Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khảo sát địa danh hành chính tỉnh bắc kạn...

Tài liệu Khảo sát địa danh hành chính tỉnh bắc kạn

.PDF
115
29
93

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ---------------------------- HÀ THỊ HỒNG KHẢO SÁT ĐỊA DANH HÀNH CHÍNH TỈNH BẮC KẠN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ Thái nguyên - 2008 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ---------------------------- HÀ THỊ HỒNG KHẢO SÁT ĐỊA DANH HÀNH CHÍNH TỈNH BẮC KẠN CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC Mà SỐ : 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS – TS. HÀ QUANG NĂNG Thái nguyên - 2008 Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trính nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ một công trính nào. Tác giả luận văn Hà Thị Hồng 1 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Mục lục Mục lục……………………………………………………………………..…3 Mở đầu ………………………………………………………………….……7 I. Lý do chọn đề tài ……………………………………………………….…7 II. Đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu …………………………...8 III. Lịch sử vấn đề ………………………………………………………….............8 IV. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ………………………….…..10 V. Phương pháp và tư liệu nghiên cứu …………………………………..11 VI. Cấu trúc luận văn …………………………………………………………….12 Chương 1: cơ sở lý thuyết liên quan đến địa danh và địa danh học ………......................................15 1.1. Khái niệm về địa danh..………………………………………….…15 1.1.1. Định nghĩa địa danh ………………………………………………...15 1.1.2. Địa danh hành chính ………………………………………………..18 1.2. Phân loại địa danh. …………………………………………………....19 1.3. Đặc điểm của địa danh …………………………………………….….20 1.4. Các phương diện nghiên cứu địa danh ………………………………21 1.5. Những nét chính về địa bàn liên quan đến địa danh hành chính tỉnh Bắc Kạn …………………………………………………………………….........22 1.5.1. Về địa lý ……………………………………………………………...22 1.5.2. Về lịch sử …………………………………………………………….23 1.5.3. Về văn hoá…………………………………………………………...26 1.5.4. Về dân cư…………………………………………………………….27 1.5.5. Về ngôn ngữ…………………………………………………………29 1.6. Tiểu kết ………………………………………………………………..30 Chương 2: Đặc điểm cấu tạo của địa danh hành chính tỉnh Bắc Kạn …….......................32 2.1. Mô hình cấu trúc phức thể địa danh hành chính tỉnh Bắc Kạn …..32 2.2. Thành tố chung ……………………………………………………….33 2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2.2.1. Khái niệm ……………………………………………………………33 2.2.2. Vấn đề thành tố chung trong địa danh hành chính tỉnh Bắc Kạn …33 2.2.3. Các thành tố chung có khả năng chuyển hoá thành những yếu tố riêng và đứng ở các vị trí khác nhau trong tên riêng ……………………. 33 2.3. Tên riêng ………………………………………………………………35 2.3.1. Giới thiệu chung …………………………………………………….35 2.3.2. Về số lượng yếu tố trong tên riêng ………………………………….36 2.3.2.1. Kết quả thống kê địa danh theo số lượng âm tiết trong tên riêng….36 2.3.2.2. Về số lượng các yếu tố trong địa danh……………………………..37 2.4. Các yếu tố và các địa danh có tần số xuất hiện cao ………………..38 2.4.1. Các yếu tố có tần số xuất hiện cao ………………………………….38 2.4.2. Một số địa danh có tần số xuất hiện cao ……………………………39 2.5. Đặc điểm cấu tạo địa danh …………………………………………...40 2.5.1. Đặc điểm cấu tạo nội dung ………………………………………….41 2.5.1.1. Phương thức cấu tạo mới…………………………………………...41 2.5.1.2. Phương thức chuyển hoá…………………………………………...45 2.5.1.3. Phương thức vay mượn…………………………………………......47 2.5.2. Đặc điểm cấu tạo hình thức ……………………………………...…48 2.5.2.1. Nhận xét khái quát về các kiểu cấu tạo địa danh…………………..49 2.5.2.2. Đặc điểm của một số kiểu cấu tạo địa danh do phương thức định danh chi phối……………………………………………………………….. .........53 2.6. Tiểu kết ………………………………………………………………...57 Chương 3: Đặc điểm về ý nghĩa của địa danh hành chính tỉnh Bắc kạn .............................59 3.1. Mối quan hệ giữa ý nghĩa địa danh và hiện thực được phản ánh ….59 3.2. Tính rõ ràng về nghĩa của các yếu tố trong địa danh thể hiện qua nguồn gốc ngôn ngữ……………………………………………………… .......... .61 3.2.1. Hiện tượng các yếu tố rõ ràng về nghĩa ……………………………61 3 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3.2.2. Hiện tượng các yếu tố chưa rõ ràng về nghĩa ……………………… 3.3. Các yếu tố trong địa danh hành chính tỉnh Bắc Kạn phản ánh tính đa dạng các loại hình đối tượng địa lý và mang tính cảnh quan rõ nét.......62 3.3.1. Sự phản ánh tính đa dạng của các loại hình đối tượng địa lý...….. 63 3.3.2. Sự phản ánh bức tranh địa hình mang tính cảnh quan rõ nét ……63 3.4. Cách phân loại nghĩa của các yếu tố trong địa danh ………………65 3.5. Các nhóm từ và tên gọi theo trường nghĩa ………………………….66 3.5.1. Nhóm ý nghĩa thứ nhất ……………………………………………..66 3.5.2. Nhóm ý nghĩa thứ hai ………………………………………………73 3.6. Một số địa danh gắn với lịch sử, văn hoá, xã hội ………………..…76 3.6.1. Địa danh tỉnh Bắc Kạn ……………………………………….…….76 3.6.2. Địa danh huyện Ba Bể ………………………………………...........79 3.6.3. Địa danh thôn Nà Tu ……………………………………………….82 3.7. Tiểu kết ……………………………………………………………….83 Kết luận ……………………………………………………………………85 Những bài báo của tác giả có liên quan đến luận văn đã được công bố........88 Tài liệu tham khảo………………………………………………………….89 Phụ lục……………………………………………………………….....…..92 4 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Mở đầu I. Lý do chọn đề tài 1. Địa danh là một bộ phận từ vựng trong vốn từ vựng của ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng. Nghiên cứu địa danh một vùng cung cấp cho ta những cơ sở để tím hiểu những cơ chế định danh của một sự vật hiện tượng. Mỗi ngôn ngữ có cách định danh riêng. 2. Địa danh liên quan chặt chẽ đến lịch sử, văn hoá, cư dân của một vùng nhất định. Địa danh lưu giữ những trầm tìch về lịch sử, văn hoá, phong tục, tập quán của cư dân ở một vùng đất. Nghiên cứu địa danh sẽ giúp nghiên cứu văn hoá, lịch sử của vùng đất ấy. 3. Địa danh có những nguyên tắc riêng trong cấu tạo, trong cách gọi tên, có thể một vùng đất có nhiều tên gọi khác nhau, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Nghiên cứu địa danh giúp nghiên cứu lịch sử phát triển của một vùng đất, giúp khám phá sự ảnh hưởng và tác động của những nhân tố bên ngoài vào cách đặt địa danh: Đất nước học, tôn giáo, tìn ngưỡng, lịch sử tộc người …Mặt khác địa danh, nhất là địa danh hành chình, thường là sản phẩm của một chế độ nhất định. Nó được gọi tên bởi những quan điểm, chình sách, ý tưởng của chình quyền hoặc dân chúng đương thời. Trong hoàn cảnh một vùng đất có nhiều dân tộc nối tiếp nhau sinh sống, địa danh có nhiều dấu tìch từ vựng của các ngôn ngữ. Mỗi địa danh được hính thành trong một hoàn cảnh văn hoá, lịch sử nhất định và còn lưu dấu mãi về sau. Nhiều địa danh thường mang tên người, cây cỏ, cầm thú, sự vật, địa hính thiên nhiên…Tất cả những điều ấy cho thấy địa danh trở thành “vật hoá thạch”, “tấm bia bằng ngôn ngữ độc đáo về thời đại mà nó chào đời”. 4. Bắc Kạn là một trong những chiếc nôi của cách mạng. Nghiên cứu địa danh hành chình tỉnh Bắc Kạn giúp chúng ta tím hiểu một chặng đường lịch sử lâu dài và hào hùng của dân tộc ta; giúp chúng ta học tập, giữ gín 5 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn truyền thống văn hoá dân tộc, đồng thời góp phần vào việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và mở rộng, phát triển du lịch của cả nước nói chung và tỉnh Bắc Kạn nói riêng. Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài của luận văn là “ Khảo sát địa danh hành chình tỉnh Bắc Kạn”. II. Đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các địa danh hành chình tỉnh Bắc Kạn. Các địa danh này có nguồn gốc từ nhiều ngôn ngữ khác nhau.§ Mục đìch nghiên cứu của luận văn là xác định những cơ sở lý luận liên quan đến việc nghiên cứu địa danh và địa danh học.M Về nội dung của luận vănV, chúng tôi tập trung vào các mặt sau: - Nghiên cứu những đặc điểm về phương diện cấu tạo của các địa danh hành chình tỉnh Bắc Kạn - Tím hiểu về phương thức định danh các địa danh hành chình tỉnh Bắc Kạn, đồng thời qua đó bước đầu tím hiểu về nội dung ngữ nhĩa địa danh. - ở một chừng mực nhất định, tím hiểu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá trong những địa danh nổi tiếng của tỉnh. III. Lịch sử vấn đề 1. Vấn đề nghiên cứu địa danh trên thế giới Vấn đề nghiên cứu địa danh được phát triển từ lâu trên thế giới. ở Trung Quốc, ngay từ thời Đông Hán (32 – 92 sau công nguyên), Ban Cố đã ghi chép hơn 4000 địa danh, trong đó một số một số đã được giải thìch rõ nguồn gốc và ý nghĩa. Đến thời Bắc Nguỵ (380 - 535), trong “Thuỷ Kinh Chú sớ”, Lịch Đạo Nguyên chép hơn 2 vạn địa danh, số được giải thìch ngữ nguyên là trên 2300. [11], [31]. ở các nước phương Tây, bộ môn địa danh học chình thức ra đời vào cuối thế kỷ XIX. Năm 1872, J.J. Eghi (Thuỵ Sĩ) viết “Địa danh học” và năm 6 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1903, J.W. Nagl (người Áo) cũng cho ra đời tác phẩm “Địa danh học”. Những năm 90 của thế kỷ XIX và 20 năm đầu của thế kỷ XX, hàng loạt Uỷ ban địa danh của các nước như Mỹ, Thuỵ Điển, Anh được ra đời. Thời kỳ đầu, các tác phẩm địa danh học chú trọng khảo chứng nguồn gốc địa danh. Từ thế kỷ XX, bước vào giai đoạn nghiên cứu tổng hợp về địa danh. J. Gilliénon (1854 - 1926) đã viết “Atlát ngôn ngữ Pháp”, nghiên cứu địa danh theo hướng phát triển địa lý học. Năm 1926, A. Dauzat (người Pháp) đã viết “Nguồn gốc và sự phát triển địa danh”, đề xuất phương pháp văn hoá địa lý học để nghiên cứu các lớp niên đại của địa danh. Tiên phong trong lĩnh vực xây dựng hệ thống lý luận về lý thuyết định danh là các nhà địa danh học Xô Viết. Vào những năm 1960 đã có hàng loạt công trính nghiên cứu về lĩnh vực này được ra đời. Cụ thể, A.V.Superanskaia trong cuốn “Địa danh là gì” (1985) và E.M.Murzaev với “Những khuynh hướng nghiên cứu địa danh học” (1964) đã cùng quan tâm đến vấn đề khuynh hướng nghiên cứu chung. Cùng góp phần cho sự sáng tỏ về lý thuyết, A.I.Popov (1964) đưa ra những nguyên tắc cơ bản của công tác nghiên cứu địa danh, trong đó chú trọng hai nguyên tắc chình là phải dựa vào tư liệu lịch sử của các ngành ngôn ngữ học, địa lý học, lịch sử học…và phải thận trọng khi sử dụng phương pháp thành tố để phân tìch ngữ vĩ của địa danh. Ngoài các tác giả trên, Iu.A.Kapenco (1964) với những suy nghĩ bàn về địa danh học đồng đại và N.V.Podonxkaja trong phân tìch, lì giải địa danh mang những thông tin gí cũng đã góp thêm những ý kiến cho sự nghiên cứu địa danh đi sâu vào bản chất bên trong của đối tượng. Đặc biệt, A.V.Superanskja (1985) với “Địa danh là gì” đã đặt ra những vấn đề vừa mang tình cụ thể, vừa mang tình khái quát, tổng hợp cao. Trong nội dung trính bày, tác giả đi sâu vào những vấn đề có liên quan thiết thực đến việc nhận diện và phân tìch địa danh. Ngoài cách hiểu về khái niệm địa danh, tác 7 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn giả còn quan tâm đến các vấn đề khác như tình liên tục của tên gọi, không gian tên riêng và các loại địa danh (địa danh kì hiệu, địa danh mô tả, địa danh đăng kì, địa danh ước vọng) cũng như tên gọi các đối tượng địa lý theo loại hính…Có thể nói đây là công trính có giá trị tổng kết những kết quả nghiên cứu mới, làm cơ sở vững chắc cho sự nghiên cứu địa danh tiếp theo ở Liên bang Xô Viết trước đây. Ngoài các nhà địa danh Xô Viết, những người nghiên cứu địa danh ở các nước khác cũng đã góp phần cho sự phong phú, đa dạng về những vấn đề nghiên cứu trong lĩnh vực này. Chẳng hạn, Ch.Rostaing (1965) với “Les noms de lieux” đã chú trọng trong việc nêu ra hai nguyên tắc nghiên cứu địa danh là phải tím ra các hính thức cổ của các từ cấu tạo địa danh và muốn biết từ nguyên của địa danh thí phải dựa trên kiến thức ngữ âm học địa phương. Đây là một chuyên luận bổ sung thêm cho vấn đề mà A.I.Popov đã đưa ra trước đó. [3], [11], [20]. 2. Vấn đề nghiên cứu địa danh ở Việt Nam ở Việt Nam, vấn đề địa danh được quan tâm từ rất sớm. Các tài liệu Tiền Hán thư, Địa lí chí, Hậu Hán thư, Tấn thư trong thời Bắc thuộc có đề cập đến địa danh Việt Nam, trong đó mục đìch chình trị được đặc biệt chú ý. Các tài liệu này đều do người Hán viết, phục vụ trực tiếp cho cuộc xâm lược nước ta. Sau thời Bắc thuộc, đặc biệt từ thế kỷ XV trở đi, việc nghiên cứu địa danh mới được các nhà nghiên cứu Việt Nam thực hiện. Lúc này, địa danh được thu thập, tím hiểu về nguồn gốc và ý nghĩa. Có thể kể đến Dư địa chí của Nguyễn Trãi (1435), Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1821), Phương Đình dư địa chí cuả Nguyễn Văn Siêu (1900)… [3].[11]. Cũng theo xu hướng phát triển của ngôn ngữ học, đặc biệt là của địa danh học trên thế giới, vấn đề nghiên cứu địa danh Việt Nam có được bước 8 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn tiến đáng kể từ những năm 1960 trở đi. Hoàng Thị Châu với “Mối quan hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông” (1964) được xem như là người cắm cột mốc đầu tiên trong nghiên cứu địa danh dưới góc nhín ngôn ngữ học. Các công trínhnghiên cứu tiếp theo của bà cũng theo hướng này, nhưng nặng về mặt phương ngữ học. Lê Trung Hoa với “Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh” (1991) đã đưa những vấn đề lý thuyết làm cơ sở cho sự phân tìch và chỉ ra các đặc điểm về cấu tạo, nguồn gốc và ý nghĩa, về mặt phản ánh hiện thực và sự chuyển biến của địa danh một thành phố lớn ở miền Nam. Đến 1996 Nguyễn Kiên Trường với luận án PTS “Những đặc điểm chính về địa danh Hải Phòng” đã bổ sung thêm những vấn đề lì thuyết định danh mà Lê Trung Hoa đã dẫn ra trước đó. Đặc biệt, luận án đã khái quát được những đặc điểm cấu tạo, ý nghĩa, nguồn gốc và sự biến đổi của địa danh Hải Phòng trong vài nét đối sánh với địa danh các vùng khác của Việt Nam. Tiếp theo sau là luận án tiến sĩ của Từ Thu Mai “ Nghiên cứu địa danh Quảng Trị (2004), Phạm Xuân Đạm với “§ịa danh Nghệ An” (2005) .v.v. Những công trính này đều có những đóng góp đáng trân trọng khi tiếp cận vấn đề địa danh học dưới cách nhín ngôn ngữ học. Nhằm góp phần cho sự đa dạng của các khuynh hướng, các phương pháp nghiên cứu địa danh, Trần Trì Dõi đã có hàng loạt các bài viết về địa danh theo hướng so sánh lịch sử. Đó là các bài viết “Một vài địa danh, tên riêng gốc Nam Đảo trong vùng Hà Nội xưa” (2000) , “Về địa danh Cửa Lò” (2000), “Không gian ngôn ngữ và tính kế thừa đa chiều đa chiều của địa danh (qua phân tích một vài địa danh ở Việt Nam)” và “Vấn đề địa danh biên giới Tây Nam: Một vài nhận xét và những kiến nghị” (2001). Nếu như các tác giả trên đều nghiên cứu địa danh theo cách tiếp cận ngôn ngữ học thí Nguyễn Văn Âu với “Một số vấn đề về địa danh học 9 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Việt Nam” (2000) lại tiếp cận từ góc độ địa lý – lịch sử – văn hoá. [2], [3], [11], [20], [31]. Ngoài ra, còn một số công trính ra đời dưới dạng sách, từ điển, sổ tay, vì dụ như các công trính của Trần Thanh Tâm, Đinh Xuân Vịnh…Các công trính này đều nghiên cứu một cách công phu nhưng nặng về tập hợp tư liệu, tình lý thuyết chưa cao. Nhín chung các khuynh hướng nghiên cứu địa danh ở Việt Nam rất phong phú và đa dạng. Chình sự phong phú, đa dạng ấy đã giúp chúng ta nhín nhận địa danh ở những khìa cạnh khác nhau. Mặc dù vấn đề nghiên cứu địa danh trên thế giới đã có từ rất sớm nhưng việc nghiên cứu địa danh ở Việt Nam vẫn chưa tạo được chỗ đứng vững vàng của mính. Các công trính nghiên cứu ở nước ta mới đang ở bước đầu đi vào từng vùng cụ thể hoặc có cái nhín bao quát về địa danh dưới góc độ văn hoá - lịch sử. Các công trính nghiên cứu về địa danh theo góc độ ngôn ngữ còn có ìt công trính đầu tư đi sâu. 3. Vấn đề nghiên cứu địa danh ở Bắc Kạn Địa danh Bắc Kạn là đối tượng hết sức mới mẻ, chưa có công trính nào đi sâu nghiên cứu. Hiện chỉ có một số bài báo nhỏ giải thìch về tên gọi Bắc Kạn, cụ thể: Lương Bèn (1997) với “Chính tả một địa danh: Viết Bắc Kạn hay Bắc Cạn?”, Cao Thâm (1997) với “Viết Bắc Kạn hay Bắc Cạn”. Tóm lại, mặc dù vấn đề nghiên cứu địa danh trên thế giới đã có từ rất sớm nhưng việc nghiên cứu địa danh ở Việt Nam vẫn chưa tạo được chỗ đứng vững vàng của mính. Các công trính nghiên cứu ở nước ta mới đang ở bước đầu đi vào từng vùng cụ thể hoặc có cái nhín bao quát về địa danh dưới góc độ văn hoá - lịch sử. Các công trính nghiên cứu về địa danh theo góc độ ngôn ngữ còn có ìt công trính đầu tư đi sâu. IV. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 10 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Trước chúng tôi đã có một số công trính, luận án tím hiểu địa danh Hải Phòng, Nghệ An, Quảng Trị, Thành phố Hồ chì Minh và các vùng khác. Với địa danh Bắc Kạn, từ trước tới nay hầu như chưa được khảo sát và nghiên cứu. Đây là đề tài đầu tiên đi sâu tím hiểu vấn đề cả về phương diện lý thuyết lẫn thực tế về địa danh hành chình tỉnh Bắc Kạn. Luận văn tím hiểu các địa danh hành chình tỉnh Bắc Kạn về các mặt cấu tạo, ý nghĩa, nguồn gốc quá trính biến đổi. Luận văn cũng chỉ ra một vài đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của địa danh trong mối quan hệ với địa lý, lịch sử, dân cư và ngôn ngữ. Đây cũng có thể là tư liệu quý cho ngành địa phương học, cho ngành nghiên cứu lịch sử, văn hoá Bắc Kạn. V. Phương pháp và tư liệu nghiên cứu * Phương pháp Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, công việc đầu tiên là phải thu thập tư liệu, bổ sung và chỉnh lý các thông tin, thông số của địa danh. Mặt khác phải tra cứu các tài liệu về lịch sử, địa lý, truyền thống văn hoá của tỉnh Bắc Kạn. Chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp thống kê, phân loại: Đây là phương pháp giúp chúng tôi tập hợp và phân loại các địa danh hành chình tỉnh Bắc Kạn trên cơ sở thu thập địa danh qua các nguồn khác nhau. - Phương pháp miêu tả được sử dụng để phản ánh những đặc điểm cấu tạo và đặc trưng ngữ nghĩa của các yếu tố tên riêng trong phức thể địa danh. - Phương pháp phân tìch lịch sử: Dựa vào các cứ liệu ngôn ngữ, đặc điểm tâm lý của con người và quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, nghiên cứu một số địa danh để tím hiểu xuất xứ, nguồn gốc một số địa danh nổi tiếng của tỉnh Bắc Kạn. * Tư liệu nghiên cứu 11 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Với mục đìch phản ánh đầy đủ, trung thực hệ thống địa danh hành chình tỉnh Bắc Kạn, chúng tôi đã tiến hành tập hợp các tư liệu cần thiết từ những nguồn sau: - Dựa vào niên giám thống kê của tỉnh. - Dựa vào một số công trính nghiên cứu về văn hoá, lịch sử, tôn giáo, kinh tế của địa phương. - Dựa vào những tư liệu lưu giữ ở chình quyền địa phương. Đây là tư liệu quan trọng nhất, có tình pháp lì để đảm bảo tình minh xác của những điều trính bày trong luận văn. - Điền dã để thu thập tư liệu, ghi chép, bổ sung, chỉnh lý các thông số, thông tin của từng địa danh. VI. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chương I: Những cơ sở lý thuyết liên quan đến địa danh và địa danh học. Chương này sẽ trính bày những vấn đề lý thuyết làm cơ sở cho việc triển khai các chương mục tiếp theo. Ngoài ra, vấn đề tư liệu về địa lý, lịch sử, văn hoá, dân cư, ngôn ngữ trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn được trính bày làm cơ sở cho các phần nội dung luận văn. Chương II: Đặc điểm cấu tạo của địa danh hành chính tỉnh Bắc Kạn. Chương này sẽ trính bày cách xác định thành tố chung và tên riêng trong phức thể địa danh. Nội dung của chương sẽ đi sâu tím hiểu những đặc điểm về cấu tạo địa danh hành chình tỉnh Bắc Kạn. Chương III: Đặc điểm về ý nghĩa của địa danh hành chính tỉnh Bắc Kạn. 12 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ở chương này, chúng tôi sẽ đi sâu tím hiểu đặc điểm về ý nghĩa của các yếu tố cấu tạo nên địa danh. Qua đó giải thìch lý do đặt tên cho các đối tượng địa lý được phản ánh trong địa danh hành chình tỉnh Bắc Kạn qua hệ thống các trường nghĩa và bộ phận của các yếu tố cấu tạo. Chương 1 Những cơ sở lý thuyết liên quan đến địa danh và địa danh học 1.1. Khái niệm về địa danh 1.1.1. Định nghĩa về Địa danh Cuộc sống của con người gắn với những điểm địa lý khác nhau. Những điểm địa lý này được gọi bằng những từ ngữ riêng. Đó là những tên gọi địa lý (địa danh). Những tên gọi này tạo nên một hệ thống riêng và tồn tại trong vốn từ của các ngôn ngữ khác nhau trên thế giới. Những tên gọi địa lý, địa danh ấy được thể hiện bằng thuật ngữ toponima hay toponoma (có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạpc) với ý nghĩa “ tên gọi điểm địa lý”. Cần phải hiểu đúng khái niệm địa danh theo phạm vi xuất hiện của nó. Nếu hiểu theo lối chiết tự thí “địa danh” là tên đất. Thế nhưng, khái niệm này cần phải hiểu rộng hơn ví đây chình là đối tượng nghiên cứu của một ngành khoa học. Cụ thể địa danh không chỉ là tên gọi của các đối tượng địa lý gắn với từng vùng đất cụ thể mà là tên gọi của các đối tượng địa lý tồn tại trên trái đất. Nó có thể là tên gọi của các đối tượng địa hính thiên nhiên, đối tượng địa lý cư trú hay là công trính do con người xây dựng, tạo lập nên. Địa danh là lớp từ ngữ nằm trong vốn từ vựng của một ngôn ngữ, được dùng để đặt tên, gọi tên các đối tượng địa lý.Ví thế, nó hoạt động và chịu sự tác động, chi phối của các qui luật ngôn ngữ nói chung về mặt ngữ âm, từ vựng – ngữ nghĩa và ngữ pháp. 13 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Hiện nay đã có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra những định nghĩa khác nhau về địa danh. Nhà ngôn ngữ học Nga A.V.Superanskiaja trong cuốn “Địa danh là gì” đã cho rằng địa danh (địa danh các tên gọi địa lý) là những từ ngữ biểu thị tên gọi các địa điểm mục tiêu địa lý (các đặc điểm, mục tiêu địa lý là các vật thể tự nhiên hay nhân tạo được định vị xác định trên bề mặt trái đất). ởëViệt Nam, các nhà nghiên cứu địa danh học đã chia thành hai nhóm nghiên cứu là nghiên cứu địa danh học theo góc độ địa lý - văn hoá và nghiên cứu địa danh theo góc độ ngôn ngữ học. Đại diện cho nhóm thứ nhất, Nguyễn Văn Âu cho rằng: “ Địa danh là tên đất, gồm tên sông, núi, làng mạc…hay là tên các địa phương, các dân tộc”. [3, tr.15]. Đại diện cho nhóm thứ hai là Lê Trung Hoa, Nguyễn Kiên Trường, Từ Thu Mai, Phạm Xuân Đạm Lê Trung Hoa cho rằng “Địa danh là những từ hoặc ngữ cố định được dùng làm tên riêng của địa hình thiên nhiên, các công trình xây dựng, các đơn vị hành chính, các vùng lãnh thổ”.[31, tr.15]. Nguyễn Kiên Trường quan niệm N: “Địa danh là tên riêng của các đối tượng địa lý tự nhiên và nhân văn có vị trí xác định trên bề mặt trái đất”.[31, tr.16]. Từ Thu Mai đưa ra cách hiểu: “Địa danh là những từ ngữ chỉ tên riêng của các đối tượng địa lý có vị trí xác định trên bề mặt trái đất”. [20, tr. 21]. Phạm Xuân Đạm cho rằngP: “Địa danh là lớp từ ngữ đặc biệt được định ra để đánh dấu vị trí, xác lập tên gọi các đối tượng địa lý tự nhiên và nhân văn”. [11, tr.12]. Như vậy, Nguyễn Văn Âu với mong muốn đi tím một khái niệm với nguyên nghĩa của từ toponomie, ông quan niệm địa danh chình là “tên gọi các địa phương hay tên gọi địa lý”, theo đó “địa danh học là một môn khoa 14 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn học chuyên nghiên cứu về tên địa lý của các địa phương. Quan niệm này khá đơn giản, dễ hiểu, trùng với cách hiểu thông thường của nhân dân, của từ điển ngữ văn giải thìch, chẳng hạn trong Từ điển Hán Việt, Đào Duy Anh giải thìch “Địa danh là tên gọi các miền đất”, Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên giải thìch địa danh là “tên đất, tên làng”. Nguyễn Văn Âu cố gắng thoát ra khỏi quan niệm cho rằng địa danh học “chuyên nghiên cứu về tên riêng”, ông “chú ý tới các từ chung”. Lê Trung Hoa là một trong những người có ý thức trính bày các vấn đề địa danh đặt trong khung cảnh ngôn ngữ học, hướng đến tình lý thuyết, tình hệ thống sớm hơn cả so với nhiều tác giả khác. Lê Trung Hoa cho rằng: “Địa danh là những từ hoặc ngữ cố định được dùng làm tên riêng của địa hình thiên nhiên, các công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều, các đơn vị hành chính, các vùng lãnh thổ”. [13, tr.77 ]. Định nghĩa này thiên về việc chỉ ra ngoại diên của khái niệm, đồng thời chỉ ra cách phân loại các địa danh. Do đó, khó có thể khuôn được hiện thực các kiểu loại địa danh vốn đa dạng trong thực tế vào trong định nghĩa phân loại này. Nguyễn Kiên Trường là người đầu tiên đưa ra định nghĩa nêu giới hạn ngoại diên của địa danh chỉ thuộc về những gí ở trên trái đất một cách hiển ngôn. Dựa trên tiêu trì mà Lê Trung Hoa đưa ra, Nguyễn Kiên Trường chia địa danh thành từng loại nhỏ. Bên cạnh đó, ông còn tiến hành phân loại theo nguyên ngữ, theo chức năng của địa danh. Từ Thu Mai cho rằng, khi xác định khái niệm địa danh cần chú ý đến những vấn đề trong nội tại bản thân khái niệm. Định nghĩa của Từ Thu Mai có điểm xuất phát từ cách hiểu địa danh của A. V. Superanskaja. Theo chúng tôiT, mặc dù nằm trong hệ thống những loại hính khác nhau nhưng các đối tượng địa lý bao giờ cũng xuất hiện trong thực tế với những cá thể độc lập. Đầu tiên, người ta thường sử dụng các tên chung để 15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn định danh, tạo tên riêng cho đối tượng. Tên riêng của các đối tượng này xuất hiện muộn hơn các tên chung chỉ loại. Do vậy, có thể nói rằng địa danh là những kì hiệu ngôn ngữ đặc biệt được tạo thành từ một hệ thống kì hiệu đã có thể định danh cho một đối tượng cụ thể, được xác định. Nó chình là đơn vị định danh bậc hai trên cơ sở vốn từ chung. Ví vậy, khi xác định khái niệm địa danh cần phải chú ý đến những vấn đề nội tại trong bản thân địa danh. Trước hết, mỗi địa danh đều phải có tình lý do, phải giải thìch được nguyên nhân đặt tên đối tượng. Chức năng gọi tên và cá thể hoá, khu biệt đối tượng là tiêu chì thứ hai. Tiêu chì thứ ba là các đối tượng được gọi tên phải là các đối tượng địa lý tồn tại trên bề mặt trái đất và ngoài trái đất. Các đối tượng này có thể là đối tượng địa lý tự nhiên hay không tự nhiên. Phạm Xuân Đạm có quan niệm khá độc đáo, khác với những người đi trước. Cách hiểu của ông về địa danh rất hợp lý, tiến bộ theo hướng chức năng của địa danh, tránh được lối nghĩ ngoại diên của khái niệm. Về cách phân loại địa danh, cũng như Từ Thu Mai, tác giả kế thừa cách phân loại của Lê Trung Hoa. Nhín chung, trong các định nghĩa và phân loại địa danh, các tác giả đều thừa nhận rằng, các đối tượng được định danh rồi nhóm lại dưới cái tên gọi “địa danh” chỉ là những đối tượng thuộc về trái đất. Như vậy, các đối tượng ngoài trái đất như Trạm vũ trụ Hoà Bính, sao Hoả…sẽ không được coi là địa danh. Điều này khác với quan điểm của nhiều nhà khoa học nước ngoài. Từ những vấn đề trên, chúng tôi tán thành quan điểm của Phạm Xuân Đạm khi ông cho rằng: “Địa danh là lớp từ ngữ đặc biệt, được định ra để đánh dấu vị trí, xác lập tên gọi các đối tượng địa lý tự nhiên và nhân văn”. [11. tr.12]. Luận văn này sẽ nghiên cứu những từ ngữ chỉ tên riêng của các đối tượng địa lý thuộc địa danh hành chình trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn. 16 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1.1.2. Địa danh hành chính Địa danh hành chình là địa danh do chình quyền hoặc người dân đặt tên, nhằm phục vụ cho mục đìch quản lý của nhà nước. Các đơn vị hành chình trong tỉnh bao gồm: 1. Tỉnh Là đơn vị hành chình trực thuộc trung ương, gồm nhiều huyện, thị xã và thị trấn. 2. Thành phố Là đơn vị hành chình trực thuộc tỉnh. Đây là nơi tập trung đông dân cư, thường có công nghiệp và thương nghiệp phát triển. 3. Huyện, thị xã Là đơn vị hành chình trực thuộc tỉnh, gồm nhiều xã, phường. Dân cư, công nghiệp, thương nghiệp không phát triển bằng thành phố. 4. Thị trấn Là trung tâm hành chình của huyện nhưng hoạt động kinh tế khác với huyện, có khi trùng tên với huyện. 5. Xã, phường Là đơn vị hành chình cơ sở ở nông thôn trực thuộc huyện, gồm nhiều thôn, bản, tổ phố. Có thể nói rằng, địa danh hành chính là các tên riêng của các đơn vị hành chính có biên giới rõ ràng, có thể xác định được diện tích và nhân khẩu; đồng thời ra đời bằng các văn bản quyết định của chính quyền trung ương và địa phương. Các thôn, bản, tổ phố hiện nay cũng được quản lý chặt chẽ, đứng đầu là tổ trưởng, trưởng thôn, trưởng bản, có diện tìch và nhân khẩu rõ ràng hơn nữa lại trực thuộc xã phường, cho nên chúng tôi cũng tạm xếp vào địa danh hành chình. 17 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1. 2. Phân loại địa danH Hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới, các nhà ngôn ngữ học có những cách phân loại khác nhau về địa danh. Chẳng hạn, G.P. Smolichnaja và M.V. Gorbanevskij cho rằng địa danh có 4 loại: Phương danh (tên các địa phương), sơn danh (tên núi gò đồi…), thuỷ danh (tên các dòng chảy, ao ngòi sông, vũng), phố danh: (tên các đối tượng trong thành phố). Còn nhà khoa học Nga A.V. Superanxkaia lại chia làm 7 loại: Phương danh, thuỷ danh, sơn danh, phố danh, viên danh, lộ danh, đạo danh (tên các đường giao thông trên đất, dưới đất, trên nước, trên không). ở Việt Nam, Nguyễn Văn Âu quan niệm: “Phân loại địa danh là sự phân chia địa danh thành các kiểu, nhóm khác nhau, dựa trên những đặc tính cơ bản về địa lý cũng như về ngôn ngữ và lịch sử. [3, tr. 37]. Và ông đã chia địa danh Việt Nam thành 2 loại: Địa danh tự nhiên và địa danh kinh tế – xã hội, 7 kiểu: Thuỷ danh, lâm danh, sơn danh, làng xã, huyện thị, tỉnh, thành phố, quốc gia và 12 dạng: Sông ngòi, hồ đầm, đồi núi, hải đảo, rừng rú, truông - trảng, làng - xã, huyện - quận, thị trấn, tỉnh, thành phố, quốc gia. Mỗi dạng lại có thể phân chia thành các dạng sông, ngòi, suối…Cách phân loại này của tác giả nghiêng về tình dân gian, dễ tiếp thu song hơi sa vào chi tiết, thiếu tình khái quát, đối tượng nghiên cứu và tên gọi đối tượng nghiên cứu chưa được làm rõ. Lê Trung Hoa phân loại địa danh dựa vào nguồn gốc địa danh. Cách phân loại của ông dựa vào hai tiêu chì tình tự nhiên và không tự nhiên. Đây là cách phân loại thường gặp và tương đối hợp lý, có tình bao quát. Ông phân loại địa danh: Địa danh chỉ loại hính, địa danh chỉ công trính xây dựng, địa danh hành chình, địa danh chỉ vùng. Nguyễn Kiên Trường phân loại dựa trên tiêu chì mà Lê Trung Hoa đưa ra nhưng tiếp tục chia nhỏ thành một bước nữa. Ông chia đối tượng tự 18 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan