Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khóa luận nghiên cứu thành phần loài cá tại rừng dừa nước xã bình phước, huyện b...

Tài liệu Khóa luận nghiên cứu thành phần loài cá tại rừng dừa nước xã bình phước, huyện bình sơn, tỉnh quảng ngãi

.PDF
51
41
99

Mô tả:

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KHOA SINH – MÔI TRƯỜNG HOÀNG MINH THIỆN NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI CÁ TẠI RỪNG DỪA NƯỚC XÃ BÌNH PHƯỚC, HUYỆN BÌNH SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI NGÀNH QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG CÁN BỘ HƯỚNG DẪN ThS. NGUYỄN VĂN KHÁNH Niên khóa 2014 – 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả khóa luận Hoàng Minh Thiện LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Nguyễn Văn Khánh đã hướng dẫn cho tôi trong suốt thời gian qua. Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Sinh-Môi trường, trường Đại học Sư Phạm, Đại học Đà Nẵng đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành khóa luận này. Đà Nẵng, tháng 4 năm 2015 Sinh viên: Hoàng Minh Thiện MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1. Đặt vấn đề ............................................................................................................1 2. Mục tiêu đề tài .....................................................................................................2 3. Ý nghĩa khoa học của đề tài .................................................................................2 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ..................................................................3 1.1 ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN KHU VỰC NGHIÊN CỨU ..................................3 1.1.1 Vị trí địa lý ................................................................................................3 1.1.2 Địa hình, địa mạo ......................................................................................3 1.1.3 Đặc điểm khí hậu .......................................................................................3 1.1.4 Điều kiện thủy hải văn.................................................................................5 1.2 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI CÁ ....6 1.2.1 Tình hình nghiên cứu thành phần loài cá trên thế giới ...............................6 1.2.2 Tình hình nghiên cứu thành phần loài cá ở Việt Nam ................................8 1.2.3 Tình hình nghiên cứu thành phần loài Cá ở rừng dừa nước xã Bình Phước ............................................................................................................................13 CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................................................................................................14 2.1 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU .........................................................................14 2.1.1 Đối tượng nghiên cứu ................................................................................14 2.1.2 Địa điểm nghiên cứu .................................................................................14 2.1.3 Thời gian nghiên cứu.................................................................................14 2.2 NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ............................................................................14 2.3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................................14 2.3.1 Phương pháp thu mẫu ngoài thực địa ........................................................14 2.3.2 Phương pháp nghiên cứu có sự tham gia của cộng đồng PR (Participatory Research). ...........................................................................................................15 2.3.3 Phương pháp phân loại cá .........................................................................15 2.3.4 Phương pháp xử lý số liệu .........................................................................15 CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN .........................................................16 3.1 DANH MỤC VÀ CẤU TRÚC THÀNH PHẦN LOÀI CÁ ............................16 3.1.1 Danh mục thành phần loài cá ..................................................................16 3.1.2 Cấu trúc thành phần loài cá vùng rừng dừa nước xã Bình Phước...........20 3.1.3 So sánh thành phần loài cá của vùng rừng dừa nước xã Bình Phước với các khu hệ cá vùng lân cận .................................................................................22 3.2. ĐẶC TRƯNG CẤU TRÚC SINH THÁI CỦA KHU HỆ CÁ .......................23 3.3 CÁC LOÀI CÁ KINH TẾ ...............................................................................25 3.3.1 Các loài cá có ý nghĩa kinh tế đối với người dân ......................................25 3.3.2 Danh mục các loài cá kinh tế.....................................................................27 3.4 CÁC LOÀI CÁ QUÝ HIẾM ...........................................................................29 3.5 VAI TRÒ CỦA RỪNG DỪA NƯỚC ĐỐI VỚI THÀNH PHẦN LOÀI CÁ 31 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................33 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................34 PHỤ LỤC .................................................................................................................37 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng Bảng 3.1 Bảng 3.2 Bảng 3.3 Danh mục thành phần loài cá khai thác ở vùng rừng dừa 14 nước xã Bình Phước Cấu trúc thành phần loài cá khu vực rừng dừa nước xã 18 Bình Phước So sánh thành phần loài cá khu vực rừng dừa nước xã Bình 19 Phước với các khu hệ cá khác ở Việt Nam Sản lượng và giá bán của một số loài cá kinh tế ở vùng Bảng 3.3 rừng dừa nước xã Bình Phước 22 Bảng 3.4 Các loài cá kinh tế của vùng rừng dừa nước xã Bình Phước 23 Các loài cá quý hiếm ở vùng rừng dừa nước xã Bình 25 Bảng 3.5 Phước DANH MỤC HÌNH ẢNH, ĐỒ THỊ Số hiệu Tên hình vẽ Trang hình vẽ Hình 3.1 Hình 3.4 Đa dạng bậc họ của các bộ cá khu vực rừng dừa nước xã 19 Bình Phước Cấu trúc đa dạng về sinh thái 21 1 MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề Hệ sinh thái Rừng ngập mặn được coi là nguồn tài nguyên ven biển vô cùng hữu ích đối với sự phát triển kinh tế-xã hội và đời sống con người. Các khu rừng ngập mặn là lá phổi không thể thiếu đảm báo cho hệ sinh thái ven biển phát triển. Đặc biệt, rừng ngập mặn có vai trò bảo vệ đới bờ và cửa sông, hạn chế xói lở và tác hại của bão. Kết quả nghiên cứu tại Nhật Bản cho thấy, một khu rừng ngập mặn có chiều rộng 100m có thể làm giảm 50% chiều cao của sóng triều và giảm 50% năng lượng nóng. Rừng ngập mặn còn là nơi cư trú, sinh sống của các loài sinh vật. Nhờ đó, tính đa dạng sinh học trong hệ sinh thái rừng ngập mặn tương đối cao và ổn định [27]. Rừng ngập mặn dừa nước ở xã Bình Phước, huyện Bình Sơn, tỉnh Quãng Ngãi có diện tích 120ha (trong đó có 70ha là rừng lâu năm) nằm trên dòng sông Trà Bồng chảy qua, phía Tây Bắc giáp với Khu Kinh Tế Dung Quất và Nhà máy Lọc Dầu Dung Quất [15]. Hệ sinh thái nơi đây là vùng nước ngọt và vùng nước lợ, có sự đa dạng về thực vật bậc cao, thực vật bậc thấp, chim, cá, giáp xác... [17]. Hệ động thực vật tại đây đóng vai trò như là một “lá phổi xanh” có khả năng tự làm sạch các chất ô nhiễm, điều tiết khí hậu cho toàn bộ Khu Kinh Tế Dung Quất và toàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quãng Ngãi [17]. Những lợi ích của Rừng dừa xã Bình Phước, huyện Bình Sơn, tỉnh Quãng Ngãi không chỉ mang lại to lớn về mặt giá trị kinh tế xã hội, mà còn có ý nghĩa rất lớn về mặt môi trường đối với tỉnh Quãng Ngãi. Tại Quãng Ngãi, từ rât sớm, Nguyễn Hữu Dực (1995) và các nhà khoa học đã ghi nhận có ít nhất 49 loài cá nước ngọt trên sông Trà Khúc, 34 loài trên sông Vệ và sau này đã được cập nhật bổ sung thêm 40 loài vào 2011(Nguyễn Thị Hồng Hà, 2011) [7] [9]. Đến năm 2015-2016, Viện Sinh thái học Miền Nam đã ghi nhận trên tỉnh Quãng Ngãi có 173 loài cá nước ngọt, 202 loài cá biển [16]. Tuy nhiên, nghiên cứu này chủ yếu tìm hiểu tại khu vực sông Vệ, thượng nguồn và hạ lưu sông Trà Khúc, đảo Lý Sơn chưa tập trung nêu rõ thành phần cá trên sông Trà Bồng nhất là 2 khu hệ cá rừng ngập mặn dừa nước xã Bình Phước, huyện Bình Sơn, tỉnh Quãng Ngãi. Chính vì vậy, chính quyền tại đây chưa thấy rõ được những giá trị lợi ích Rừng dừa mang lại từ đó có những kế hoạch phát triển khu vực Rừng dừa này chưa đúng đắn Xuất phát từ vấn đề cấp bách trên, tôi chọn đề tài “Nghiên cứu thành phần loài cá tại rừng dừa nước xã Bình Phước, huyện Bình Sơn, tỉnh Quãng Ngãi”, nhằm đánh giá hiện trạng thành phần loài cá, cung cấp thông tin thực tế phục vụ cho việc quy hoạch , phát triển khu Rừng dừa nước tại khu vực nơi đây. 2. Mục tiêu đề tài Đề tài được thực hiện nhằm mục tiêu nghiên cứu thành phần loài cá tại vùng rừng dừa nước xã Bình Phước, huyện Bình Sơn, tỉnh Quãng Ngãi để cung cấp thông tin thực tế phục cho việc lập kế hoạch quy hoạch, quản lý và phát triển bền vững nguồn lợi thủy sản nơi đây. 3. Ý nghĩa khoa học của đề tài Kết quả của đề tài là cơ sở dữ liệu cho các cơ quan, ban, ngành, lập kế hoạch quản lý và phát triển bền vững nguồn lợi thủy sản nơi đây và là thông tin ban đầu cho những công trình nghiên cứu tiếp theo tại nơi đây. 3 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1 ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN KHU VỰC NGHIÊN CỨU 1.1.1 Vị trí địa lý Xã Bình Phước nằm về phía Đông của huyện Bình Sơn, cách trung tâm huyện khoảng 4km về phía Đông và cách trung tâm khu đô thị Vạn Tường 2km. Tọa độ địa lý từ 15⁰16’15’’ đến 15⁰20’25’’ vĩ độ Bắc, 108⁰45’50’’ đến 108⁰49’35’’ kinh độ Đông Địa giới hành chính xã giáp tứ cận như sau: - Phía Bắc giáp: xã Bình Trị, xã Bình Dương - Phía Nam giáp: xã Bình Hòa, xã Bình Thạnh Tây - Phía Đông giáp: xã Bình Hòa, xã Bình Trị - Phía Tây giáp: xã Bình Dương, xã Bình Thới và Bình Long Diện tích tự nhiên toàn xã là 2,345,71ha, chiếm 5,02% tổng diện tích tự nhiên toàn huyện [14] 1.1.2 Địa hình, địa mạo Xã Bình Phước có địa hình, địa mạo dạng đồi núi bát úp nằm xen kẽ với vùng đồng bằng, sông suối vùng đầm lầy rộng vài trăm hecta chưa được khai thác triệt để. Dãy núi phía Bắc, phía Đông xã có độ cao từ 20-50m, các ngọn núi phía Tây và phía Nam có độ cao trung bình 20-60m Diện tích đất đồi núi khoảng 800ha, vùng đồng bằng khoảng hơn 1.500ha Địa hình, địa mạo xã Bình Phước tương đối phức tạp, gây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình sản xuất nói riêng và phát triển kinh tế nói chung. 1.1.3 Đặc điểm khí hậu Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa: Có nền nhiệt cao, lượng mưa tương đối nhiều, bức xạ lớn, đặc điểm khí hậu của xã được thể hiện rõ theo hai mùa: 4 Mùa khô từ tháng 2 đến tháng 7, mùa mưa từ tháng 8 đến tháng 1 năm sau. Các đặc điểm đặc trưng của khí hậu khu vực duyên hải miền Trung như sau. a. Nhiệt độ - Mùa hè: Mùa nóng nhất từ tháng 5 đến tháng 8, nhiệt độ trung bình 29,7 ⁰C, nhiệt độ trung bình tháng lớn nhất 30,8⁰C - Mùa đông: Mùa lạnh nhất từ tháng 12 năm trước đến tháng 3 năm sau, nhiệt độ trung bình 23,8⁰C, nhiệt độ trung bình nhỏ nhất 18,9⁰C - Nhiệt độ không khí trung bình cả năm: 26,6-26,9⁰C - Chênh lệch nhiệt độ giữa ban ngày và ban đêm là 5 – 7 ⁰C (mùa mưa) và 7 – 9⁰C (mùa khô). b. Lượng mưa Lượng mưa trung bình hằng năm khoảng 1.800 – 2.300 mm/năm nhưng phân bố không đồng đều các tháng trong năm. Tập trung chủ yếu ở các tháng 10,11 với lượng mưa bình quân khoảng 400 – 500 mm/tháng, chiếm 48% lượng mưa cả năm. Các tháng 2,3,4 có lượng mưa thấp, trung bình khoảng 60 - 70 mm/tháng. Trung bình hằng năm mưa 129 ngày, nhiều nhất vào tháng 10,11,12. c. Độ ẩm - Độ ẩm trung bình hằng năm 82% - Độ ẩm cao nhất vào từ tháng 10 đến 12 khoảng 81 – 92% - Độ ẩm thấp nhất vào các tháng 6,7 khoảng 72 – 79% d. Gió, bão Vận tốc gió trung bình hằng năm dao động từ 0,9 – 1,7m/s, vận tốc gió cự cđại 40m/s, số ngày lặng gió chiếm 49,5% và ngày có gió chiếm 50,5%. Trong trường hợp có ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới và bão, vận tốc gió có thể đạt tới 40m/s. 5 Hướng gió thịnh hành ở khu vực xã chủ yếu là 2 hướng Tây Nam và Đông Bắc. Hướng gió Tây Nam hoạt động từ tháng 2 đến tháng 7, từ tháng 8 đến tháng 1 năm sau chủ yếu là hướng gió Đông Nam. Vào mùa hè gió thổi từ Đông Nam qua Tây Bắc. Mùa đông có gió Đông Bắc và Tây Nam. Gió mùa Đông Bắc thường gây ra giật, các cơn lốc và thường gây ra mưa to. Đặc biệt các trận bão ở Quãng Ngãi chỉ xảy ra trong khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 12 dương lịch, nhất là tháng 10, 11. Trung bình hằng năm có 1 cơn bão hoặc áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng trực tiếp đến Quãng Ngãi gây mưa to và gió mạnh cấp 6 trở lên. Ngoài ra cũng có những năm có đến 3 - 4 cơn bão khi có bão thường gây ra mưa to và gió rất mạnh có khi kèm theo hiện tượng nước biển dâng cao. Trong những năm gần đây, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, tần suất cường độ bão có xu hướng ngày càng cao, kéo theo tình trạng lũ lụt ảnh hưởng đến cuộc sống con người. e. Nắng Tổng số giờ nắng trung bình trong năm khoảng 4.320 giờ. Các tháng có số giờ năng cao nhất từ tháng 4 đến tháng 7, trung bình đạt từ 120 – 180 giờ/tháng. Cường độ bức xạ trong khu vực thường đạt giá trị cao vào các tháng 5, 6 và 7 lớn hơn 14 kcal/cm2 và đạt giá trị nhỏ hơn vào các tháng 11 đến tháng 1 năm sau nhỏ hơn 8 kcal/cm2. Tổng lượng bức xạ cả năm đạt khoảng 140 - 150 kcal/cm2. Cân bằng bức xạ hằng năm là 90 – 95 kcal/cm2. Trong ngày lượng bức xạ đạt giá trị cao nhất vào buổi trưa khoảng 11 đến 13 giờ. 1.1.4 Điều kiện thủy hải văn Khu vực Bình Phước thuộc huyện Bình Sơn do đó chịu ảnh hưởng trực tiếp của thủy văn sông Trà Bồng. Sông Trà Bồng được bắt nguồn từ vùng núi cao Trà Bồng chảy xuyên qua huyện Bình Sơn khoảng 25km theo hướng Đông – Tây, đến 6 thông Giao Thủy (xã Bình Thới) chảy theo hướng Đông Bắc rồi đổ ra cửa biển Sa Cần. Sông Trà Bông từ xưa là đường thủy quan trọng trong việc giao lưu xuôi ngược là một trong những nguồn nước quan trọng cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của khu vực xã Bình Phước. Xã Bình Phước thuộc vùng nước lợ là vùng cửa sông , ven biển và rừng ngập mặn, đầm, phá. Nơi đây có sự pha trộn giữa nước biển và nước ngọt từ các dòng sông đổ ra. Do được hình tháng từ hai nguồn nước nên diện tích vùng nước lợ phụ thuộc vào mùa mưa và thủy triều 1.2 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI CÁ 1.2.1 Tình hình nghiên cứu thành phần loài cá trên thế giới Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, con người cũng đã phân biệt và đặt tên cho các loài cá có giá trị mà mình tìm thấy trong tự nhiên. Công trình nghiên cứu đầu tiên về cá được công bố là cuốn sách “ Lịch sử động vật” của Aristote (384-322 Tr.CN). Ông đã giới thiệu được 115 loài cá với những dẫn liệu về môi trường sống, sinh sản, di cư, nơi ở và ngư loại học được hình thành thực sự, có nhà khoa học ghi chép lại để cùng hiểu biết và sử dụng chúng [7]. Cho mãi đến nữa sau thế kỉ XVI, sau thời kì Phục Hưng của Châu Âu, cùng với sự phát triển của các ngành khoa học tự nhiên khác, công tác nghiên cứu về cá mới có những bước phát triển đáng kể. Do yêu cầu của nghề cá và nhờ các ngành khoa học khác hỗ trợ nên việc nghiên cứu ngư loại ngày càng phát triển một cách có hệ thống cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Về phân loại cá phải kể đến như: P. Artedi, G. Cuvier, Valenciennes, P. Bleeker, A. Gunther, D.S. Jordan, L. C. Berg, Walter J. Rainboth.... Nhà tự nhiên học Thụy Điển C. Linnaeus (1707-1778) đã cho xuất bản cuốn sách “Systema nature” vào năm 1765, trong cuốn sách này ông đã đề ra “Cách gọi tên các loài sinh vật theo hai chữ” và đã giới thiệu được 2.600 loài cá. Ngoài ra còn có các tác giả như: G. Cuvier và A. Valenciennes với cuốn sách “Lịch sử tự nhiên 7 về cá” gồm 21 tập xuất bản liên tục trong 20 năm (1828-1848); P.Bleeker người Hà Lan (1819-1874) với cuốn sách “Atlasichthyologiques Inder Orientales Neerlandaises” (Sưu tập nghiên cứu cá ở phía Đông Hà Lan) gồm 9 tập; A. Gunther (1830-1914) với cuốn “Thông kê về cá ở viện bảo tàng Anh” gồm 8 tập... Cho đến nay, nhiều tập sách phân loại trên vẫn có giá trị [7]. Từ thế kỷ XX cho đến nay, những công trình nghiên cứu cá được công bố ngày càng nhiều và mở rộng hơn những nghiên cứu về phân loại, sinh học, sinh thái và phân bố của các loài cá. Về phân loại có các công trình của tác nổi tiếng như: D. S. Jordan (1854-1931) giới thiệu khu hệ cá ở Bắc và Trung Mỹ, G.A.Boulenger (1851) với 15 tập sách giới thiệu 6.834 loài cá ở Viện bảo tàng Anh, L.C.Berg người Nha (1876-1950) đã cho xuất bản rất nhiều sách về phân loại, phân bố của cac loài cá ở khu vực Liên Xô (cũ). Đặc biệt ông đã công bố các cuốn sách “Phân loại các dạng cá hiện đại và hóa thạch” và “Cá nước ngọt Liên Xô và các vùng phụ cận” xuất bản năm 1949. Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu về cá của các tác giả khác như Nikolxki; K. Matsubara; F.Day, E. Mayer... Trong đó, cuốn sách “Nguyên tắc phân loại động vật” của E.Mayer (1953) đã góp phần không nhỏ về lý luận phân loại học cá hiện nay. Tại Trung Quốc, có nhiều tác giả nghiên cứu về cá như Chu Nguyên Đinh, Trương Xuân Lâm nhưng đầy đủ nhất có lẽ là cuốn “Ngư loại phân loại học” do Vương Dĩ Khang biên soạn năm 1958. Trong cuốn sách này, ông đã đưa ra khóa phân loại mô tả lớp cá sụn và cá xương gồm 70 bộ, 239 họ, 769 giống và 1800 loài cá phân bố ở các thủy vực nước ngọt và biển tại Trung Quốc [22]. Năm 1996, Walter J. Rainboth đã nghiên cứu khu hệ cá sông Mekong tới 500 loài [30]. Ngoài ra, còn nhiều tác giả như Kottelat (1998, 2000, 2001, 2003) và Robert tiếp tục nghiên cứu khu hệ cá Đông Dương [28]. Cho đến nay, các hệ thống phân loại cá hiện được xem là khá đầy đủ. Năm 1998, Tổ chức Lương nông Thế giới (FAO) đã công bố danh lục các loài cá Thế giới và những tra cứu thống nhất của chúng trong 2.500 trang sách [24][25][30]. Đây là công trình nghiên cứu về đa dạng sinh học cá đầy đủ nhất từ trước đến nay. 8 Như vậy, lịch sử nghiên cứu ngư loại có rất sớm và hiện nay mỗi nước trên thế giới đều có các công trình nghiên cứu về thành phần loài và phân bố cá. Trung tâm ICLARM cùng với FAO đã lập ra trang web Fishbase (2004), http://www.fishbase.org/ cho phép chúng ta tìm kiếm những thông tin về phân bố của cá trên Thế giới với danh lục hơn 25.000 loài cá phân bố trên Thế giới. Công tác nghiên cứu thành phần loài, phân bố cá trên thế giới được tiếp tục tiến hành nghiên cứu. Cho đến năm 2006, đã xác định được 29.500 loài cá trên thế giới thuộc 6 lớp cá, 62 bộ và 484 họ và được thống kê từ 21.000 tài liệu tham khảo với 71.000 tên đồng vật và 28.000 ảnh cá (Fishbase, 2006) [32]. Qua đó cho thấy nhóm cá rất phong phú và đa dạng sinh học cao. 1.2.2 Tình hình nghiên cứu thành phần loài cá ở Việt Nam Việt Nam là nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thêm lục địa dài và rộng cùng với hệ thống sông ngoài, ao hồ, đầm phá khá nhiều. Vì vậy, Việt Nam mang tính đặc trưng của các hệ sinh thái nhiệt đới, do vậy, có nhiều khu hệ cá rất phong phú nên các công trình nghiên cứu về cá do các nhà khoa học trong và ngoài nước đã được thực hiện từ sớm. Việc nghiên cứu trải qua nhiều thời kỳ, gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và phân chia theo vùng miền trên Việt Nam. a. Thời kỳ Pháp thuộc trước năm 1945 Có lẽ công trình đầu tiên nghiên cứu về cá nước ngọt ở nước ta là của H.E. Sauvage (1881) trong tác phẩm “Nghiên cứu về khu hệ cá Châu Á và mô tả một số loài mới ở Đông Dương”, đã nghiên cứu được 139 loài cá chung cho toàn Đông Dương và mô tả 2 loài mới ở miền Bắc nước ta. Sau công trình nghiên cứu này thì việc nghiên cứu thành phần loài cá ở Việt Nam được các nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu nhiều hơn [3]. Những năm tiếp theo có những công bố về thành phần loài ở các thủy vực khác nhau hoặc mô tả loài mới của nhiều tác giả: H. E. Sauvage (1884) “Đóng góp cho khu hệ cá Bắc Bộ” ông đã thu thập được 10 loài cá Hà Nội, trong đó có 7 loài mới. E. Vaillant đã thu thập 6 loài và mô tả 4 loài mới ở Lai Châu (1891), 5 loài 9 mới ở sông Kỳ Cùng (1994), P. Chevery (1930, 1932, 1936, 1937) với đề tài “Góp phần nghiên cứu các loài cá nước ngọt miền Bắc Việt Nam”, trong đó tác đã thông báo bắt được cá Chình Nhật (Anguilla Japonica) ở sống Hồng [23]. Đến năm 1929, nhà khoa học tiến sĩ G. Tirant đã mô tả 70 loài cá nước ngọt sông Hương, trong đó có 8 loài mới [31]. Năm 1937, công trình của Chevey và Lemasson “Góp phần nghiên cứu các loài cá nước ngọt Bắc Bộ Việt Nam” đã giới thiệu 98 loài cá thuộc 71 giống, `7 họ và 10 bộ cá ở miền Bắc Việt Nam. Đây là công trình lớn và có giá tri nhất về khu hệ cá nước ngọt thời kỳ này. Như vậy có thể coi thời kỳ này, công tác nghiên cứu cá chủ yếu do các tác giả nước ngoài tiến hành. Các nghiên cứu ở giai đoạn này mới chỉ dừng lại ở mức mô tả, thống kê thành phần loài. Các nghiên cứu về sinh học và nguồn lợi cá chưa được thực hiện. b. Thời kỳ từ 1945 – 1975 Sau năm 1954, hòa bình lập lại ở miền Bắc, dưới sự phối hợp công tác của Trạm nghiên cứu thủy sản nước ngọt thuộc Tổng cục Thủy Sản, khoa Sinh học, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và trường Đại học Thủy sản thực hiện. Các công trình tiêu biểu nghiên cứu về khu hệ cá thời kỳ này ở miền Bắc có: Đào Văn Tiến và Mai Đình Yên (1958) nghiên cứu “Sơ bộ khu hệ cá sông Bôi” gồm 44 loài; Đào Văn Tiến và Mai Đình Yên (1959) dẫn liệu “Sơ bộ Ngư giới sông Ngoài Thia” gồm 54 loài cá; Mai Đình Yên (1966) “Điều tra khu hệ cá sông Hồng” với 92 loài cá nước ngọt; Đoàn Lệ Hoa và Phạm Văn Doãn (1971) đã “Điều tra nguồn lợi cá sông Mã” với 114 loài. Ở miền Nam cũng có một số công trình nghiên cứu về cá nước ngọt do các cán bộ khoa học người Việt Nam phối hợp với người nước ngoài thực hiện như: Trần Ngọc Lợi (1964), Fourmanvir (1965), Nguyễn Viết Trương và Trần Thị Túy Hoa (1972)... trong đó, K. Koronuma (1961) đã tổng hợp một danh lục cá ở Việt Nam gồm 139 loài, Nguyễn Viết Trương và Trần Thị Túy Hoa (1972) đã đưa ra một số danh sách cá nước ngọt sông Cửu Long gồm 93 loài [27]. 10 Thời kỳ này, phần lớn các cuộc khảo sát, các công trình nghiên cứu đều được các tác giả Việt Nam thực hiện kết hợp với người nước ngoài và có những nghiên cứu tiêu biểu ở khu vực phía Nam Việt Nam. c. Thời kỳ 1975 đến nay Kế thừa những thành quả giai đoạn trước, ở giai đoạn này này, công tác nghiên cứu cá được tiến hành trên phạm vi cả nước. Các kết quả nghiên cứu tiêu biểu trong gia đoạn này gồm: Mai Đình Yên, Nguyễn Hữu Dực (1991): Thành phần các loài cá sông Thu Bồn gồm 58 loài, Trà Khúc 47 loài, sông Vệ 34 loài, sông Côn có 43 loài, sống Ba 58 loài; Mai Đình Yên, Nguyễn Văn Trọng, Nguyễn Văn Thiện, Lê Hoàng Yến, Hứa Bạch Loan (1992): Thành phần cá sông: Tiền, Hậu, Vòm Cỏ, Sài Gòn và Đồng Nai (225 loài) [27] Hai công trình mang tính tổng hợp các kết quả nghiên cứu của các thời kỳ trước được công bố là “Định loại cá nước ngọt ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam” của Mai Đình Yên (1978) đã thống kê danh mục, mô tả chi tiết, lập khóa định loại, đặc điểm phân bố và ý nghĩa kinh tế của 201 loài cá nước ngọt ở Miền Bắc nước ta và “Định loại các loài cá nước ngọt Nam Bộ” do Mai Đình Yên chủ biên với các cộng sự Nguyễn Văn Trọng, Nguyễn Văn Thiện, Lê Hoàng Yến và Hứa Bạch Loan (1992) mô tả, lập khóa định loại 255 loài cá ở Nam Bộ Việt Nam. Đây là hai công trình tổng hợp đầy đủ về hai khu hệ cá nước ngọt miền Bắc và miền Nam Việt Nam. Đến nay, hai cuốn sách này vẫn còn giá trị trong công tác nghiên cứu phân loại loài cá. Đến năm 2001, tác giả Nguyễn Văn Hảo với công bố “Cá nước ngọt Việt Nam” gồm 3 tập, tập 1 (2001), tập 2,3 (2005). Trong đó tác giải đã mô tả chi tiết 1023 loài và 4 phân loài, 427 giống, 98 họ, 22 bộ. Đây là công trình tổng hợp đầy đủ nhất ỏ đầu thế ký XXI về cá nước ngọt Việt Nam. Ngoài ra, đây cũng là những tài liệu phân loại được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay [11] [12] [13]. - Ở khu vực miền Bắc có nhiều công trình nghiên cứu hệ cá nước ngọt. Kết quả “Khảo sát nguồn lợi và nghề cá trên sông Đà” của Nguyễn Văn Hảo (1964) đã 11 thống kê được 123 loài cá thuộc 79 giống, 19 họ. Nguyễn Văn Hảo (1996-1998) đã khảo sát 4 điểm trên sông Đà và thu được 80 loài. Đến năm 2002, nghiên cứu về khu hệ cá sông Đà của Đặng Huy Huỳnh và cộng sự đã phát hiện có 174 loài cá thuộc 85 giống, 19 họ, 6 bộ, trong đó bộ cá Chép (Cypriniformes) có thành phần phong phú nhất với 123 loiaf thuộc 59 giống chiếm 70,6% tổng số loài, tiếp đến là bộ cá Nheo (Siluniformes) với 28 loài thuộc 12 giống chiếm 16% tổng số loài [1]. - Ở miền Nam, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả, trong đó tiêu biểu là công trình nghiên cứu của Mai Đình Yên và công sự (1992) “Định loại các loài cá nước ngọt Nam Bộ” với 225 loài [6]. Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993) “Định loại cá nước ngọt vùng đồng bằng sông Cửu Long” với 173 loài [18]. Năm 2008, Ủy ban sông Mêkông đã xuất bản cuốn sách “Field guide to Fishes of the Mekong Delta” với 363 loài cá phổ biến thuộc lưu vực sông Mê kông thuộc hai nước Việt Nam và Cambodia [29]. - Ở vùng nước ngọt miền Trung đã có một số công trình nghiên cứu thành phần loài cá trên các con sông như: Ở khu hệ cá sông Hương, Võ Văn Phú và Phan Quốc Hùng (2005) xác định được 121 loài cá, bổ sung 61 loài cho kết quả nghiên cứu trước đó vào năm 2003, trong đó có 4 loài quý hiếm được liệt kê trong sách Đỏ Việt Nam. Đến nay, số lượng loài ở sông Hương xác định được lên tới 186 loài thuộc 129 chi, 60 họ và 17 bộ. Trong đó, nhóm cá có giá trị kinh tế cao xác định được 87 loài. Giai đoạn từ 2000 - 2005, hàng loạt các nghiên cứu về thành phần loài ở nhiều vùng trong cả nước được công bố như: “Thành phần loài cá lưu vực sông Mã thuộc địa phận tỉnh Thanh Hoá” của Nguyễn Hữu Dực, Nguyễn Văn Hảo, công bố 130 loài thuộc 94 giống, 35 họ, 9 bộ, trong đó chiếm ưu thế là bộ cá Vược (Perciformes) với 19 họ (chiếm 54,2%); “Dẫn liệu bước đầu về thành phần loài cá ở một số Hồ Tây Nguyên Việt Nam” của Nguyễn Thị Thu Hè, công bố danh sách 76 loài thuộc 57 giống, 21 họ và 8 bộ, trong đó bộ có nhiều loài nhất là bộ cá Chép (Cypriniformes) với 48 loài; “Về đa dạng sinh học thành phần loài cá ở đầm Ô 12 Loan, tỉnh Phú Yên” của Võ Văn Phú, Nguyễn Thị Phi Loan, Hồ Thị Hồng với 108 loài thuộc 67 giống, 46 họ và 13 bộ, trong đó bộ đa dạng nhất về họ, giống và loài là bộ cá Vược (Perciformes) có tới 21 họ, 33 giống, 57 loài Tại Đà Nẵng, công trình nghiên cứu của Nguyễn Thị Thúy Loan (2005) đã mô tả 42 loài cá ở hạ lưu sông Cu Đê và những tác động từ việc nuôi trồng thủy sản ảnh hưởng đến chất lượng nước và sự biến động về thành phần loài cá khai thác ỏ hạ lưu sông Cu Đê, thành phố Đà Nẵng [10]. Hồ Thị Thanh Tâm, Võ Văn Phú (2006) đã công bố danh mục thành phần cá vùng hạ lưu sông Hàn thành phố Đà Nẵng với 108 loài thuộc 74 giống, 45 họ và 15 bộ. Chiếm ưu thế nhất là bộ cá Vược với 25 họ (55,55%), 40 giống (54,04%) và 60 loài (55,55%). Sự chiếm ưu thế về thành phần loài của bộ cá Vược trong khu hệ thể hiện tính chất nước lợ điển hình của vùng ha lưu sông Hàn [19]. Ở khu hệ cá sông Đầm thuộc thành phố Tam Kì, Quãng Nam, Vũ Thị Phương Anh (2014) xác định được 91 loài cá thuộc 66 giống trong 32 họ và 13 bộ. Trong tổng số đó, có 4 loài nguy cấp quý hiếm bậc VU ( Sách Đỏ Việt Nam 2007), 10 loài có giá trị kinh tế và 10 loài nhập nội. Trong thành phần loài cá ở sông Đầm, bộ cá Chép (Cyprinifomes) chiếm ưu thế nhất với 34 loài, chiếm 37% số loài, 24 giống chiếm 36,36%, tiếp đến là bộ cá Vược (Percifomes)chiếm ưu thế tương đượng với bộ cá Chép với 34 loài, chiếm 37,36% số loài, 23 giống chiếm 34,85% tổng số giốn và họ chiếm 43,75% tổng số họ. Chiếm ưu thế về số lượng loài cao nhất là họ cá Chép (Cyprinifomes) có 21 giống với 29 loài [8]. Nhìn chung, trong nước có nhiều công trình nghiên cứu về thành phần loài cá trên các sông được các nhà khoa học tiến hành và công bố. Một trong số đó đã góp phần tạo nên dữ liệu hữu ích để phục vụ các lĩnh vực khoa học khác, đặc biệt là lĩnh vực quản lý và khai thác thủy sản bền vững. 13 1.2.3 Tình hình nghiên cứu thành phần loài Cá ở rừng dừa nước xã Bình Phước Tỉnh Quãng Ngãi thì chưa có nhiều công trình nghiên cứu về cá, công trình nghiên cứu được xem là nguồn dữ liệu đầu tiên về cá trên các con sông tỉnh Quãng Ngãi là công trình của Mai Đình Yên và Nguyễn Hữu Dực (1995) trên sông Trà Khúc và Sông Vệ đã xác định được lần lượt 47 và 34 loài [9]. Đến năm 2011, Nguyễn Thị Hồng Hà đã nghiên cứu trên sông Vệ và ghi nhận thêm 40 loài mới trên sông này. Trong 2 năm từ năm 2015-2016, Viện Sinh thái học Miền Nam đã ghi nhận trên tỉnh Quãng Ngãi có 173 loài cá nước ngọt, 21 loài (chiếm 12,1%) được xếp loại nguy cấp, quý hiếm và cần ưu tiên bảo tồn. (Sách Đỏ Việt Nam 2007 và Danh lục Đỏ IUCN 2015); 8 loài được xếp loại trong Sách Đỏ Việt Nam 2007; trong đó loài cá Chuối hoa (Channa maculatus) thuộc mức độ Nguy cấp (EN), còn 7 loài kia ở mức độ VU (Cá chình mun-Anguilla bicolor, Cá chình hoa - Anguilla marmorata, Cá chiên - Bagarius bagarius, Cá dầm xanh - Bangana lemassoni, Cá cháo biển - Elops saurus, Cá lăng chấm - Hemibagrus guttatus, Cá mòi cờ chấmKonosirus punctatus) [16] Rừng dừa nước xã Bình Phước, huyện Bình Sơn tỉnh Quãng Ngãi nằm trên một nhánh sông của sông Trà Bồng. Nơi đây, đặc trưng là nước lợ nên độ đa dạng về cá tương đối cao. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về cá chưa được tiến hành một cách tổng thể, đầy đủ. Việc đánh giá thành phần loài Cá nơi đây chỉ mang tính ước lượng. Do vậy, việc nghiên cứu thành phần loài Cá tại rừng dừa nước xã Bình Phước, huyện Bình Sơn, tỉnh Quãng Ngãi có ý nghĩa rất quan trọng nhằm góp phần đánh giá đầy đủ hơn về tiềm năng về nguồn lợi cá nơi đây, từ đó có biện pháp khai thác, bảo vệ và có những định hướng phát triển bền vững
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan