùa đông, mùa xuân ấm áp, cuối xuân đã nóng như mùa hè.Tháng tư trở đi thường có mưa trận,...Cuối thu, đầu đông thì có mưa lụt, thỉnh thoảng có bão. Tiểu vùng Bình Thuận, mùa đông, mùa xuân ấm áp, cuối xuân đã nóng như mùa hè. Tháng 3, tháng tư có nhiều gió Nam, tháng 8, tháng 9 trở đi nhiều gió Đông, gió thì tung cát tốc nhà, bụi bay mù trời, tháng 9 thường có nhiều gió bão. Qua đó ta có thể thấy được các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ vừa mang kiểu khí hậu chung của nền nhiệt đới ẩm gió mùa Việt Nam kết hợp với kiểu khí hậu Á xích đạo của vùng, đã tạo ra khí hậu ấm áp, ôn hòa phù hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của nhiều loài động thực vật nơi đây, trong đó là nguồn thủy sản dồi dào từ biển [21, tr.19]. - Tài nguyên thiên nhiên Vùng Nam Trung Bộ có nguồn tài nguyên thiên nhiên khá phong phú, đa dạng như thạch anh, than, thiếc, vàng, chì, kẽm,...nhưng trữ lượng ít, phân tán, khó khăn cho việc khai thác, ven biển còn có trữ lượng titan lớn. Tài nguyên muối biển, bờ biển Nam Trung Bộ nước ta có điều kiện thuận lợi trong việc khai thác và chế biến muối biển, đó là có nhiều ngày nắng trong năm. Sản xuất muối hầu hết có tất cả ở các tỉnh miền Trung. Muối là một loại tài nguyên quan trọng không thể thiếu trong đời sống con người, gắn liền với sự phát triển của các nghề chế biến thủy hải sản khác. Lúc sắp lâm chung, chúa Tiên có dặn dò chúa 9 Sãi rằng “Đất Thuận Quảng này phía Bắc có Hoành Sơn và Linh Giang hiểm trở, phía Nam có Hải Vân sơn và Thạch Bi sơn bền vững. Núi sẵn vàng sắt, biển nhiều có muối, thật là nơi trời để cho người anh hùng dụng võ” [13, tr.55-56]. Trong lời di huấn trên, nhìn nhận theo địa thế thì hiểm trở là để bảo vệ lãnh thổ, bền vững là để xây dựng quốc gia, xét về tài nguyên thiên nhiên thì vàng sắt trong lòng đất cần thiết cho công cuộc kiến thiết, phát triển, cá muối nơi biển khơi đáp ứng nhu cầu nuôi sống muôn dân. Quan sát riêng lãnh thổ Nam Hà, thì dọc đường từ Quảng Ngãi trở vào, mỗi tỉnh đều có một hai vựa muối. Quảng Ngãi với Sa Huỳnh, Bình Định với Đề Gi, vựa muối của Phú Yên nằm bên bờ Cù Mông và vịnh Xuân Đài, Khánh Hòa có muối Hòn Khói và vựa muối ở Cam Thịnh bên bờ vịnh Cam Ranh, Ninh Thuận có muối Cà Ná, Thương Diêm, Bình Thuận là xứ nước mắm tất nhiên cũng là xứ muối. Tài nguyên lớn nhất của vùng đó là tài nguyên thủy, hải sản.Bờ biển Nam Trung Bộ dồi dào các thứ trai, sò, ngao. Thói quen của cư dân ở đây thích dùng loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ có thịt nhiều và lớn. Trai có ở những địa điểm như cù lao Ráy thuộc tỉnh Quảng Ngãi, mũi Nạy thuộc tỉnh Phú Yên. Tôm sú dồi dào ở các địa điểm như Phú Yên, Khánh Hòa trong khí các nơi khác rất hiếm. Các đặc sản khác của biển như mực hoặc các loại rùa biển cũng mang lại giá trị kinh tế cao. Các dải đá san hô có nhiều nơi, bọt biển ở vùng nước sâu và trong tại các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên nhưng số lượng rất ít. Về hải yến, phân bố chủ yếu: trong nhóm cù lao Chàm thuộc Quảng Nam, cù lao Ráy thuộc Quảng Ngãi, các đảo vùng biển Quy Nhơn thuộc Bình Định, hòn Ro ở Nha Trang thuộc Khánh Hòa [35, tr. 54-55]. Ngoài ra, phải kể đến nguồn tài nguyên phong phú trên hai quần đảo lớn của khu vực Nam Trung Bộ đó là quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là nơi có nhiều cây bàng biển, thân cao đến 7 mét, lá to, trái có nhân cứng, có dầu, trái chín ăn được; cây mù u có hạt để làm dầu thắp; cây nam sâm để làm dược liệu; dưới nước có rong biển có thể chế biến làm thức ăn. Cây trồng có phi lao, dừa và một số loại rau, dưa. Tài nguyên phong phú trên quần đảo Hoàng Sa dưới thời Chúa Nguyễn, được Lê Quý Đôn ghi lại rất cụ thể trong sách Phủ biên tạp lục vào năm 1776. Sách ghi rằng: “Phủ Quảng Ngãi, huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh ở gần biển, về phía đông bắc có nhiều cù lao, các núi hơn 130 ngọn, 10 cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng dài, ước hơn 30 dặm, bằng phẳng, rộng lớn, nước trong suốt đáy. Bên đảo có vô số yến sào, các thứ chim có hàng nghìn vạn, thấy người thì đậu vòng quanh không tránh. Bên bãi vật rất nhiều. Ốc vân thì có ốc tai voi to như chiếc chiếu, bụng có hạt to bằng đầu ngón tay, sắc đục, không như ngọc trai, cái vỏ có thể đẽo làm tấm bài được, lại có thể nung vôi xây nhà, có ốc xà cừ để khảm đồ dùng lại có ốc hương. Các thứ ốc đều có thể muối và nấu ăn được. Đồi mồi thì rất lớn. Có con hải ba, tục gọi là trắng bông, giống đồi mồi mà nhỏ, vỏ mỏng có thể khảm đồ dùng, trứng bằng đầu ngón tay cái, có thể muối ăn được. Có hải sâm, tục gọi là con đồn đột, bơi lội bên bãi, lấy về dùng vôi xát qua, bỏ ruột phơi khô, lúc ăn thì ngâm nước cua đồng, cạo sạch đi, nấu với tôm và thịt lợn càng tốt” [7, tr.6]. Nhìn chung, các tỉnh Nam Trung Bộ với các đặc điểm vị trí địa lý như có đường bờ biển dài, phần lớn các tỉnh đều giáp biển; có hệ thống sông ngòi, các đảo và quần đảo giàu tài nguyên thiên nhiên cùng với các yếu tố như khí hậu, địa hình đã mang lại tiềm năng lớn cho sự phát triển của khu vực, đặc biệt là ngành khai thác và đánh bắt thủy hải sản. 1.1.3. Dân cư Phần lớn dân cư trong vùng sinh sống chủ yếu ở vùng đồng bằng ven biển. Vùng miền núi ở phía Tây của vùng là nơi sinh sống của các tộc người thiểu số, với mật độ dân cư thưa thớt hơn. Như các vùng khác, dân tộc chiếm đa số của vùng là dân tộc Kinh. Có một vài dân tộc thiểu số, trong đó đáng chú ý là dân tộc Chăm. Họ sống chủ yếu ở xung quanh thành phố Phan Rang - Tháp Chàm (Ninh Thuận) và phía Bắc tỉnh Bình Thuận. Họ cũng sống rải rác ở một số nơi khác, như phía nam tỉnh Bình Định. Những dân tộc thiểu số khác sống ở phần đồi núi phía tây của vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ.Vùng sinh sống của đồng bào dân tộc thiểu số chiếm hơn một nửa diện tích của tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi.Cư dân ở vùng Duyên hải miền Trung do tiếp xúc với biển và nhiều luồng văn hóa khác nhau nên đã tích lũy được một số kiến thức nhằm khai thác biển, như nhận thức về các hiện tượng tự nhiên, độ nông sâu, thoải dốc của bờ, các dòng hải lưu nóng lạnh, chế độ thủy triều, chu kỳ con nước, các loại hải vật và sinh hoạt của chúng trong không gian và thời 11 gian, các công cụ đánh bắt, hướng gió, mây, trăng, sao, cùng những kiêng kỵ dần dần hình thành trong đời sống văn hóa của họ. 1.1.4. Vùng biển và một số đảo, quần đảo vùng Nam Trung Bộ Vùng biển miền Trung có hệ thống các đảo có vai trò to lớn về kinh tế và quốc phòng. Quanh các đảo, nghề cá phát triển mạnh. Ở đây có những ngư trường tốt, thuận lợi cho việc đánh bắt của ngư dân. Các triều đại Việt Nam và nhân dân đã khai thác bảo vệ hàng ngàn năm nay. - Đảo Cù Lao Chàm Cù Lao Chàm hay còn gọi là Chiêm Bất Lao, Tiêm Bích La, là một quần đảo gồm 7 hòn đảo lớn nhỏ (Hòn Lao, Hòn Tai, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn La, Hòn Khô mẹ và Hòn Khô con). Quần đảo này nằm trên biển Đông với tọa độ là 15015’20” 15015’15” vĩ Bắc, 108023’10” kinh Đông, cách cửa Đại 15km, cách trung tâm khu phố cổ Hội An khoảng 19km về hướng Đông – Đông Bắc. Cù Lao Chàm có tổng diện tích khoảng 15.5 km2, trong đó rừng chiếm 90%, các hòn đảo phân bố theo hình bán nguyệt, chạy dài theo hướng Bắc Nam, với chiều dài 15 km, nơi rộng nhất khoảng 5 km. Tại Cù Lao Chàm, hòn Lao là hòn có quy mô lớn nhất, với độ cao 517 m và là hòn chính trong các hòn đảo ở đây. Với hệ thống núi phát triển theo hình cánh cung, ở sườn núi phía Đông của Hòn Lao có vách núi cao dựng đứng vô cùng hiểm trở, còn sườn núi phía Tây có nhiều bãi cát bằng phẳng và vụng biển sâu, lại được hòn Dài và hòn Mồ che chắn, nên bãi cát dưới chân hòn Lao là điểm thuận lợi cho tàu thuyền cập bến tránh gió bão và trao đổi hàng hóa, đồng thời là nơi trú ngụ của cư dân. Tài nguyên trên quần đảo này khá phong phú, đặc biệt là nguồn nước ngọt cung cấp cho các tàu thuyền của người dân khi đi buôn bán hoặc đi đánh cá ngang qua. Người dân trên Cù Lao Chàm phần lớn làm nghề khai thác thủy, hải sản [12, tr. 123-124]. - Đảo Lý Sơn Huyện đảo Lý Sơn nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Quảng Ngãi, cách bờ biển khoảng 18 hải lý, gồm 1 đảo lớn (cù lao Ré) và đảo bé (cù lao Bờ Bãi) cách nhau 1.67 hải lý. Ngoài ra, ở phía Đông cù lao Ré có hòn Mù Cu vốn là bãi đá nhô cao lên trên mặt biển. Tọa độ địa lý của đảo Lý Sơn trong khoảng 1500 32’14” đến 1500 38’14” vĩ độ Bắc và 1090 05’04” đến 109014’12” kinh độ Đông, với tổng diện tích là 10.325 km2. Trong lịch sử, đảo Lý Sơn còn có tên gọi là cù lao Ré. Chữ “cù lao” 12 được Việt hóa từ chữ “pulau” có nghĩa là đảo. “Ré” là tên của một loại cây, mà theo tương truyền trước đây mọc thành hoang thành rừng trên đảo này. Từ xa xưa, cư dân Việt đã đến sinh cơ, lập nghiệp trên đảo Lý Sơn, họ cùng với người Chăm sinh sống và làm ăn [38, tr.64]. - Quần đảo Hoàng Sa Quần đảo Hoàng Sa là một quần đảo san hô nằm giữa biển Đông, trong kinh độ 1110 đến 1130 Đông, vĩ độ 15045’ đến 17015’, ngang với vĩ độ Huế và Đà Nẵng. Hoàng Sa nằm ở phía Bắc Biển Đông, trên đường biển quốc tế từ Châu Âu đến các nước phía Đông và Đông Bắc Á và giữa các nước Châu Á với nhau. Từ lâu Hoàng Sa đã thuộc chủ quyền lãnh thổ Việt Nam với tên Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa...Quần đảo Hoàng Sa gồm trên 30 đảo trong vùng biển rộng khoảng 15.000 km2 chia làm hai nhóm: Nhóm phía Đông có tên là An Vĩnh, gồm khoảng 12 đảo nhỏ và một số đảo san hô, trong đó 2 đảo lớn là Phú Lâm và Linh Côn, mỗi đảo rộng 1,5 km2, nhóm phía Tây gồm nhiều đảo xếp vòng cung nên gọi là nhóm lưỡi liềm, trong đó có các đảo Hoàng Sa, Quang Ánh, Hữu Nhật, Quang Hòa, Duy Mộng, Chim Yến, Tri Tôn... [4, tr.23]. Hoàng Sa nằm trong vùng “xích đạo từ” có độ sai lệch từ không thay đổi hoặc thay đổi rất nhỏ, rất thuận lợi cho việc đi biển. Quần đảo này có khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm, mưa nhiều, thường có sương mù và nhiều giông bão, nhất là từ tháng 6 đến tháng 8 hàng năm. Trên một số đảo có nguồn nước ngọt, cây cối um tùm, vô số chim và đặc biệt là có nhiều rùa biển sinh sống. Vùng biển này có tiềm năng lớn về khoáng sản và nguồn hải sản, thuận lợi trong việc phát triển kinh tế, quan trọng hơn đây là vị trí quân sự chiến lược, khống chế đường giao thông trên biển và trên không trong khu vực phía Bắc biển Đông [39, tr. 12-13]. - Quần đảo Trường Sa Quần đảo Trường Sa nằm về phía Đông Nam của Việt Nam, cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 350 hải lý. Đảo Trường Sa (tên gọi và tọa độ tiêu điểm chung cho cả quần đảo Hoàng Sa) cách Vũng Tàu 305 hải lý, cách Cam Ranh (tình Khánh Hòa) 248 hải lý, cách đảo Phú Quý (tỉnh Bình Thuận) 210 hải lý. Quần đảo Trường Sa trải dài từ 6050’- 120 vĩ Bắc, tương ứng khoảng 500 hải lý kể từ bãi Tư Chính ở phía Nam – Tây Nam đến bãi Cỏ Rong phía Bắc- Đông Bắc [7, tr.7, 8]. Quần đảo Trường Sa được chia làm 10 cụm: Song Tử, Thị Tứ, Loại Ta, Nam Yết, Sinh Tồn, 13 Trường Sa, Thám Hiểm, Bãi Vũng Mây, Bãi Hải Sâm, Bãi Lim, Song Tử Tây là đảo cao nhất (cao 4 đến 6 mét lúc triều xuống); Ba Đình là đảo rộng nhất (0,6km2) trong quần đảo. Điều kiện tự nhiên và khí hậu vùng này rất khắc nghiệt: nắng gió, giông bão thường xuyên, thiếu nước ngọt, nhiều đảo không có cây. Quần đảo Trường Sa không chỉ là vị trí quân sự chiến lược án ngữ phía Đông Nam nước ta, bảo vệ vùng biển và hải đảo ven bờ mà còn có nhiều loại động thực vật [4, tr.24]. Trên đây là những đảo và quần đảo ở vùng biển Nam Trung Bộ có tiềm năng khai thác thủy, hải sản rất lớn, nơi dừng chân trong mỗi chuyến đi biển của ngư dân từ xa xưa đến nay. Các quần đảo này còn là vùng biển, ngư trường được các triều đại phong kiến Việt Nam xác lập và bảo vệ. 1.2. Khái quát lịch sử hình thành vùng đất Nam Trung Bộ Dưới các thời Trần, Hồ, Lê các tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng đến Bình Định lần lượt được sáp nhập vào nước ta. Đến thời Lê Thánh Tông, ranh giới nước ta về phía Nam đã tận núi Thạch Bi (phía Nam Phú Yên) nhưng trên thực tế, dân Việt chỉ mới sinh sống ở phía Bắc đèo Cù Mông, thuộc tỉnh Bình Định ngày nay. Kế thừa thành quả của các triều đại đi trước các chúa Nguyễn tiếp tục công cuộc mở đất về phía Nam. Quá trình này diễn ra trong bối cảnh có nhiều thuận lợi cho các chúa Nguyễn, đặc biệt là sự suy yếu của Champa vào đầu thế kỷ XVII.Với cuộc tấn công của vua Lê Thánh Tông vào Champa năm 1471, Champa đã mất đi vị thế vốn có của mình trong lịch sử. Vương quốc Champa một phần lãnh thổ bị sáp nhập vào Đại Việt, phần còn lại được chia thành ba tiểu quốc là Nam Bàn, Hoa Anh và Champa. Thực chất chỉ có Champa là tồn tại như một tiểu quốc tương đối độc lập nhưng cũng đang trong quá trình suy yếu và hầu như không có tiếng nói gì trong lịch sử, hàng năm vẫn làm nhiệm vụ cống nạp cho Đại Việt [6, tr. 23-24]. Cùng với việc mở rộng lãnh thổ trên đất liền, các vị vua dưới thời nhà Lê đã mở rộng lãnh thổ trên vùng biển, đặc biệt là các đảo. Căn cứ vào danh xưng Bãi Cát Vàng trong tập Hồng Đức bản đồ được thực hiện dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460-1497). Tôn Thất Dương Kỵ cho rằng: “Muộn nhất là vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XV, người Việt đã tìm được quần đảo ấy đang vô chủ” và cho rằng cái tên Bãi Cát Vàng bằng tiếng Việt Nam nói rõ chính nhân dân lao động Việt Nam đã tìm ra đất mới ấy, dùng tiếng nói của mình đặt tên cho nó. Đến khi Nhà nước Việt 14 Nam chủ quyền hóa lãnh thổ, mới Hán Việt hóa Bãi Cát Vàng thành Hoàng Sa”. Bãi Cát Vàng là tên Nôm, ngôn ngữ thông dụng của ngư dân miền Trung Việt Nam do lao động, đánh bắt, khai thác ở quần đảo này sớm nên đã đặt tên và được ghi chép chính thức trong Hồng Đức bản đồ là bản đồ quốc gia được thực hiện bằng chủ trương của triều đình thời Lê Thánh Tông [7, tr.4]. Đến năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa, ông ra sức xây dựng và mở rộng vùng đất Đàng Trong về phía Nam. Đặc biệt, khi mới vào đây, chúa Nguyễn Hoàng đã kế thừa người Champa trong việc khai thác và thực thi chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa: “Năm 1558, chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, Vũ Thì An, Vũ Thì Trung và con cháu người Champa giúp ông chiếm lĩnh Hoàng Sa” [6, tr. 20-21]. Năm 1611, Nguyễn Hoàng mở đất, lập phủ Phú Yên, khẳng định lại núi Đá Bia là địa giới cực Nam, rồi tiếp tục đưa dân vào ở. Năm 1653 chúa Nguyễn Phúc Tần vào vào Nam lập ra phủ Thái Khang (Khánh Hòa ngày nay) và cháu thế hệ thứ tư của chúa Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Chu đã mở đất lập phủ Bình Thuận năm 1697. Tốc độ di dân vào phủ Bình Thuận ngày càng được đẩy mạnh hơn vào thế kỷ XVIII. Quá trình mở mang lãnh thổ Nam Trung Bộ của các chúa Nguyễn diễn ra 115 năm, tính từ thời điểm bắt đầu mở đất Phú Yên đến cho đến khi có được phủ Bình Thuận, đã mang về cho Đàng Trong một vùng lãnh thổ rộng lớn về phía Nam.Vương quốc Champa dần dần bị thu hẹp lãnh thổ từng phần và cuối cùng bị sáp nhập vào Đàng Trong [6, tr.38]. Cùng với quá trình mở rộng đất đai, các chúa Nguyễn cũng đã quan tâm đến công tác khai thác và bảo vệ vùng biển nước ta, đặc biệt là trên quần đảo Hoàng Sa. Qua đầu thế kỷ XVIII khi vương quốc Champa suy yếu, cư dân tập trung ở vùng Bình Thuận (sau năm 1697), chúa Nguyễn Phúc Chu đã cử quan chức đo đạc, khảo sát, khai thác Trường Sa. Đội Bắc Hải được thành lập, phần lớn tuyển chọn ngư dân vùng Bình Thuận, nhưng vẫn do đội Hoàng Sa kiêm quản [7, tr.8]. Đến thời nhà Nguyễn, vua Gia Long sau khi lên ngôi đã đặt các tỉnh Nam Trung Bộ thành các dinh (là một tổ chức chính quyền cấp tỉnh). Bao gồm các dinh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Bình Định, Bình Hòa, Bình Thuận. Vua Gia Long sau khi lên ngôi, tuy bận việc triều chính nhưng vẫn tiếp tục quan tâm đến việc khai thác biển cũng như an ninh trên biển. Chỉ một năm sau khi lên ngôi, tháng 7 năm Quý Hợi (1803), vua Gia Long đã cho lập lại đội Hoàng Sa. Năm 15 1808, vua Gia Long cho đổi dinh thành trấn với Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận. Đến năm 1834, vua Minh Mạng phân chia đất nước ra các khu vực quản lý. Trong đó Nam Trung Bộ được chia thành: Tả Trực gồm hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi; Tả Kỳ gồm 4 tỉnh là Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và Bình Thuận. Cùng với việc xác lập các địa danh và địa giới hành chính các tỉnh Nam Trung Bộ, các vị vua triều Nguyễn rất chú trọng đến việc xác lập chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó cũng là một biểu hiện của việc mở rộng, nâng cao sự quản lý toàn diện trên cả đất liền và hải đảo. Như vậy, từ thế kỷ XI đến thời các vị vua triều đại nhà Nguyễn các tỉnh Nam Trung Bộ lần lượt được thành lập. Trên các vùng biển và hải đảo cũng đã được các triều đại phong kiến Việt Nam đặt chủ quyền và liên tục khai thác qua các thế kỷ. Địa giới, tên gọi các tỉnh, các địa danh cũng được thay đổi qua các thời kỳ lịch sử. Đến thời Minh Mạng, các địa danh và địa giới hành chính cấp tỉnh cơ bản đã được xác lập và duy trì cho đến ngày nay. Điều đó có ý nghĩa rất lớn không những về văn hóa chính trị, phát triển kinh tế mà cả trong ý thức xây dựng và bảo vệ đất nước đối với các tỉnh Nam Trung Bộ qua các thời kỳ lịch sử. 1.3. Ngư nghiệp Nam Trung Bộ trước thế kỷ XVI Khu vực Nam Trung Bộ vốn có điều kiện tự nhiên thuận lợi để khai thác thủy hải sản. Từ lâu, trên vùng đất này đã có nhiều bằng chứng nói lên điều đó. Đầu tiên, vết tích võ nhuyễn thể đã được tìm thấy di chỉ thuộc thời kỳ đá mới như Xóm Cồn (Khánh Hòa). Theo thời gian, vết tích vỏ nhuyễn thể không những tăng lên về số lượng mà còn xuất hiện các dấu tích về xương cá, chì lưới cho thấy trình độ đánh bắt thủy hải sản cũng như dự báo về sự xuất hiện của các công cụ đánh bắt như chài lưới, lao, lưỡi câu và phương tiện đi lại trên mặt nước như thuyền bè thời kỳ này [16, tr.105]. Vùng Nam Trung Bộ là không gian văn hóa Sa Huỳnh. Trên địa bàn của nền văn hóa Sa Huỳnh có hai bộ lạc sinh sống và bộ lạc Cau và bộ lạc Dừa. Bộ lạc Cau ở phía Nam, cư trú trên vùng duyên hải từ Phú Yên, Khánh Hòa đến Ninh Thuận, Bình Thuận. Bộ lạc Dừa ở phía Bắc, cư trú dọc dải ven biển từ Quảng Nam, Đà Nẵng vào đến Quảng Ngãi, Bình Định. PGS. Lâm Thị Mỹ Dung đã từng nhận định “Ngay từ thời văn hóa tiền Sa Huỳnh và Sa Huỳnh, những cộng đồng cư dân trong 16 vùng nội địa, duyên hải và đảo ven bờ miền Trung Việt Nam đã có mối quan hệ giao lưu mạnh mẽ với các nền văn hóa đồng đại trong khu vực. Nhờ vào vị thế địa – kinh tế, địa – văn hóa, địa – chính trị khoan dung và khoáng đạt, cư dân miền Trung Việt Nam đã biết tranh thủ những điều kiện thuận lợi về tự nhiên, nhân văn để tiếp xúc, giao lưu kinh tế, văn hóa. Miền Trung là nơi gặp gỡ, hội tụ nhiều luồng dân cư, nhiều dòng văn hóa. Chính những yếu tố đó đã tạo nên một không gian văn hóa đặc thù, thể hiện tính hướng biển điển hình và sinh động nhất so với các không gian văn hóa khác của Việt Nam” [22, tr. 85-86]. Tiếp theo là đến thời kỳ Champa. Hàng hải viễn dương vốn là thế mạnh của cư dân ven biển miền Trung có từ thời Champa. Người Champa có truyền thống rất lâu đời và kinh nghiệm đi biển phong phú hơn các tộc người trong khu vực biển Đông. Theo giáo sư Trần Quốc Vượng là “Một dân tộc đóng ghe bầu giỏi giang, kết hợp truyền thống ghe bầu Mã Lai và hội nhập với những yếu tố thuyền biển Ấn Độ Dương và Địa Trung Hải. Champa có hàng trăm thuyền lầu là thuyền chiến và thương thuyền dài hơn 20 trượng, cao hơn mặt nước biển hai, ba trượng, trông như nhà gác, chở được...hàng vạn hộc (khoảng tạ) sản vật” [22, tr.87]. Người Champa còn sớm có mặt ở quần đảo Trường Sa. Tác giả Trịnh Sinh cho biết gốm khai quật ở đảo Hoàng Sa lớn mang đặc trưng phức hợp gốm Sa Huỳnh – Kalanay. Một số mảnh sứ được tìm được trong hố khai quật cũng được xác định là sứ của người Chăm – hậu duệ của người Sa Huỳnh. Theo ông: “Với những tư liệu khảo cổ đào ở Trường Sa lớn đã hé mở một điều là cách đây hàng ngàn năm, có thể người Sa Huỳnh và sau đó là người Champa ở miền Trung Việt Nam đã có mặt ở quần đảo Trường Sa và nơi này là đầu cầu để giao lưu văn hóa, trao đổi vật phẩm đối với Palawan của Philippines” [22, tr.89]. Có thể thấy được rằng từ thời văn hóa Sa Huỳnh, trải qua các thời vương quốc Champa, quần đảo Trường Sa đã có mặt những cộng đồng cư dân miền Trung nước ta khai phá, làm chỗ dừng chân trong những chuyến đi biển xa. Còn có dấu tích về tượng người ở Mỹ Sơn, người ta phát hiện ở Mỹ Sơn A1 và Trà Kiệu, tượng vũ nữ có vật che thân chỉ là đồ trang sức hoặc một cái váy ngắn kiểu cách, vạt buông rũ hình đuôi cá [23, tr.171]. Nhiều nghiên cứu đã nói lên được nghề sinh sống chủ yếu của cư dân Champa lúc bấy giờ là dựa vào biển “Để sinh sống, Chăm Hồi làm ruộng nước, ngư nghiệp trên sông, chăn nuôi gia súc, buôn bán cá và gia súc [23, tr. 207]. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan