ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA SINH - MÔI TRƯỜNG
NGUYỄN THỊ THU HÀ
NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI VÀ KÍCH THƯỚC
MỘT SỐ ĐỐI TƯỢNG CÁ CHỦ YẾU KHAI THÁC BẰNG
NGHỀ RỚ Ở XÃ CẨM THANH - HỘI AN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đà Nẵng - Năm 2018
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA SINH - MÔI TRƯỜNG
NGUYỄN THỊ THU HÀ
NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI VÀ KÍCH THƯỚC
MỘT SỐ ĐỐI TƯỢNG CÁ CHỦ YẾU KHAI THÁC BẰNG
NGHỀ RỚ Ở XÃ CẨM THANH - HỘI AN
Ngành: Sư phạm Sinh học
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Tường Vi
Đà Nẵng - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Thị Thu Hà
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện Khóa Luận Tốt Nghiệp và những gì đạt được
hôm nay, thì đó không chỉ là những cố gắng, nỗ lực của riêng bản thân, mà
trên hết là phần lớn công lao giảng dạy và hướng dẫn của các thầy giáo, cô
giáo,…cũng như các hỗ trợ, chia sẻ của mọi người ở nhiều phương diện.
Em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Tường
Vi đã quan tâm, giúp đỡ, góp phần định hướng bài luận, cũng như hỗ trợ về
tinh thần để em có thể thực hiện tốt Khóa Luận Tốt Nghiệp này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô, các anh chị cán bộ trong
khoa Sinh-Môi trường, trường Đại học Sư Phạm-ĐH Đà Nẵng cũng như các
thầy cô trong trường đã giảng dạy, giúp đỡ chúng em trong 4 năm học qua.
Chính các thầy cô đã xây dựng cho chúng em những kiến thức nền tảng và
những kiến thức chuyên môn để em có thể hoàn thành luận văn này cũng
như những công việc của mình sau này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn đến GS.TS Chu Mạnh Trinh đã tạo cơ hội để
em tham gia buổi tham vấn cùng ngư dân tại xã Cẩm Thanh-Hội An, góp
phần định hướng, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận.
Cuối cùng em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến các cơ quan chức
năng, ngư dân tại các khu vực nghiên cứu, gia đình và người thân, bạn bè đã
luôn động viên giúp đỡ em trong suốt thời gian học tập và hoàn thành khóa
luận này!
Đà Nẵng, ngày 26 tháng 04 năm 2018
Sinh viên
Nguyễn Thị Thu Hà
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ..........................................................................................1
2. Mục tiêu đề tài .........................................................................................................1
3. Ý nghĩa khoa học của đề tài ....................................................................................2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ..................................................................3
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC LOẠI NGHỀ KHAI THÁC VÙNG VEN
BỜ…. ..........................................................................................................................3
1.1.1.
Trên thế giới ..................................................................................................3
1.1.2.
Ở Việt Nam ....................................................................................................4
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THÀNH PHẦN LOÀI CÁ KHAI THÁC
VÙNG VEN BỜ .........................................................................................................7
1.2.1. Việt Nam ...........................................................................................................7
1.2.2. Tình hình nghiên cứu thành phần loài cá ở xã Cẩm Thanh, Hội An ..............16
1.3.
GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ RỚ ....................................................................18
1.3.1.
Rớ đáy..........................................................................................................18
1.3.2.
Rớ quay ........................................................................................................21
1.4. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN – KINH TẾ XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU ....26
1.4.1. Điều kiện tự nhiên ...........................................................................................26
1.4.1.1. Vị trí địa lí, địa hình .....................................................................................26
1.4.1.2. Khí hậu .........................................................................................................26
1.4.1.3. Các yếu tố thủy văn ......................................................................................28
1.4.1.4. Sinh vật và nguồn lợi thủy sản ở Cẩm Thanh ..............................................30
1.4.2. Tình hình kinh tế - xã hội tại xã Cẩm Thanh – Hội An .................................32
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
...................................................................................................................................34
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU ...........................................................................34
2.2. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU ...............................................................................34
2.3. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU .............................................................................34
2.4. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ..............................................................................34
2.5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU......................................................................34
2.5.1. Phương pháp thu nhập thông tin .....................................................................34
2.5.2. Phương pháp thu mẫu thực địa .......................................................................35
2.5.3. Phương pháp phân loại cá ...............................................................................35
2.5.4. Phương pháp xử lí số liệu ...............................................................................37
CHƯƠNG 3: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ...........................................................38
3.1. CƠ CẤU NGÀNH NGHỀ KHAI THÁC THỦY SẢN TẠI XÃ CẨM THANH
– HỘI AN ..................................................................................................................38
3.1.1. Cơ cấu phương tiện khai thác .........................................................................38
3.1.2. Cơ cấu ngành nghề ..........................................................................................39
3.2. THỰC TRẠNG KHAI THÁC NGUỒN LỢI THỦY SẢN BẰNG RỚ QUAY
Ở CẨM THANH. ......................................................................................................41
3.2.1. Thời gian khai thác bằng rớ quay....................................................................41
3.2.2. Thành phần khai thác bằng rớ quay ................................................................ 42
3.2.3. Sản lượng khai thác một số đối tượng cá có giá trị kinh tế của nghề rớ .........42
3.3. THÀNH PHẦN LOÀI MỘT SỐ ĐỐI TƯỢNG CÁ CHỦ YẾU KHAI THÁC
BẰNG RỚ QUAY ....................................................................................................43
3.4. KÍCH THƯỚC MỘT SỐ ĐỐI TƯỢNG CÁ CHỦ YẾU KHAI THÁC BẰNG
NGHỀ RỚ .................................................................................................................45
3.5. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NGUỒN LỢI THỦY SẢN XÃ CẨM
THANH - HỘI AN....................................................................................................47
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 51
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH …………………………………….…………………….….56
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
bảng
Trang
1.1
Các thông số kĩ thuật của rớ đáy
19
1.2
Các thông số kĩ thuật của rớ quay
23
2.1
Kế hoạch tham vấn cộng đồng tại các thôn thuộc xã Cẩm
Thanh – Hội An
35
3.1
Cơ cấu phương tiện khai thác nguồn lợi thủy sản ở xã Cẩm Thanh
38
3.2
Cơ cấu ngành nghề khai thác ven bờ ở xã Cẩm Thanh – Hội An
40
3.3
3.4
3.5
3.6
Ước tính sản lượng và doanh thu của ngư dân đánh bắt bằng
nghề rớ ở vùng cửa sông Thu Bồn, Hội An
Thời gian và sản lượng cá thu được trong 6 đợt
Danh mục thành phần loài cá chủ yếu khai thác bằng nghề rớ ở
xã Cẩm Thanh - Hội An
Kích thước trung bình một số đối tượng cá chủ yếu khai thác
bằng nghề rớ ở xã Cẩm Thanh
42
43
44
45
DANH MỤC HÌNH
Số hiệu
Tên hình vẽ
hình vẽ
Trang
1.1
Cấu tạo rớ đáy
19
1.2
Cấu tạo rớ quay
22
1.3
Bộ phận thu lưới của rớ quay
25
1.4
Các hộ chia theo ngành sản xuất chính ở Cẩm Thanh, Hội An
năm 2016
33
2.1
Các chỉ số đo trong phân loại cá
36
2.2
Các chỉ số đếm trong phân loại cá
37
3.1
3.2
3.3
Cơ cấu phương tiện khai thác nguồn lợi thủy sản ở xã Cẩm Thanh,
Hội An
Cơ cấu ngành nghề khai thác ven bờ ở xã Cẩm Thanh, Hội An
Kích thước một số đối tượng cá chủ yếu khai thác bằng nghề
rớ ở xã Cẩm Thanh - Hội An
39
41
46
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sông Thu Bồn là sông lớn của khu vực Trung và Nam Trung Bộ. Lưu
lượng dòng chảy trung bình vào mùa mưa có thể lên đến 850 m3/giây. Do vậy phần
lưu lượng sông đã tạo nên khu vực đất ngập nước rộng lớn. Quan trọng và đáng chú
ý nhất là khu vực xã Cẩm Thanh và các vùng phụ cận với hơn 1200 hecta diện tích
mặt nước. Với hệ sinh thái điển hình vùng nhiệt đới là rừng ngập mặn và thảm cỏ
biển [11]. Về phương diện sinh vật, các hệ sinh thái này có sự đa dạng sinh học rất
cao, là nơi sinh sống và ương dưỡng của nhiều loài động vật biển có giá trị. Vì vậy
thành phần loài cá vùng cửa sông Thu Bồn cũng khá đa dạng [10], [36].
Cũng chính những điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân vùng
Cẩm Thanh hướng tới phát triển nghề khai thác thủy sản. Đây là một trong những
ngành nghề đem lại thu nhập chính cho ngư dân nghèo sống ở đây. Người dân nơi
đây khai thác thủy sản chủ yếu ở vùng hạ lưu sông Thu Bồn bằng nhiều nghề khác
nhau: Soi, câu, thả lưới, giã cào… với nhiều ngư cụ: Lờ, lưới xếp, trủ, rớ…trong đó
có rớ (bao gồm rớ đáy và rớ quay). Tại xã Cẩm Thanh rớ được sử dụng phổ biến,
khai thác được nhiều đối tượng, kích cỡ khác nhau.
Bên cạnh đó, một số nguồn lợi thủy sản ở sông Thu Bồn đang suy giảm
mạnh bởi hoạt động khai thác quá mức bằng những ngư cụ không hợp lý [9]. Xuất
phát từ những lí do trên chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu thành
phần loài và kích thước một số đối tượng cá chủ yếu khai thác bằng nghề rớ ở xã
Cẩm Thanh - Hội An”. Nhằm nghiên cứu và đề xuất các giải pháp bảo tồn nguồn lợi
thủy sản ở đây.
2. Mục tiêu đề tài
Cung cấp dữ liệu về thành phần và kích thước một số đối tượng cá khai
thác bằng rớ. Qua đó, đánh giá tác động của việc sử dụng rớ đối với việc khai thác
nguồn lợi thủy sản. Nhằm đề xuất các giải pháp quản lý ngành nghề khai thác để
bảo vệ nguồn lợi thủy sản tại xã Cẩm Thanh - Hội An.
2
3. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Cung cấp nguồn tư liệu khoa học phục vụ cho công tác nghiên cứu và học
tập, trên cơ sở đó đề xuất được các nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
và sử dụng các ngành nghề khai thác nguồn lợi thủy sản ở xã Cẩm Thanh – Hội An
nói riêng và vùng biển Việt Nam nói chung.
3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC LOẠI NGHỀ KHAI THÁC VÙNG
VEN BỜ
1.1.1.
Trên thế giới
Từ lâu con người đã chế tạo những loại dụng cụ đơn giản để đánh bắt cá ở
các thủy vực nội địa (ruộng đồng, ao hồ, suối,…) phục vụ nhu cầu cuộc sống hằng
ngày.
Từ cuối thế kỷ XVII, sự xuất hiện của lưới đây là bước tiến quan trọng trong
hoạt động khai thác. Cũng từ đó, một số ngư cụ mới được ra đời như: Lưới rê, lưới
đăng, một số ngư cụ đánh bắt có tính chủ động như: Lưới chụp, lưới nâng, lưới vây,
lưới kéo cũng ngày càng nhiều.
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, dụng cụ đánh cá được con
người cải tiến dần về cấu trúc cũng như tính phức tạp. Số lượng ngư cụ sử dụng để
đánh bắt các loài cá lớn hơn sinh sống trên các con sông lớn và vùng ven biển, cửa
sông ngày một gia tăng. Và hiện nay xuất hiện nhiều loại ngư cụ có cấu trúc phức
tạp, hiện đại đánh bắt những đàn cá lớn ở vùng biển khơi và đại dương.
Với mục đích thống kê các loại ngư cụ con người đã tạo và sử dụng để bảo
tồn di sản văn hóa của nghề cá. Các nhà khoa học trên thế giới đưa ra nhiều quan
điểm phân loại khác nhau [13].
Theo dấu hiệu đặc trưng khác nhau của ngư cụ đã có nhiều tác giả: Năm
1952 Umali đã phân loại ngư cụ trên bán đảo Phần Lan theo nguyên tắc thứ tự chữ
cái La-tinh.
Phân loại trên cơ sở đa số các dấu hiệu đặc biệt, năm 1952 Bua đôn đã thiết
lập hơn 50 dấu hiệu khác nhau. Phương pháp này rất cồng kềnh và mắc nhiều
khuyết điểm.
Phân loại ngư cụ dựa theo đối tượng đánh bắt, Kaieski đã phát triển các dạng
ngư cụ khai thác chúng từ đơn giản tới phức tạp.
Phân loại ngư cụ trên một số dấu hiệu chính, tiêu biểu Mirski ngư cụ được
chia thành 8 lớp (Ngư cụ tách cá, ngư cụ lọc cá, ngư cụ bẫy, ngư cụ đóng, nghề câu,
4
ngư cụ sát thương, dụng cụ tách nước, dụng cụ tổng hợp) dựa trên dấu hiệu đặc biệt
của nguyên lý đánh bắt.
Trong đó phân loại phổ biến nhất là dựa trên hệ thống phân loại của FAO
[47]. Dựa trên nguyên lý đánh bắt, chia ngư cụ thành 12 lớp (Lưới vây, lưới rùng,
lưới kéo, cào, vó, mành, lưới chụp, lưới rê và lưới vướng, lồng bẫy, nghề câu, dụng
cụ khác như lao, xiên, và sử dụng chất gây mê để đánh bắt cá). Trong mỗi lớp còn
được chia theo cấu trúc và phương thức hoạt động của ngư cụ đó.
1.1.2.
Ở Việt Nam
Ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu, một số tài liệu về ngư cụ
khai thác cá nội địa. Tuy nhiên các nghiên cứu này mới chỉ mang tính địa phương,
chưa được hoàn thiện. Theo cách phân loại của Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản
III, ngư cụ được phân thành 13 nhóm: Nhóm thu nhặt, nhóm vợt – xúc, nhóm ngư
cụ sát thương, nhóm câu, nhóm bẫy, nhóm lưới rê và lưới giăng, nhóm lưới vây lưới rùng, nhóm ngư cụ kéo, nhóm ngư cụ đẩy, nhóm vó, nhóm ngư cụ chụp, nhóm
lưới túi và nhóm ngư cụ khác.
Đóng góp lớn nhất phải kể đến phân loại ngư cụ khai thác các nước ngọt Việt
Nam theo Bộ - Họ - Kiểu – Loại của Nguyễn Duy Chỉnh [6]. Tuy nhiên mỗi vùng
miền sẽ sử dụng các ngư cụ khác nhau phù hợp với điều kiện kinh tế cũng như hiệu
quả của ngư cụ đó. Chính vì vậy, đến năm 2006 Nguyễn Du cùng cộng tác viên của
mình đã đưa ra bộ sưu tập ngư cụ vùng nước nội địa vùng đồng bằng sông Cửu
Long. Các loại ngư cụ khai thác cá nước ngọt rất phong phú và đa dạng. Viện
nghiên cứu thủy sản II, đã điều tra tại đồng bằng sông Cửu Long có khoảng 120 loại
ngư cụ, chia thành 13 nhóm khác nhau bao gồm: Dậm, te, lưới úp, lưới rê, lưới
kéo… [7]
Tiếp bước nghiên cứu về các loại ngư cụ phải kể đến: Năm 2007 Nguyễn
Như Sơn thực hiện đề tài điều tra được 25 loại ngư cụ khai thác vùng nội địa Quảng
Nam trên 8 đơn vị hành chính: Phú Ninh, Núi Thành, Hội An, Đại Lộc, Quế Sơn,
Tam kì, Duy Xuyên [34].
Tuy nhiên nghiên cứu về các loại ngư cụ khai thác thủy sản ven bờ còn rất
hạn chế, những thông tin về ngư cụ chưa tập hợp thành các báo cáo chuyên đề mà
5
mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một phần nhỏ trong các đề tài, dự án hoặc trên
các tạp chí khoa học. Cụ thể như sau:
Theo Nguyễn Thanh Long, trong tạp chí khoa học năm 2010. Ông chỉ mới đề
cập đến việc số lượng tàu thuyền tăng cùng với việc sử dụng các phương thức khai
thác mang tính hủy diệt là nguyên nhân chính làm nguồn lợi thủy sản suy giảm [25].
Cũng theo Nguyễn Thanh Long (2011), đồng bằng sông Cửu Long có hơn 100 loại
ngư cụ khai thác khác nhau. Một số công cụ đã dần mất đi, nhưng cũng có một số
công cụ mới được hình thành và được chia thành 3 nhóm chính. Nhóm ngư cụ cố
định gồm: Nghề lưới đáy (đáy cọc, đáy bè, đáy neo); đăng, nò (đăng bờ, đăng khơi,
đăng mé, nò); bẩy (lọp, chum, bẩy lồng); lưới giăng cố định (lưới giăng ao-hồ, lưới
giăng sông, lưới quàng); câu (câu cắm, câu kiều). Nhóm ngư cụ di động gồm: Kéo,
đẩy (lưới kéo, te, xiệp); lưới giăng (lưới rê trôi, lưới rê 3 lớp); lưới vây, bao (lưới
vây, lưới bao, lưới rê vây, lưới rừng); đâm, chĩa (đâm cá, chĩa lươn); chụp (chài,
chụp cá sặc, nôm); câu (câu tay, câu rê, câu chạy). Nhóm ngư cụ kết hợp điện,
nguồn sáng, chất nổ gồm: Lưới vây đèn, chụp mực, câu mực, soi cá, chích điện,
chất nổ.
Dựa theo tên gọi địa phương, nguyên tắc đánh bắt, độ lớn chu vi mặt lưới,
phương pháp sử dụng mà Nguyễn Du và ctv (2006) [7] đã chia ngư cụ thành 13
nhóm chính: Nhóm thu nhặt, nhóm vợt – xúc, nhóm ngư cụ sát thương, nhóm câu,
nhóm bẫy, nhóm lưới rê và nhóm lưới giăng, nhóm lưới vây – lưới rùng, các ngư cụ
kéo, ngư cụ đẩy, nhóm vó, nhóm ngư cụ chụp, nhóm lưới túi và nhóm ngư cụ khác
(thuốc cá, tát đìa, kéo côn, đạp cá kèo,...).
Đến năm 2011 trên tạp chí khoa học - “Thực trạng nghề lưới kéo ven bờ tỉnh
Khánh Hòa” dựa vào kết quả nghiên cứu chứng minh được rằng nghề lưới kéo ở
địa phương mang tính hủy diệt nguồn lợi thủy sản, tàn phá môi trường do sử dụng
kích thước mắt lưới nhỏ và hoạt động quanh năm. Hậu quả của nó là đánh bắt nhiều
loài cá nhỏ, cá trưởng thành làm mất dần khả năng bổ sung nguồn lợi thủy sản cho
vùng biển [3]. Trong luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Gia Thạnh “Nghiên cứu hiện
trạng và đề xuất một số định hướng khai thác, sử dụng hợp lý nguồn lợi dừa nước
tại xã Cẩm Thanh, thành phố Hội An” [38] kết quả cho rằng phương thức khai thác
6
thủy sản ở đây chủ yếu là lờ và thả lưới chiếm 23,5%. Các dụng cụ khác như cào
chiếm 15%, xung điện chiếm 3%.
Năm 2013, khi nghiên cứu về các ngành nghề khai thác nguồn lợi cá Dìa
vùng cửa sông Thu Bồn. Đã nêu ra được các ngành nghề đánh bắt chủ yếu là trủ,
nhủi, rớ, lờ Trung Quốc… trong đó rớ chiếm 12,5% chiếm tỉ trọng thấp. Trong
nghiên cứu này chỉ mới đề cập đến mức độ hủy diệt của trủ và nhủi mà chưa đề cập,
chứng minh mức độ hủy diệt của các nghề khai thác khác [37]. Trong kỷ yếu Hội
Nghị Quốc tế “Biển Đông 2012” điều tra và phát hiện thêm 2 nghề khai thác thủy
sản vùng ven bờ Đà Nẵng đó là nghề lưới rê chim (rê cá chim) và nghề lờ Trung
Quốc (lờ dây), đây là 2 nghề chỉ mới phát hiện từ năm 2009 [40]. Tuyển tập nghiên
cứu biển “Biến động nguồn lợi khai thác thủy sản trong Đầm Thị Nại, tỉnh Bình
Định” của Võ Sỹ Tuấn đưa ra năm 2012 - 2013, có 14 loại nghề chính tham gia
khai thác trong Đầm Thị Nại, đã giảm 2 nghề là rớ chồ và lưới mành so năm 2008 2009. Trong đó có 5 nghề như nhủi, lưới lồng, đào, xúc bộ và lưới gạn được gia
tăng về số lượng và số người khai thác, đặc biệt là nghề nhủi và nghề lưới lồng [24].
Đến năm 2015, 2016 đã có biến chuyển mới, người ta đã tiến hành nghiên cứu về
hiện trạng khai thác của nghề lưới đăng ở tỉnh Hậu Giang và nghề lưới kéo ở tỉnh
Bạc Liêu, nghề lưới rê hỗn hợp ở tỉnh Trà Vinh [18] [19] [20]. Đây cũng là bước
tiến mới trong việc đánh giá và quản lý tốt các loại ngư cụ khai thác thủy sản.
Trong những năm tiếp theo, thì mức độ khai thác thủy sản bằng nghề rớ tăng
đáng kể [35] [1] [42] [22] nhưng chỉ dừng lại ở mức độ khẳng định nghề rớ mang
tính hủy diệt mà chưa có chứng minh khoa học cụ thể về điều đó.
Tóm lại, việc nghiên cứu các ngư cụ khai thác thủy sản còn rất ít. Trong khi
đó mức độ khai thác thủy sản ngày càng tăng, các phương thức khai thác ngày càng
đa dạng hơn. Nhưng tồn tại trình độ học vấn của người dân còn thấp. Chính vì vậy
việc nghiên cứu thành phần loài và kích thước một số đối tượng cá chủ yếu khai
thác bằng nghề rớ ở xã Cẩm Thanh - Hội An có ý nghĩa to lớn trong công tác quản
lý và sử dụng ngư cụ hợp lý nhằm duy trì nguồn lợi thủy sản ổn định.
7
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THÀNH PHẦN LOÀI CÁ KHAI
THÁC VÙNG VEN BỜ
1.2.1. Việt Nam
Trước năm 1945, ngư loại ở nước ta bắt đầu phát triển từ nửa cuối thế kỷ
XVIII cùng với sự xâm nhập của các nhà khoa học Phương Tây như: J. Henry
(1865); H. E. Sauvage (1881-1884, 1887, 1878)... Từ đó đến nay khoa học Ngư
loại nước nhà có những bước phát triển mạnh mẽ, có thể so sánh với một số nước
đang phát triển trên thế giới. Điển hình có các nhà khoa học đầu ngành: Phân
loại cá biển có: Nguyễn Nhật Thi, Bùi Đình Chung, Lê Trọng Phấn, Nguyễn
Khắc Hường...; phân loại cá nước ngọt có: Mai Đình Yên, Nguyễn Thái Tự,
Nguyễn Hữu Dực, Võ Văn Phú, Nguyễn Văn Hảo [46],…
Theo Bộ thủy sản (1996), công trình đầu tiên nghiên cứu về cá nước ngọt ở
nước ta là của H.E. Sauvage (1881) trong tác phẩm “Nghiên cứu về khu hệ cá Á
châu và mô tả một số loài mới ở Đông Dương”, tác giả đã thống kê 139 loài cá
chung cho toàn Đông Dương, mô tả 2 loài mới ở miền Bắc nước ta và một số loài
mới ở Campuchia [4]. Sau công trình nghiên cứu này thì việc nghiên cứu thành
phần loài cá ở Việt Nam mới được các nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu nhiều
hơn.
Mở đầu cho nhiều công trình nghiên cứu nổi tiếng đó là tiến sĩ Gilbert Tirant
với công trình nghiên cứu về cá ở khu vực sông Hương vào năm 1883 (Tirant,1929)
[49]. Qua nghiên cứu ông đã mô tả được 70 loài cá nước lợ thu được từ khu hệ sông
Hương và ông đã tìm ra được 8 loài mới trong số này. Và hai năm sau đó ông tiếp
tục công bố một công trình nghiên cứu khác của mình. Lần này công trình nghiên
cứu của ông tập trung ở phía Nam Việt Nam và Campuchia (Tirant,1929) [50].
Trong nghiên cứu của mình ông đã nghiên cứu và tìm ra được đặc điểm sinh học và
nghề cá của 221 loài thuộc bộ cá Nhám, cá Đuối, cá Chép, cá Trích và một số loài
khác.
Những năm về sau có nhiều công bố về thành phần loài cá ở nhiều thủy vực
khác nhau hoặc mô tả loài mới của nhiều tác giả như H. E. Sauvage (1884) “Đóng
góp cho khu hệ cá Bắc Bộ” ông đã thu thập và định loại được 10 loài cá ở Hà Nội,
8
trong đó có 7 loài mới; E. Vaillant đã thu thập được 6 loài và mô tả 4 loài mới ở Lai
Châu (1891), 5 loài ở sông Kỳ Cùng (1904); J. Pellegrin (1906, 1907, 1928, 1932)
trong đó quan trọng hơn cả là kết quả phân tích mẫu thu thập ở Hà Nội của đoàn
Thường trực khoa học Đông Dương gồm 29 loài, có 2 loài mới (1907) và 33 loài
mới (1934); P. Chevey (1930, 1932 a, b, 1935,1936, 1937) với đề tài “Góp phần
nghiên cứu các loài cá nước ngọt miền Bắc Việt Nam” [46], một công trình nghiên
cứu khá tổng hợp về cá nước ngọt, công trình này giới thiệu các loài cá nước ngọt ở
miền Bắc Việt Nam gồm 98 loài trong 17 họ, trong đó tác giả đã thông báo bắt được
Cá Chình Nhật (Anguilla Japonica) ở sông Hồng. Đây là công trình nghiên cứu cá
đầy đủ nhất về cá của thời kỳ này vì trước đó cũng có một số công trình tổng hợp
nhưng chưa đầy đủ của P. Chabanaud (1924), A. Gruvel (1925), R. Bourret (1927)
và P.Chevey (1929). Sau này còn có các công trình nghiên cứu của J. Pellegrin & P.
Chevey (1934, 1936 a, b, 1938, 1941) đã sưu tập và phân tích cá ở Nghĩa Lộ, gồm
20 loài (1934), mô tả 5 loài ở Bắc Bộ và công bố danh mục gồm 20 loài cá ở Việt
Nam (1936), mô tả loài Hemiculter crempfi (1938)...
Có thể coi thời kỳ cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX (1945) là thời kỳ các
nghiên cứu cá nước ngọt ở nước ta đều do người nước ngoài tiến hành. Các mẫu
chuẩn phần lớn được lưu giữ tại Bảo tàng tự nhiên Paris. Thời kỳ này mới dừng lại
ở mức mô tả, thống kê thành phần loài, còn nghiên cứu về sinh học và nguồn lợi cá
chưa thực hiện được.
Từ năm 1945, phần lớn các cuộc khảo sát, các công trình nghiên cứu đều
được các tác giả Việt Nam thực hiện, tuy nhiên cũng có một thời gian dài từ năm
1945 – 1954 bị gián đoạn vì chiến tranh.
Sau năm 1954, hòa bình lập lại ở miền Bắc, các nhà Ngư loại học ở nước ta
từ Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I Bắc Ninh, Viện Nghiên cứu thủy sản II
TP. Hồ Chí Minh, Viện nghiên cứu thủy sản III Nha Trang và các trường: ĐH
Nha Trang, Khoa Thủy sản ĐH Cần Thơ, ĐH Sư phạm 1 Hà Nội, ĐH Tổng hợp
Hà Nội, ĐH Vinh... kết hợp nghiên cứu với các nhà Ngư loại học nước ngoài đã
tiến hành điều tra nghiên cứu phân loại cá ở 46 vực nước quan trọng nằm rải rác
9
khắp cả nước, đại bộ phận ở các sông chính, suối lớn, các hồ chứa: lớn, vừa, nhỏ
và hồ tự nhiên, các vùng cửa sông, ao, đầm và đập nước...
Giai đoạn 1955 - 1975: Công tác điều tra cơ bản sinh vật ở nước nói chung
và cá nói riêng ở miền Bắc Việt Nam do các cơ quan như Trạm nghiên cứu cá nước
ngọt thuộc Tổng cục Thủy sản (nay là Bộ Thủy sản), Khoa Sinh vật Trường đại học
Tổng hợp Hà Nội và Trường đại học Thủy sản thực hiện. Các công trình tiêu biểu
nghiên cứu về khu hệ cá thời kỳ này ở miền Bắc có: Đào Văn Tiến và Mai Đình
Yên (1958) “Dẫn liệu sơ bộ ngư giới sông Bôi” gồm 44 loài; Đào Văn Tiến và Mai
Văn Yên (1959) “Dẫn liệu sơ bộ ngư giới Ngòi Thia (nhánh của sông Hồng)” gồm
54 loài cá; Đặng Ngọc Thanh, Mai Đình Yên (1961) “Điều tra nguồn lợi sinh vật hồ
Tây”; Mai Đình Yên (1962) “Sơ bộ điều tra thành phần nguồn gốc và phân bố của
chủng quần cá sông Hồng”; Nguyễn Văn Hảo (1964) “Dẫn liệu nguồn lợi cá hồ Ba
Bể”; Hoàng Duy Hiệp và Nguyễn Văn Hảo (1964) “Kết quả điều tra nguồn lợi cá
sông Thao”; Mai Đình Yên (1966) điều tra khu hệ cá sông Hồng với 92 loài và phân
loài cá nước ngọt...
Trong thời kỳ này ở miền Nam Việt Nam cũng có một số công trình do cán
bộ khoa học người Việt Nam và người nước ngoài thực hiện như Trần Ngọc Lợi và
Nguyễn Cháu (1964), Fourmanoir (1964); Kawamoto, Nguyễn Viết Trương và Trần
Thị Túy Hoa (1972) đã đưa ra danh sách cá nước ngọt đồng bằng sông Cửu Long
gồm 93 loài [48]....
Các kết quả nghiên cứu tiêu biểu trong giai đoạn đầu sau năm 1975 gồm:
Nguyễn Hữu Dực (1982), thành phần cá sông Hương, đã thống kê được 58 loài;
Nguyễn Thái Tự (1983), khu hệ cá sông Lam có 157 loài; Mai Đình Yên và
Nguyễn Hữu Dực (1991): Thành phần loài cá sông Thu Bồn 85 loài, sông Trà
Khúc 47 loài, sông Vệ 34 loài, sông Côn 43 loài, sông Ba 48 loài, sông Cái 25
loài; Mai Đình Yên, Nguyễn Văn Trọng, Nguyễn Văn Thiện, Lê Hoàng Yến và
Hứa Bạch Loan (1992), thành phần loài các sông: Tiền, Hậu, Vàm Cỏ, Sài Gòn
và sông Đồng Nai (255 loài). Võ Văn Phú (1995), t hành phần loài cá ở các đầm
phá Thừa Thiên Huế (163 loài) [46].
10
Theo kết quả nghiên cứu của Bộ Thủy Sản (1996), có 544 loài cá thuộc 18
bộ, 57 họ, 228 giống. Trong đó bộ cá chép (Cupriniformes) có 276 loài, bộ cá nheo
(Siluriformes) có 88 loài, bộ cá vược (Perciformes) có 70 loài, bộ cá trích
(Clupeiormes) có 22 loài, bộ cá bơn (Plueuronectiformes) có 22 loài, các bộ khác có
ít loài nhưng cũng có một số bộ có giá trị kinh tế cao như: Bộ cá chình
(Anguilliformes),
bộ
cá
quả
(Ophiocephaliformes)
và
bộ
cá
mang
(Synbranchiformes). Nếu phân theo vùng địa lý thì trong 544 loài có 11 loài phân
bố rộng trên cả 2 miền Nam – Bắc. Các tỉnh thuộc Bắc Bộ có 226 loài, các tỉnh
Nam Bộ có 306 loài, các tỉnh Bắc Trung Bộ từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên Huế có
145 loài trong đó có 3 loài đặc hữu là cá mè Huế, cá chẽm và cá lăng Quảng Bình.
Các tỉnh Nam Trung Bộ từ Đà Nẵng đến Bình Thuận có 120 loài (Nguyễn Tuấn
Trinh và ctv, 1996). Cá biển Việt Nam, Nguyễn Nhật Thi (1991), đã cho biết ở vịnh
Bắc Bộ có 218 loài, 104 giống thuộc các họ: Serranidae, Theraponidae, Carangidae,
Lutianidae, Pomadasyidae, Priacanthidae, Brotulidae, Scombridae, Stromateidae,
Eleotridae, Gobiidae, Periophthalmidae, Taenioididae, Triglidae và Trichiuridae.
Đây là những họ cá có ý nghĩa kinh tế quan trọng và sản lượng khai thác lớn nhất ở
vịnh Bắc bộ. Theo Nguyễn Khắc Hường (1991), đã định loại và mô tả được 66 loài
cá biển Việt Nam thuộc 33 giống, 15 họ và 6 bộ. Trong đó bộ có số loài nhiều nhất
là bộ cá trích (Clupeiformes) có 43 loài, 16 giống và 3 họ; bộ cá đèn lồng
(Myctophiformes) có 12 loài, 7 giống và 4 họ; bộ cá hội (Salmoniformes) có 8 loài,
4 giống và 2 họ; bộ cá trá (Clopiformes) có 3 loài, 3 giống và 3 họ; bộ cá tầm
(Acipenserformes), bộ cá sữa (Gonorynchiformes) và bộ cá dạng cá vôi
(Cetomimiformes) đều cùng có 1 loài, 1 giống và 1 họ.
Ở khu vực miền Bắc có nhiều công trình có giá trị nghiên cứu ở các khu hệ
cá khác nhau. Năm 2002, nghiên cứu về khu hệ cá sông Đà của Đặng Huy Huỳnh
và cộng sự đã phát hiện có 174 loài cá thuộc 85 giống, 19 họ, 6 bộ, trong đó bộ cá
Chép (Cypriniformes) có thành phần phong phú nhất với 123 loài thuộc 59 giống
chiếm 70,6% tổng số loài; tiếp đến là bộ cá Nheo (Siluniformes) với 28 loài thuộc
12 giống chiếm 16% tổng số loài [7].
11
Theo kết quả của cuộc khảo sát tiến hành từ ngày 25 đến 28 tháng 6, năm
2006 của Nguyễn Hữu Dực về “Thành phần loài cá ở vùng cửa sông Hồng, Khu
bảo tồn thiên nhiên Tiền Hải, Thái Bình” cho thấy tổng số loài cá ở cửa sông Hồng
(phần nằm trong bảo tồn thiên nhiên Tiền Hải, tỉnh Thái Bình) đã được ghi nhận có
186 loài, với 104 chi và 54 họ của 15 bộ khác nhau, bộ cá Vược (Perciformes)
chiếm số lượng nhiều nhất. Trong số các loài, có nhiều loài được liệt kê trong Sách
đỏ Việt Nam năm 2007 như Bostrichthys sinensis nasussis (Lacepede) - mức CR;
Clupanodon thrissa (Linnaeus) - mức EN; Nematolosa nasus (Bloch); Elops saurus
(Linnaeus) và Konosirus punctatus (Temminck & Schlegel) mức VU. Khoảng
43,1% loài (81 loài) có giá trị kinh tế cao như họ Clupeidae, Cynoglossidae,
Gobiidae, Sparidae và Geridae [40].
Từ năm 2007 - 2011, nhóm nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Xuân Huấn
và cộng sự (Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN) cùng thực hiện đề tài
“Thành phần loài cá vùng cửa sông Văn Úc thành phố Hải Phòng” và kết quả
nghiên cứu cho thấy có tổng cộng 104 loài cá đại diện cho 40 họ và 13 bộ đã được
xác định, cho thấy mức độ đa dạng về đơn vị phân loài cấp bộ và họ, trong đó bộ cá
Vược chiếm ưu thế tuyệt đối với 60 loài (57,7% và 52,5% trong tổng số loài và họ
tương ứng), sau đó đến bộ cá Trích (13 loài, chiếm 18.84%) và bộ cá Bơn (8 loài,
chiếm 7,7%). Trung bình, mỗi một bộ có 1,3 họ và 8 loài; mỗi họ có 2,6 loài; và 5
bộ (38,5%) chỉ có một loài. Đã xác định được 41 loài cá (39,4%) có giá trị kinh tế,
vùng cửa sông Văn Úc giữ vai trò quan trọng trong các cộng đồng địa phương.
Đồng thời nghiên cứu cũng xác định được 4 loài cá nằm trong Sách Đỏ Việt Nam
2007; trong đó có các loài cá di cư sinh sản từ biển vào sông có giá trị kinh tế rất
cao trong quá khứ như cá Mòi cờ hoa, Mòi cờ chấm đang ở trong tình trạng cạn kiệt
không thể cho khai thác được nữa, riêng cá Cháy đang lâm vào tình trạng bị tiêu
diệt [15].
Ở khu vực miền Nam cũng có nhiều công trình nghiên cứu về thành phần
loài cá vùng cửa sông và gần đây nhất là công trình nghiên cứu vào năm 2012 của
Tống Xuân Tâm và cộng sự thực hiện nghiên cứu về hệ sinh thái rừng ngập mặn
Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh đã ghi nhận được 178 loài cá, thuộc 111 giống, 56
- Xem thêm -