Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khảo sát thuật ngữ kinh tế trong văn kiện đại hội đảng cộng sản việt nam và sự c...

Tài liệu Khảo sát thuật ngữ kinh tế trong văn kiện đại hội đảng cộng sản việt nam và sự chuyển dịch tương ứng sang tiếng anh (từ văn kiện đại hội ix x )

.PDF
94
7
141

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN .......................................................... NGUYỄN NGỌC TOÀN KHẢO SÁT THUẬT NGỮ KINH TẾ TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ SỰ CHUYỂN DỊCH TƢƠNG ỨNG SANG TIẾNG ANH ( TỪ VĂN KIỆN ĐẠI HỘI IX- X) Luận văn Thạc sỹ Ngôn ngữ học Ngành học: Ngôn ngữ học Mã ngành: 602201 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. LÊ QUANG THIÊM Hà Nội, tháng 04 năm 2010 KHẢO SÁT THUẬT NGỮ KINH TẾ TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ SỰ CHUYỂN DỊCH TƢƠNG ỨNG SANG TIẾNG ANH (Từ văn kiện Đại hội IX, X) MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ trước đến nay nói đến KHXH&NV Việt Nam, từ sự hình thành đến sự phát triển sau này luôn luôn không tách rời sự lãnh đạo của Đảng. Quả thật thuật ngữ KHXH&NV ở Việt Nam (chữ quốc ngữ) bắt đầu xuất hiện từ đầu thế kỉ XX, đầu tiên trên văn bản Đông Kinh Nghĩa Thục, Tân thư, Tân văn, phong trào Duy Tân, rồi trên các báo Đông dương tạp chí 1913, Nam Phong tạp chí 1917...rồi đến văn kiện tiền thân của Đảng, rồi đến văn kiện chính thức của Đảng. Thuật ngữ ra đời sớm nhưng thuật ngữ kinh tế rất lâu sau đó mới xuất hiện. Tác phẩm Đường Kách Mệnh mới định nghĩa thế nào là tư bản, thế nào là kinh tế tư bản rồi văn kiện Đảng mới giải thích các định nghĩa về kinh tế. Ngày nay nước ta đang trên đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) dưới sự lãnh đạo của một chính Đảng duy nhất, do đó nói đến KHXH&NV là nói đến lập trường quan điểm của Đảng. Chính vì vậy mà khi tìm hiểu về KHXH&NV thì không thể không chú ý tới văn kiện Đảng. Phải nói rằng văn kiện Đảng là nền tảng vững chắc cho sự phát triển của KHXH&NV nước nhà mà thuật ngữ kinh tế- chính trị-xã hội trong đó là nơi tập trung thể hiện nội dung đường lối quan điểm của Đảng. Từ khi Đảng thực hiện chính sách đổi mới (năm 1986) đã tạo ra những bước phát triển toàn diện nhưng trong đó bước phát triển thể hiện rõ nhất và quan trọng nhất là về kinh tế. Cũng trong bối cảnh như vậy, hệ thuật ngữ (HTN) khoa học xã hội (KHXH) và kinh tế (KT) biến đổi rất nhanh vì xã hội có sự chuyển đổi về cơ chế từ tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường, kéo theo đó là những nhận thức và quan điểm về chính trị, xã hội có nhiều thay đổi. Sự thay đổi có nhiều dạng và trên nhiều lĩnh vực trong đó quan trọng nhất là ở sự lãnh đạo và định hướng phát triển đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để hiểu rõ những định hướng ấy không có cách nào khác hơn về mặt ngôn ngữ là khảo sát những khái niệm, thuật ngữ, phạm trù liên quan đến kinh tế có tính chất chính thống được thể hiện trong Văn kiện Đại Hội (ĐH) Đảng. Trong thực tiễn công tác, bản thân chúng tôi nhiều khi cũng phải dịch tài liệu kinh tế sang Anh ngữ và thực tế thì chuyển dịch ngôn ngữ từ Anh sang Việt đã khó nhưng chuyển dịch ngôn ngữ từ Việt sang Anh còn khó khăn hơn bởi vì nó phải đảm bảo màu sắc định hướng chính trị xã hội của ta. Chính vì thế trong giới hạn cho phép, luận văn này sẽ nghiên cứu khảo sát hệ thuật ngữ Kinh tế trong văn kiện Đảng Cộng Sản Việt Nam, có so sánh chuyển dịch ra tiếng Anh với mong muốn góp phần hiểu định hướng kinh tế trong Văn kiện Đảng, đồng thời có khả năng dịch Anh- Việt, Việt- Anh chính xác. 2. Nội dung và mục đích nghiên cứu 2.1 Nội dung nghiên cứu Điều quan trọng hàng đầu của khảo sát này là xác định thuật ngữ kinh tế được dùng trong Văn Kiện của Đảng, loại văn bản chính thức có ý nghĩa định hướng cho cả xã hội. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để hiểu đúng các thuật ngữ dùng chính xác trong Văn Kiện. Muốn làm được điều đó chúng tôi phải hiểu thuật ngữ, phân biệt thuật ngữ với từ thường mà thuật ngữ kinh tế rất dễ nhầm lẫn, sau đó mới tiến hành phân tích, so sánh chuyển dịch. Vì vậy trước hết chúng tôi tiến hành xử lí ranh giới từ ngữ để xác định những thuật ngữ kinh tế xuất hiện trong Văn kiện Đảng, sau đó thống kê những thuật ngữ theo trật tự của từ điển (A,B,C…). Tiếp theo là phân theo những tiểu ngành trong kinh tế, phân tích đặc điểm cấu tạo, nội dung của thuật ngữ. Cuối cùng tìm cách chuyển dịch sang tiếng Anh và nêu những nguyên tắc, cách thức chuyển dịch để đảm bảo tính chính xác chuyển tải được thực chất nội dung trong Văn kiện Đảng. 2.2 Mục đích nghiên cứu Mục đích cuối cùng là hiểu được một cách chính xác thuật ngữ kinh tế dùng trong Văn kiện Đảng, từ đó có thể chuyển dịch chính xác sang tiếng Anh. Và hơn thế nữa, trong một giới hạn cho phép khái quát nêu thành những nguyên tắc dịch trong Văn kiện khác trong văn bản thường, văn bản báo chí. Rút ra những bài học cần thiết khi làm việc với hệ thuật ngữ này. 3. Tƣ liệu * Nguồn tư liệu và ngữ liệu chính là những xuất bản phẩm chính thức. Đó là các văn bản chính thức của Đảng, những văn kiện đã xuất bản. Tiếp theo là các ấn phẩm giải thích về văn kiện Đảng bằng tiếng Việt của nhà xuất bản Chính trị Quốc gia cũng như các nhà xuất bản khác. Những bài nói chuyện, những giải thích của các nhà lãnh đạo quản lí trong vận dụng thực hiện nghị quyết của Đảng. Những ngữ liệu các bộ ngành liên quan dịch, công bố chính thức ra tiếng Anh. * Các văn kiện Đảng bằng tiếng Việt, tiếng Anh trên trang web chính thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam: dangcongsan.vn * Từ điển kinh tế thương mại Anh- Việt, Việt- Anh * Các bài báo, các bài viết về kinh tế được viết và dịch trên các trang web chính thức của Nhà nước. 4. Phƣơng pháp Trong quá trình thực hiện luận văn này, chúng tôi vận dụng những phương pháp phổ biến trong nghiên cứu ngôn ngữ học áp dụng cho lĩnh vực phân tích từ vựng- ngữ nghĩa như phân tích cấu trúc từ, phân tích ngữ nghĩa và phân tích chuyển dịch. Phương pháp phân tích, phân định ranh giới từ, ngữ cũng được vận dụng triệt để. Đồng thời các thủ pháp thống kê định lượng, các biểu bảng trình bày cũng được sử dụng trong phân tích, miêu tả nội dung của luận văn Song song việc sử dụng các thủ pháp thống kê, định lượng các đơn vị, biểu thức theo định hướng nghiên cứu, chúng tôi cũng áp dụng các thủ pháp định tính trong quá trình khảo sát. Thủ pháp này giúp chúng tôi phân tích so sánh và miêu tả hình thái cấu trúc của các thuật ngữ cần nghiên cứu. Từ đó tìm ra các đặc điểm cấu tạo và nôi dung cơ bản thuật ngữ kinh tế. Trong luận văn này, các thuật ngữ được đánh giá theo các chuẩn mực được qui định của Việt Nam là tính dân tộc, tính khoa học, tính đại chúng và tính hệ thống. 5. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, toàn bộ nội dung nghiên cứu được trình bày trong 3 chương. Chƣơng I: Cơ sở lí luận cho việc khảo sát thuật ngữ kinh tế trong văn kiện Đảng CSVN Chƣơng II: Phân tích đặc điểm thuật ngữ kinh tế tiếng Việt trên văn kiện Đảng CSVN Chƣơng III: Cách chuyển dịch thuật ngữ kinh tế trên văn kiện Đảng CSVN CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN CHO VIỆC KHẢO SÁT THUẬT NGỮ KINH TẾ TRONG VĂN KIỆN ĐẢNG CSVN 1. 1 Khái niệm thuật ngữ 1.1.1 Quan điểm của các nhà ngôn ngữ học thế giới khi bàn về thuật ngữ và ngôn ngữ chuyên ngành Ngày nay trong tài liệu ngôn ngữ học đã có rất nhiều cách hiểu, cách định nghĩa về thuật ngữ. Thật khó liệt kê ra hết những cách hiểu đó. Dưới đây chúng tôi chỉ lấy ra vài định nghĩa tiêu biểu trong và ngoài nước làm cơ sở cho nghiên cứu. M.A.K.Halliday đại diện cho giới ngôn ngữ học Anh những năm 60 đã từng có quan điểm như sau “ đặc trưng của ngôn ngữ chuyên ngành không phải là các thành tố ngữ pháp mà chính là các đơn vị từ vựng” [23, tr 21] Theo cuốn Đại từ điển tiếng Đức Langenscheidts “ Ngôn ngữ chuyên ngành là tất cả những diễn đạt chuyên môn và chuyên biệt được sử dụng trong một chuyên ngành nhất định (hoặc một nghề nhất định) và đối với những người không thông thạo chuyên môn thì những khái niệm đó rất khó hiểu hoặc không hiểu được” [1, tr.18] A.X Gerd, một trong các nhà ngôn ngữ học Xô Viết định nghĩa như sau: “Thuật ngữ là một đơn vị từ vựng- ngữ nghĩa có chức năng định danh và được khu biệt một cách nghiêm ngặt bởi các đặc trưng như tính hệ thống, tính đơn nghĩa; ở thuật ngữ không có hiện tượng đồng nghĩa hay đồng âm trong phạm vi của một khoa học hay một lĩnh vực tri thức cụ thể” [25, tr.19] Một số định nghĩa về thuật ngữ khoa học bằng tiếng Anh được đăng tải trên một số trang web.  Thuật ngữ là một từ hoặc ngữ có nghĩa chính xác trong một số ngữ cảnh, hoặc đặc chỉ một ngành, nghề hoặc lĩnh vực khoa học nào đó (a word or expression that has a precise meaning in some uses or is peculiar to a science, art, profession, or subject) http://www.merriam-webster.com/dictionary/term[1]  Thuật ngữ là một từ hoặc nhóm từ có nghĩa chuyên biệt (A word or group of words having a particular meaning)  Thuật ngữ là một từ hoặc ngữ được sử dụng trong các lĩnh vực kiến thức chuyên môn. (a word or expression used in a specialized field of knowledge) http://www.thefreedictionary.com/term  Thuật ngữ là bộ phận từ vựng chuyên dụng trong một lĩnh vực nào đó. Những thuật ngữ này chỉ các khái niệm cụ thể trong lĩnh vực đó và nghĩa của thuật ngữ không nhất thiết phải giống với nghĩa của từ được sủ dụng trong văn cảnh thông thường. (Technical terminology is the specialized vocabulary of a field, the nomenclature. These terms have specific definitions within the field, which is not necessarily the same as their meaning in common use.) http://en.wikipedia.org/wiki/Technical_terms_and_definitions 1.1.2. Quan điểm của các nhà Việt ngữ học Các nhà ngôn ngữ học đại diện cho các nhà Việt ngữ học như Hoàng Xuân Hãn, Lê Khả Kế, Hoàng Văn Hành, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Văn Tu, Lưu Vân Lăng, Vũ Quang Hào, Nguyễn Như Ý, Nguyễn Thiện Giáp và một số nhà nghiên cứu khác cũng đã đưa ra những định nghĩa về thuật ngữ. Theo Hoàng Xuân Hãn, “thuật ngữ hay danh từ khoa học là những từ ngữ biểu thị một khái niệm xác định thuộc những khái niệm của một ngành khoa học nhất định” [16, tr. 42]. Lưu Vân Lăng và Nguyễn Như Ý trong khi định nghĩa thuật ngữ đã khoanh vùng cho các khái niệm mà lớp từ vựng này phục vụ: “Thuật ngữ là bộ phận ngôn ngữ (từ vựng) biểu đạt các khái niệm khoa học, là thuộc tính của khoa học, kĩ thuật, chính trị, tức là những lĩnh vực của xã hội đã được tổ chức một cách có trí tuệ” [21, tr. 57] Nguyễn Văn Tu lại cho rằng: “ Thuật ngữ là từ và cụm từ cố định để chỉ những khái niệm của một ngành khoa học nào đó, ngành sản xuất hay ngành văn hóa nào đó,.v..v..Đặc điểm của thuật ngữ là từ chỉ có một nghĩa, không có từ đồng nghĩa, không có sắc thái tình cảm, có thể có tính chất quốc tế (tùy từng ngành)” [28, tr.114]. Trong định nghĩa này Nguyễn Văn Tu đã có quan điểm gần như thống nhất với các nhà ngôn ngữ học Âu-Mỹ về bản chất và đặc điểm của thuật ngữ. Vũ Quang Hào […, tr.124,125] lại tiếp cận thuật ngữ về phương diện ngữ nghĩa. Theo ông, trong tiếng Việt, bản thân hai chữ “thuật ngữ” phải được hiểu theo bốn nghĩa: “Thuật ngữ” được hiểu là nội dung của khái niệm khoa học (nội hàm khái niệm). Theo nghĩa này, thuật ngữ là đơn vị cơ bản của mỗi khoa học chuyên ngành. “Thuật ngữ” được hiểu là hình thức ngôn ngữ, là cái vỏ, là tên gọi của một khái niệm khoa học. Theo nghĩa này, thuật ngữ - tên gọi là đơn vị cơ bản trong vốn từ của ngôn ngữ khoa học “Thuật ngữ” được hiểu là toàn bộ khái niệm trong một khoa học, một lĩnh vực. Theo nghĩa này, toàn bộ thuật ngữ - khái niệm làm thành hệ thuật ngữ - khái niệm của một khoa học. “Thuật ngữ” được hiểu là toàn bộ tên gọi trong một khoa học. Theo nghĩa này , toàn bộ thuật ngữ - tên gọi làm thành hệ thuật ngữ tên gọi của một khoa học. Tình trạng của hệ thuật ngữ - tên gọi phản ánh tình trạng ứng dụng lý luận ngôn ngữ học vào việc giải quyết những vấn đề của hình thức ngôn ngữ trong một khoa học. Trong số các định nghĩa về thuật ngữ của các nhà Việt ngữ học, đáng chú ý nhất là định nghĩa của Nguyễn Thiện Giáp, bởi nó mang tính bao quát và đầy đủ nhất từ trước tới nay: “Thuật ngữ khoa học là một bộ phận từ vựng đặc biệt của ngôn ngữ. Nó bao gồm những từ và cụm từ cố định là tên gọi chính xác của những khái niệm và những đối tượng thuộc các lĩnh vực chuyên môn của con người” [14, tr.118] Qua các định nghĩa về thuật ngữ của các nhà nghiên cứu nói trên, chúng ta thấy thuật ngữ là từ và cụm từ nhưng không giống với từ và cụm từ thông thường. Từ ngữ thông thường có thể biểu thị sắc thái tình cảm, sắc thái phụ như thái độ đánh giá con người, khen, chê…, có thể mang tính đa nghĩa, có thể có đồng nghĩa, trái nghĩa, có thể có đồng âm, trong khi thuật ngữ thì chỉ đơn nghĩa và chỉ mô tả một khái niệm hay một khách thể. Nói cách khác, thuật ngữ là một bộ phận của từ vựng của một ngôn ngữ, chúng biểu thị khái niệm xác định trong các ngành khoa học kỹ thuật nên thuật ngữ phải tuân thủ tính nghiêm ngặt của nó. Qua đó ta thấy thuật ngữ khoa học chính là một lớp từ trong vốn từ vựng của một ngôn ngữ. Nó không phải là từ vựng chung mà là lớp từ vựng đặc biệt. Nét đặc biệt được thể hiện ở chỗ thuật ngữ khoa học là những từ và những cụm từ cố định thuộc một chuyên môn nhất định, chính xác và xác định về nghĩa. Từ việc lĩnh hội và tổng hợp các quan điểm khác nhau về thuật ngữ chúng tôi đi đến kết luận như sau: Thuật ngữ là một bộ phận từ ngữ được phân chia theo phạm vi sử dụng, tư duy và các hoạt động khoa học kĩ thuật để diễn đạt các khái niệm khoa học. 1.2. Việc nghiên cứu lí luận về thuật ngữ trong ngôn ngữ học Thuật ngữ là một bộ phận từ vựng quan trọng của ngôn ngữ. Theo nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới, thuật ngữ là bộ phận phát triển mạnh nhất so với các bộ phận khác trong từ vựng. Và có một thực tế là đối với những chuyên ngành, những lĩnh vực càng được xã hội quan tâm và phát triển thì hệ thống thuật ngữ của chuyên ngành ấy càng hoàn chỉnh và đến lượt nó sẽ quay lại làm tiền đề thúc đẩy cho chính ngành khoa học đó phát triển lên một bậc cao hơn. Ở Việt Nam hiện nay, số lượng các thuật ngữ ngày càng nhiều và đang được hoàn thiện dần, nhưng bên cạnh đó lại tồn tại một số bất cập. Ví dụ, có những khái niệm được biểu thị bằng hơn một thuật ngữ. Thí dụ: Lũ - lũ lớn - hồng thuỷ; phi cơ trực thăng – máy bay lên thẳng, tàu hỏa- xe lửa... Ngay cả cách phiên âm thuật ngữ Ấn Âu ở nước ta cũng không thống nhất. Thí dụ: Cùng một thuật ngữ tiếng Anh acid nhưng sang Việt Nam lại được viết thành axít, a-xít... Sở dĩ có điều này là vì các thuật ngữ của nước ta chưa được đặt trong một hệ thống quy chuẩn chặt chẽ, ít nhiều đâu đó vẫn còn mang tính nôm na. Điều này gây không ít khó khăn cho người nghiên cứu. Bởi vậy hơn bao giờ hết chúng ta đang rất cần một đội ngũ các chuyên gia nghiên cứu thuật ngữ học, rất cần những sự quan tâm thích đáng trong việc nghiên cứu thuật ngữ, xây dựng và tiêu chuẩn hoá các hệ thống thuật ngữ thuộc các ngành khoa học ở nước ta. Đây quả thực là một vấn đề cấp thiết vì Việt Nam đang cần những hệ thống thuật ngữ chuẩn xác, khắc phục những nhược điểm như đã nêu trên. 1.3. Đặc điểm thuật ngữ theo quan điểm của giới Việt ngữ học Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam nói chung và các nhà Việt ngữ học nói riêng cũng đã đưa ra rất nhiều ý kiến về những vấn đề, những yêu cầu khi xây dựng thuật ngữ và đặc điểm của thuật ngữ. Trong đó có một quan điểm được các nhà Việt ngữ học thống nhất là: Xây dựng thuật ngữ khoa học cho dân tộc mình, chúng ta nên dựa vào phương châm khoa học, dân tộc, đại chúng. Bởi vậy, đặt thuật ngữ cần phải xét đến những tiêu chuẩn sau: - Tính chính xác - Tính hệ thống - Tính chất ngôn ngữ dân tộc - Tính ngắn gọn - Tính dễ dùng [28, tr.39-68] Trong đó có ba tiêu chuẩn quan trọng nhất đối với thuật ngữ tiếng Việt là tính chính xác, tính hệ thống và tính quốc tế chúng tôi xin được bàn kĩ dưới đây: Tính chính xác Thuật ngữ là một lĩnh vực khoa học nghiêm cẩn nên tính chất cơ bản nhất của nó là tính chính xác, rõ ràng trong khoa học. Chúng tôi xin được trích dẫn lại quan điểm của Lưu Vân Lăng về tính chính xác của thuật ngữ: “Mức chính xác khoa học yêu cầu thuật ngữ phải thể hiện đúng nội dung, khái niệm khoc học một cách rõ ràng, rành mạch. Một thuật ngữ chính xác tuyệt đối không làm cho người nghe hiểu sai hoặc nhầm lẫn từ khái niệm này qua khái niệm khác” Nguyễn Thiện Giáp cũng hoàn toàn tán thành quan điểm này: coi tính chính xác là một trong ba đặc điểm quan trọng nhất, cơ bản nhất và là ưu tiên số một của thuật ngữ. Cũng theo Lưu Vân Lăng thì nên “ mỗi khái niệm có một thuật ngữ và mỗi thuật ngữ chỉ một khái niệm”, tránh tuyệt đối các hiện tượng đồng âm, đồng nghĩa trong cùng một lĩnh vực chuyên môn.[21, tr. 43] Ví dụ 1 Thuật ngữ “Annual allowances” nếu trực dịch chắc nhiều người sẽ không ngần ngại dịch ghép các thành tố nghĩa là chiết khấu hàng năm nhưng thực tế thuật ngữ này phải được dịch chính xác phải là miễn thuế hàng năm. Ví dụ 2 Trong tiếng Anh, từ “call” phải tùy từng ngữ cảnh, từng lĩnh vực chuyên môn mà dịch thì mới chính xác được. Ví dụ: Phone call: cuộc gọi bằng điện thoại (thông dụng) Call goods: hàng không có sẵn: muốn có phải gọi điện thoại đặt hàng (thương mại) Call loan: tiền vay không kì hạn: số tiền vay phải trả ngay khi bị đòi hay yêu cầu ( tài chính) Vậy nên muốn giải thích đúng nội dung của thuật ngữ, ta phải có sự hiểu biết tường tận về ngành khoa học có thuật ngữ đó và phải biết ta đang dịch nghĩa cho ngành khoa học nào. Sử dụng chính xác thuật ngữ không dễ dàng gì đối với những người không có chuyên môn. Muốn làm tốt được điều này, đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ với những nhà chuyên môn thuộc lĩnh vực đó. Tính hệ thống Thuật ngữ là một bộ phận của từ vựng, nên bắt buộc phải mang tính hệ thống. Nói đến tính hệ thống của thuật ngữ khoa học kĩ thuật tức là đề cập tới cả hai góc độ nội dung và hình thức. Nói cách khác là hệ thống khái niệm và hệ thống kí hiệu. Hơn nữa, mỗi lĩnh vực khoa học đều có một hệ thống các khái niệm chặt chẽ mà mỗi thuật ngữ lại biểu thị một khái niệm, đối tượng thuộc lĩnh vực chuyên môn của ngành khoa học nên nó phải tuân theo hệ thống. Đề cập đến vấn đề này, Lưu Vân Lăng đã khẳng định “...yêu cầu thuật ngữ khoa học phải được thống nhất là nói đến cách biểu đạt thống nhất một khái niệm nhất định trong một lĩnh vực chuyên môn nhất định”.[21, tr. 65]. Từ những vấn đề đặt ra nên khi xây dựng một thuật ngữ hay thực hiện một sự chuyển dịch một thuật ngữ từ tiếng nước ngoài vào tiếng Việt, chúng ta cần đặc biệt chú ý đến tính hệ thống của thuật ngữ để tạo thuận lợi cho những người làm việc với thuật ngữ hoặc quan tâm tới thuật ngữ. Ta tham khảo một ví dụ về hệ thống thuật ngữ sau: Economic cost Chi phí kinh tế. Economic growth Tăng trưởng kinh tế. Economic good Hàng hoá kinh tế. Economic planning Hoạch định kinh tế. Economic policy Chính sách kinh tế. Economic price Giá kinh tế. Economic profit Lợi nhuận kinh tế. Economics Kinh tế học. Economic surplus Thặng dư kinh tế. Economic union Cộng đồng kinh tế. Economic welfare Phúc lợi kinh tế. Cách đặt thuật ngữ như trên là một ví dụ cụ thể đảm bảo được tính hệ thống của thuật ngữ. Có thể nói, tính hệ thống của thuật ngữ là một thách thức đối với người dịch các văn bản chuyên ngành. Khi sáng tạo ra một thuật ngữ mới thì thuật ngữ đó cần đảm bảo được tính hệ thống để thuận lợi cho người học và người sử dụng thuật ngữ. Tính quốc tế Ngoài đặc điểm chính xác và tuân theo một hệ thống nhất định, thuật ngữ còn mang tính quốc tế. Tính quốc tế là một vấn đề đang được tranh luận nhiều trong giới ngôn ngữ học và thuật ngữ học, bởi vì khái niệm khoa học của thuật ngữ mang tính phổ niệm, tính quốc tế vì nó là tài sản chung của toàn nhân loại nhưng ngôn ngữ lại mang tính dân tộc. Trong khi đó, hầu hết tất cả các thuật ngữ đều là của nước ngoài nên khi được chuyển dịch hoặc phiên âm vào tiếng Việt thì phải làm sao để vừa đảm bảo tính khoa học, tính quốc tế nhưng vẫn phải mang tính dân tộc. Đây là một bài toán rất khó giải cho các nhà Việt ngữ học cũng như các dịch giả thuật ngữ Việt Nam. Thông thường, nói tới tính quốc tế của thuật ngữ người ta thường chú ý tới hình thức cấu tạo của nó về mặt âm, mặt nghĩa. Nhưng thực tế, quan trọng hơn, nó còn thể hiện ở mặt hình thái bên trong của nó (có nghĩa là cách chọn đặc trưng của sự vật, khái niệm...làm cơ sở định dạng cho việc đặt thuật ngữ. Và theo như Lê Hoài Ân “ tính quốc tế của thuật ngữ chính là sự giống nhau, gần nhau ở mặt âm, mặt chữ của thuật ngữ và có các đặc trưng hình thái bên trong của khái niệm định danh cho thuật ngữ” [1, tr. 35]. Ví dụ: Tiếng Anh: Economic Kinh tế planning việc lập kế hoạch Tiếng Việt: Hoạch định kinh tế Tiếng Đức: Ausfuhr vertrag Xuất khẩu hợp đồng Tiếng Anh: Export Xuất khẩu Tiếng Việt: contract hợp đồng Hợp đồng xuất khẩu Các đặc trưng này là các điểm cơ bản biểu hiện tính quốc tế, nhưng trong thực tế do niềm tự hào dân tộc mà thuật ngữ bao giờ cũng được cải biên đi một chút về mặt âm, mặt chữ nếu có thể để phù hợp với đặc trưng ngôn ngữ dân tộc, chỉ giữ lại khái niệm khoa học mà thôi. Nhưng bên cạnh đó cũng có những trường hợp bắt buộc thì phải copy hoàn toàn thuật ngữ nước ngoài. Ví dụ: Tiếng Anh: radio Tiếng Pháp: radio Tiếng Đức: radio Tiếng Việt: ra-đi-ô Trong quá trình chuyển dịch, tiếp thu các hệ thuật ngữ quốc tế nhằm xây dựng và phát triển hệ thuật ngữ tiếng Việt là một việc làm vô cùng ý nghĩa. Trong quá trình chuyển dịch đó, chúng ta có thể “gia công” để làm giàu cho hệ thuật ngữ tiếng Việt còn non trẻ nhưng trong mọi trường hợp phải đảm bảo nguyên tắc chính xác, khoa học cho thuật ngữ. Nếu vì tính dân tộc đại chúng mà phải chuyển dịch thuật ngữ một cách khiên cưỡng, rườm rà gây khó hiểu, không đảm bảo được tính chính xác khoa học thì nhất thiết chúng ta không làm. 1.4. Yêu cầu và tiêu chuẩn của thuật ngữ Việt Nam Nhằm đẩy mạnh công tác nghiên cứu và xây dựng thuật ngữ khoa học, dần dần tiêu chuẩn hoá và thống nhất thuật ngữ trong các ngành chuyên môn, cuối tháng 12 năm 1964, Uỷ ban Khoa học Nhà nước đã triệu tập Hội nghị bàn về vấn đề Xây dựng thuật ngữ khoa học. Có rất nhiều bản báo cáo đã đề cập tới nguyên tắc xây dựng thuật ngữ khoa học, nêu ra những tiêu chuẩn có quan hệ khăng khít chặt chẽ của thuật ngữ khoa học. Nhìn chung, các tác giả đã nhất trí với nhau về các tiêu chuẩn. Thuật ngữ khoa học Việt nam trước tiên phải thỏa mãn các tiêu chuẩn chung về thuật ngữ như đã nêu trên, sau đó phải có màu sắc dân tộc, đảm bảo tính khoa học, tính đại chúng (ngắn gọn và dễ dùng). Muốn đảm bảo được mức độ chính xác thì khi đặt một hệ thống thuật ngữ, trong cùng một lĩnh vực chuyên môn, nên tránh các hiện tượng đồng âm, đồng nghĩa (những hiện tượng ngày nay thường thấy trong ngôn ngữ), muốn thế thuật ngữ khoa học phải cố gắng tiến tới nguyên tắc: mỗi khái niệm có một thuật ngữ và mỗi thuật ngữ chỉ có một khái niệm [12 tr.41]. Theo các nhà khoa học, tính chính xác là đặc điểm quan trọng nhất, cơ bản nhất trong các đặc điểm của thuật ngữ. Để đảm bảo màu sắc dân tộc và tính đại chúng của các thuật ngữ, các nhà khoa học đều đi đến thống nhất: trước hết phải tận dụng kho tàng từ vựng của tiếng Việt, đó là những từ mà mọi người dân thường dùng. Điều này vừa bảo vệ, phát triển được ngôn ngữ dân tộc vừa hạn chế các yếu tố ngoại lai không cần thiết khiến cho một số thuật ngữ trở nên xa lạ và khó hiểu đối với người sử dụng. Điều này đã sớm được khẳng định bởi Lưu Vân Lăng: “Thuật ngữ dù là thuộc lĩnh vực khoa học, chuyên môn nào, cũng nhất thiết phải là một bộ phận của từ ngữ dân tộc. Do đó thuật ngữ phải có tính dân tộc và phải mang màu sắc ngôn ngữ dân tộc.[22 tr. 28] Bảo đảm tính chất ngôn ngữ dân tộc của thuật ngữ là góp phần xây dựng tính đại chúng của thuật ngữ. Khoa học kĩ thuật không thể tách rời quần chúng, tách rời người sử dụng, nhất là trong thời đại mà nền kinh tế tri thức đang được tiếp nhận trên phạm vi toàn cầu. Khoa học công nghệ phải thực sự xâm nhập sâu rộng vào quần chúng. Muốn vậy thuật ngữ không thể là những từ, ngữ cao siêu, xa lạ với quần chúng, chỉ dành riêng cho các nhà chuyên môn mà phải dễ dùng đối với đông đảo quần chúng. Như vậy, thuật ngữ phải được hình thành từ ngôn ngữ phổ thông, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ đọc, dễ viết. 1.5. Cách hiểu về thuật ngữ kinh tế Thực ra cho đến bây giờ các nhà Việt ngữ học vẫn chưa đưa ra được một khái niệm thống nhất về thuật ngữ khoa học. Nhưng trong quá trình nghiên cứu, chọn lọc chúng tôi cảm thấy khái niệm về thuật ngữ khoa học của GS Nguyễn Thiện Giáp là ngắn gọn, súc tích và khoa học nhất, và dựa theo cách hiểu đã được phân tích dẫn giải trên có thể coi “thuật ngữ kinh tế là những từ và cụm từ cố định gọi tên chính xác các khái niệm và các đối tượng thuộc ngành kinh tế”. Nói cách khác thuật ngữ kinh tế là vốn từ (từ, ngữ) để chỉ các khái niệm kinh tế, chẳng hạn như các khái niệm liên quan đến công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, kế hoạch đầu tư, xuất nhập khẩu... 1.5.1 Thuật ngữ kinh tế thời kì đổi mới Ngày nay kinh tế thế giới đang trong thời kì hội nhập toàn cầu nên phát triển rất nhanh, rất mạnh và rất rộng lớn. Do vậy, xét trên phương diện toàn thế giới, kinh tế đang phát triển từng ngày từng giờ vậy nên hệ thuật ngữ kinh tế cũng đang liên tục phát triển. Việt Nam ta từ trước năm 1986 thực hiện mô hình kinh tế kế hoạch tập trung, quan liêu, bao cấp. Hơn thế nữa đối ngoại, giao lưu kinh tế của Việt Nam thời gian đó cũng chỉ bó hẹp ở khối xã hội chủ nghĩa, không quan hệ thông thương với các nền kinh tế khác trên thế giới nên nền kinh tế của ta lúc đó rất yếu kém, lạc hậu và trì trệ. Do đó hệ thuật ngữ kinh tế của ta thời gian này còn rất đơn giản, sơ sài, thiếu hẳn tính quốc tế. Từ sau 1986 đến nay Đảng thực hiện mô hình kinh tế thị trường có sự định hướng của Nhà nước, mở ra một thời kì phát triển rực rỡ, đáng ghi nhận của nền kinh tế nước nhà. Kinh tế Việt Nam nay đã hội nhập với kinh tế khu vực và toàn cầu, đóng vai trò là lĩnh vực chủ chốt nhất trong quá trình phát triển và hiện đại hóa đất nước. Chưa bao giờ trong lịch sử ngành khoa học kinh tế được quan tâm và phát triển như ngày nay. Trong đó, đi đầu trong việc hoàn thiện, chuẩn hóa hệ thống cơ sở lí luận khoa học về kinh tế là việc hoàn thiện và chuẩn hóa hệ thống thuật ngữ kinh tế với đầy đủ những tiêu chí: chính xác, khoa học, đầy đủ, hệ thống, quốc tế, cập nhật... 1.5.2 Các công trình nghiên cứu gần đây Bên cạnh các hướng nghiên cứu về thuật ngữ như nêu trên, gần đây tại Việt Nam đã có một số đáng kể luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ nghiên cứu về thuật ngữ. Điều này chứng tỏ vấn đề thuật ngữ, nghiên cứu và xây dựng thuật ngữ đã và đang càng ngày càng được quan tâm. Ví dụ: - Thuật ngữ kinh tế thương mại Nhật- Việt (tác giả Nguyễn Thị Bích Hà, luận án tiến sĩ 2000) - Thuật ngữ điện tử Anh- Việt (tác giả Nguyễn Thị Kim Thanh, luận văn thạc sĩ 2000) - Thuật ngữ thương mại Anh- Việt (tác giả Vũ Thị Bích Hà, luận văn thạc sĩ 2003) - Thuật ngữ kiểm toán tiếng Đức (tác giả Lê Hoài Ân, luận văn thạc sĩ năm 2003) - Thuật ngữ khí tượng thủy văn tiếng Anh (tác giả Đoàn Thúy Quỳnh, luận văn thạc sỹ năm 2007) Tiểu kết - Trong các mục trước của chương I, luận văn đã nêu lên quan điểm của các nhà ngôn ngữ học thế giới và các nhà Việt ngữ học về thuật ngữ và ngôn ngữ chuyên ngành. Tổng hợp lại các quan điểm của các nhà ngôn ngữ học, chúng tôi đã mạnh dạn đưa ra một khái niệm chủ quan về thuật ngữ là: Thuật ngữ là một bộ phận từ ngữ được phân chia theo phạm vi sử dụng, tư duy và các hoạt động khoa học kĩ thuật để diễn đạt các khái niệm khoa học. - Tiếp theo trong chương I, chúng tôi đã trình bày đặc điểm của thuật ngữ theo quan điểm của các nhà Việt ngữ học. Với các nhà Việt ngữ học thì thuật ngữ phải có ba tiêu chuẩn quan trọng nhất là tính chính xác, tính hệ thống và tính quốc tế. - Một nội dung quan trọng khác cũng được bàn đến trong chương I là yêu cầu và tiêu chuẩn của thuật ngữ Việt Nam. Các nhà Việt ngữ học thống nhất rằng, ngoài ba tiêu chuẩn tính chính xác, tính hệ thống và tính tính quốc tế, thuật ngữ phải có màu sắc dân tộc và đảm bảo tính khoa học, đại chúng - Cuối cùng trong chương I, chúng tôi đã dựa vào các quan điểm và định nghĩa của các nhà ngôn ngữ học thế giới cũng như các nhà Việt ngữ học để đưa ra khái niệm về thuật ngữ kinh tế, sau đó nêu lên những đánh giá ban đầu về thuật ngữ kinh tế thời kì đổi mới. CHƢƠNG 2 PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM THUẬT NGỮ KINH TẾ TIẾNG VIỆT TRÊN VĂN KIỆN ĐẢNG CSVN 2.1 Cấu tạo từ 2.1.1 Khái niệm từ: “Hiện nay có tới trên 300 định nghĩa khác nhau về từ. Nói chung không có định nghĩa nào về từ làm mọi người thỏa mãn. Với tư cách là định nghĩa sơ bộ, có tính chất giả thiết để làm việc, có thể chấp nhận định nghĩa từ như sau: Từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc lập về ý nghĩa và hình thức.” [12, tr. 61] 2.1.2 Vai trò của phân tích cấu tạo từ Trong bất kì một ngôn ngữ nào cũng vậy, trước khi tiến hành nghiên cứu từ hay các vấn đề liên quan đến từ thì phân tích cấu tạo từ phải là một trong những công việc mang tính tiền đề bởi vì nó mang tính cơ sở nhất, nền móng nhất. Trong việc nghiên cứu ngôn ngữ nói chung và nghiên cứu thuật ngữ nói riêng, việc phân tích cấu tạo từ giúp làm sáng rõ bản chất cấu trúc của từ, từ đó giúp ta nghiên cứu, hiểu rõ và có thể giải quyết một loạt các vấn đề liên quan đến từ như vấn đề ngữ nghĩa, ngữ dụng của từ, vấn đề từ loại, vấn đề lịch sử, vấn đề về các biến thể, các trường nghĩa, ngữ âm.... Trong phạm vi luận văn của chúng tôi, chúng tôi dành một phần lớn thời gian và sự quan tâm để nghiên cứu thật kĩ đặc điểm cấu trúc của thuật ngữ. Bởi hơn ai hết chúng tôi ý thức được rằng đặc điểm cấu trúc của thuật ngữ là biểu hiện bề ngoài, bề nổi của mọi cấu trúc chìm bên trong; và một khi làm sáng rõ được cấu trúc của thuật ngữ thì chúng tôi có thể trong một phạm vi nào đó, nghiên cứu sâu hơn để làm sáng tỏ quá trình hình thành của thuật ngữ, các vấn đề nguồn gốc lịch sử, các vấn đề về phương thức cấu tạo, các vấn đề về từ loại, các vấn đề về ngữ nghĩa, các vấn đề về ngữ dụng và các vấn đề về so sánh đối chiếu, chuyển dịch thuật ngữ. 2.1.3 Đơn vị cấu tạo từ Đỗ Hữu Châu cho rằng “ Các yếu tố cấu tạo từ là những hình thức ngữ âm có nghĩa nhỏ nhất – tức là những yếu tố không thể phân chia thành những yếu tố nhỏ hơn nữa mà cũng có nghĩa- được dùng để cấu tạo ra các từ theo các phương thức cấu tạo từ của tiếng Việt”. [5, tr. 57]. Và theo Nguyễn Tài Cẩn thì yếu tố này được gọi bằng tên gọi quốc tế là hình vị, trong tiếng Việt được gọi là tiếng [3, tr. 37]. 2.1.4 Phƣơng thức cấu tạo từ Theo quan điểm của Đỗ Hữu Châu, phương thức cấu tạo từ “là cách thức mà ngôn ngữ tác động vào hình vị để cho ta các từ”. Từ trong tiếng Việt chủ yếu được cấu tạo theo các phương thức sau: Từ hóa hình vị: Là phương thức tác động vào bản thân một hình vị, làm cho nó có đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa của từ, biến hình vị thành từ mà không thêm bớt gì vào hình thức của nó. Ví dụ: những từ như: vốn, thuế, mua, bán, ... là những từ được hình thành do sự từ hóa hình vị của các hình vị trên. Ghép: Là phương thức tác động vào hai hoặc hơn hai hình vị có nghĩa, kết hợp chúng với nhau để sản sinh ra một từ mới (mang đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa như một từ) Ví dụ: Phương thức ghép tác động vào hình vị “thương” và hình vị “mại” để tạo thành từ “thương mại”, tác động vào hình vị “thuế” và hình vị “đất” để thành từ “thuế đất”.... Láy: Là phương thức tác động vào một hình vị cơ sở làm xuất hiện một hình vị láy giống nó toàn bộ hay bộ phận về âm thanh. Cả hình vị cơ sở và hình vị láy tạo thành một từ (mang đặc điểm ngữ pháp và ngữ nghĩa của từ) Ví dụ: Dùng phương thức láy tác động vào hình vị “trắng” cho ta từ láy “trăng trắng”, tác động vào hình vị “đen” cho ta từ láy “đen đen”.... 2.1.5 Các kiểu cấu tạo từ tiếng Việt
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan