Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kết cấu truyện ngắn sương nguyệt minh (lv02044)...

Tài liệu Kết cấu truyện ngắn sương nguyệt minh (lv02044)

.PDF
124
378
77

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 TRẦN THỊ HỒNG NHUNG KẾT CẤU TRUYỆN NGẮN SƢƠNG NGUYỆT MINH Chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số: 60 22 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. La Khắc Hòa HÀ NỘI, 2016 LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình tới PGS.TS. La Khắc Hòa, người Thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành Luận văn này. Tôi xin cảm ơn các Thầy, Cô giáo trong khoa Ngữ văn, tổ Lý luận văn học; Phòng Sau đại học; Thư viện trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã nhiệt tình giảng dạy, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian của khóa học. Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn gia đình, bạn bè thân thiết và đồng nghiệp đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 2016 Tác giả luận văn Trần Thị Hồng Nhung LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan những nội dung tôi trình bày trong Luận văn là kết quả quá trình nghiên cứu của riêng tôi. Trong quá trình nghiên cứu, tôi có kế thừa thành quả nghiên cứu của các nhà khoa học khác với sự trân trọng và biết ơn, nhưng những kết quả nêu trong Luận văn không trùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác và chưa được công bố trong công trình khoa học nào. Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 2016 Học viên Trần Thị Hồng Nhung MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................6 3. Mục đích nghiên cứu ...............................................................................................9 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................................................9 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................9 6. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................10 7. Đóng góp của luận văn ..........................................................................................10 8. Cấu trúc luận văn ..................................................................................................10 NỘI DUNG ..............................................................................................................11 Chƣơng 1. TRUYỆN NGẮN SƢƠNG NGUYỆT MINH TRONG BỐI CẢNH VĂN XUÔI VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ XX ĐẦU THẾ KỶ XXI ....................11 1.1. Vài nét về sự hình thành và phát triển truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975…11 1.1.1. Quan niệm truyện ngắn ..........................................................................11 1.1.2. Truyện ngắn Việt Nam thời kỳ đổi mới .................................................14 1.2. Truyện ngắn Sương Nguyệt Minh trong sự vận động và phát triển truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ....................................................................................................20 1.2.1. Truyện ngắn Sương Nguyệt Minh trên hành trình sáng tạo của nhà văn………………………………………………………………………………….20 1.2.2. Những đóng góp của truyện ngắn Sương Nguyệt Minh đối với văn xuôi Việt Nam sau 1975 ....................................................................................................25 Chƣơng 2. KẾT CẤU HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT TRUYỆN NGẮN SƢƠNG NGUYỆT MINH .....................................................................................................29 2.1. Nhân vật .............................................................................................................29 2.1.1. Khái niệm nhân vật.................................................................................29 2.1.2. Quan niệm về nhân vật văn học thời kỳ đổi mới ...................................32 2.2. Kết cấu hình tượng nhân vật truyện ngắn Sương Nguyệt Minh ........................34 2.2.1. Hình tượng nhân vật người phụ nữ ........................................................35 2.2.2. Hình tượng nhân vật người lính .............................................................41 2.2.3. Hình tượng nhân vật cô đơn ...................................................................45 2.2.4. Hình tượng nhân vật dị biệt ....................................................................50 2.2.5. Hình tượng nhân vật giả huyền thoại, lịch sử ........................................56 Chƣơng 3. KẾT CẤU TRUYỆN KỂ VÀ KẾT CẤU TRẦN THUẬT TRUYỆN NGẮN SƢƠNG NGUYỆT MINH .........................................................................62 3.1. Kết cấu truyện kể ...............................................................................................62 3.1.1. Khái niệm truyện kể ...............................................................................62 3.1.2. Kết cấu truyện kể truyện ngắn Sương Nguyệt Minh..............................62 3.1.2.1. Cốt truyện ............................................................................................62 3.1.2.2. Tổ chức xung đột truyện ......................................................................68 3.2. Kết cấu trần thuật ...............................................................................................74 3.2.1. Khái niệm trần thuật ...............................................................................74 3.2.2. Kết cấu trần thuật truyện ngắn Sương Nguyệt Minh .............................77 3.2.2.1. Tổ chức điểm nhìn trần thuật ..............................................................77 3.2.2.2. Ngôn ngữ trần thuật ............................................................................90 3.2.2.3. Giọng điệu trần thuật ..........................................................................97 3.2.2.4. Các thủ pháp trần thuật.....................................................................103 KẾT LUẬN ............................................................................................................108 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................110 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Tác phẩm văn học là một sáng tạo độc đáo, là đứa con tinh thần của nhà văn và thời đại. Do đặc trưng là một chỉnh thể nghệ thuật độc đáo nên để xây dựng thành công một tác phẩm văn học tác giả phải suy nghĩ tổ chức, sắp xếp các yếu tố sao cho thành một chỉnh thể nghệ thuật. Nói cách khác, nhà văn phải tạo cho được kết cấu nghệ thuật trong tác phẩm. Một kết cấu có giá trị không những làm cho tác phẩm trở thành chỉnh thể mà còn tăng cường tính nghệ thuật cũng như sẽ góp làm cho sâu sắc hơn tư tưởng, tình cảm, nội dung được bộc lộ trong tác phẩm, để có thể làm nổi bật “tư tưởng thẩm mĩ” của tác phẩm một cách hiệu quả nhất. Hơn nữa,“tư tưởng sống động của nhà văn bao giờ cũng được thể hiện trong kết cấu và thông qua kết cấu” [4, tr.297] nên khi tìm hiểu về nghệ thuật xây dựng kết cấu tác phẩm, người nghiên cứu sẽ phần nào hiểu được quá trình tư duy cùng dụng ý nghệ thuật của nhà văn được gửi gắm trong những chân lí nghệ thuật mang tính phổ quát ở từng tác phẩm. Kết cấu không đơn giản là sự tương quan bên ngoài của các bộ phận mà quan trọng là sự liên kết bên trong, là “nghệ thuật kiến trúc nội dung” [11, tr.156] ở từng tác phẩm cụ thể. Đó là phương diện góp phần quan trọng làm nên tính nghệ thuật, thể hiện chiều sâu tư tưởng của tác phẩm văn chương, đồng thời in dấu sáng tạo của người nghệ sĩ. Vì thế, kết cấu là “một phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật”, một nhiệm vụ nghệ thuật khó khăn, là thước đo năng lực tổ chức, xây dựng tác phẩm của nhà văn, đảm nhiệm những chức năng nghệ thuật rất đa dạng. Trong cuốn Thơ ca Nga hiện đại, R.Jakobson đã nhấn mạnh rằng“muốn làm việc trong lĩnh vực ngôn ngữ nghệ thuật, phải nắm vững kết cấu” [2, tr.149]. Với loại hình văn học tự sự, “yêu cầu tìm tòi, sáng tạo kết cấu lại càng trở lên quan trọng” [2, tr.100] giống như “một thứ kĩ thuật tinh sảo: kĩ thuật viết truyện ngắn” [20, tr.333]. 1.2. Kết cấu là một trong những thành tố quan trọng cấu thành nên tác phẩm văn học. Tuy chúng ta có thể nắm bắt một số hình thức kết cấu nổi bật đã từng in 2 dấu trong nhiều tác phẩm có giá trị. Song khi khám phá kết cấu tác phẩm trong sáng tác của một nhà văn, nhà thơ điều cần thiết là bám sát tác phẩm để nhận diện cách tổ chức cụ thể, khôn khéo và sinh động của tác giả. Tùy theo quan điểm, góc độ nhìn nhận mà các nhà lí luận văn học có nhiều cách hiểu và cách định nghĩa khác nhau về kết cấu. Ở phương Đông, ngay từ thời cổ đại người ta đã nhận thức được vai trò của kết cấu trong tác phẩm nghệ thuật. Các nhà lý luận văn học Trung Quốc xưa gọi kết cấu bằng các thuật ngữ như bố cục, phân bố, chương pháp, bố trí…Còn ở phương Tây, thuật ngữ này đã được bàn đến trong các công trình nghiên cứu của Platon, Aristote. Theo Platon thì “Kết cấu của mỗi bài văn phải là một yếu tố có sức sống, có cái thân thể vốn có của nó, có đầu, có đuôi, có phần thân, có tứ chi, có bộ phận này và bộ phận khác, có quan hệ bộ phận và toàn thể, tất cả đều phải có vị trí của nó”. Aristote thì nói “Cái hoàn chỉnh là cái có phần đầu, phần giữa và phần cuối. Phần đầu là cái không nối tiếp theo cái khác, trái lại, theo quy luật tự nhiên, phải có cái gì tồn tại hoặc tiếp theo sau nó; phần cuối là cái theo tính tất yếu hay theo lẽ thường đều phải theo sau cái gì đó và sau nó không còn cái khác phải tiếp theo; phần giữa là cái phải tiếp theo sau cái khác và cái khác nữa lại đi sau nó. Vậy, giữa cốt truyện được xây dựng một cách khéo léo phải tuân theo những định nghĩa đó chứ không được tùy tiện bắt đầu và kết thúc chỗ nào cũng được”. Ở Việt Nam, khoảng cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, Nhữ Bá Nha đã rất quan tâm đến kết cấu. Ông cho rằng “Loại văn chương tột bậc của thiên hạ đúng là không ở trong cái giới hạn đóng mở, kết cấu thì cũng không thành văn chương…có cấu thì có kết, có gợi thì có thưa, đó là một phép tắc đương nhiên của nhà văn”. Đến văn học hiện đại thì theo quan điểm của các nhà nghiên cứu Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học thì “Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm, kết cấu thể hiện nội dung rộng rãi phức tạp hơn. Tổ chức tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm. Kết 3 cấu là phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật; kết cấu phải đảm nhiệm chức năng đa dạng bộc lộ tốt chủ đề tư tưởng của tác phẩm; triển khai trình bày hấp dẫn cốt truyện, tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả tạo nên tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mỹ” [8, tr.99]. Theo cuốn 150 Thuật ngữ văn học của Lại Nguyên Ân thì nội hàm của khái niệm kết cấu chính là“Sự sắp xếp phân bố các thành phần hình thức nghệ thuật, tức là sự cấu tạo tác phẩm tùy theo nội dung và thể tài. Kết cấu gắn kết các yếu tố của hình thức và phối thuộc chúng với tư tưởng. Các qui luật của kết cấu là kết quả của nhận thức thẩm mĩ, phản ánh những liên hệ bề sâu của thực tại. Kết cấu có tính nội dung độc lập, các phương thức và thủ pháp kết cấu sẽ cải biến và đào sâu hàm nghĩa của cái được mô tả.” [1, tr.167]. Nội hàm ấy đã qui định ngoại diện của khái niệm kết cấu “Kết cấu của tác phẩm bao gồm việc phân bố các nhân vật (tức là hệ thống các hình tượng), các sự kiện và hành động (kết cấu cốt truyện), các phương thức trần thuật (kết cấu trần thuật như là sự thay đổi các điểm nhìn đối với cái được miêu tả), chi tiết hóa các khung cảnh, hành vi, cảm xúc (kết cấu chi tiết), các thủ pháp văn phong (kết cấu ngôn từ), các truyện kể xen kẽ hoặc các đoạn trữ tình ngoại đề (kết cấu các yếu tố ngoài cốt truyện)” [1, tr.168]. “Phạm vi của kết cấu còn bao gồm cả sự tương ứng giữa các bình diện khác nhau (các khía cạnh, các tầng nấc, các cấp độ) của hình thức văn học mà nhờ đó tạo ra được hệ thống các một đặc trưng cho từng tác phẩm, từng nhà văn, từng thể tài, từng khuynh hướng văn học” [1, tr.168]. Theo quan điểm của các tác giả Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hòa, Thành Thế Thái Bình trong cuốn giáo trình Lý luận văn học thì “Kết cấu tác phẩm là toàn bộ tổ chức tác phẩm, phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu tác phẩm không bao giờ tách rời nội dung cuộc sống và nội dung tư tưởng trong tác phẩm” [15, tr.295]. Nếu cốt truyện là "hình thức tổ chức sơ đẳng nhất của truyện" thì kết cấu là "toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động của tác phẩm" tạo ra hiệu quả tư tưởng thẩm 4 mĩ. Nghĩa là kết cấu là sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục của tác phẩm, là sự tổ chức sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo thành nội dung của tác phẩm trên cơ sở đời sống khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng nhất định. Trong bài Tính nghệ thuật, một đối tượng nghiên cứu và một cách tiếp cận riêng, số tháng 3 và 4 năm 2000, tác giả Nắng Mai đã có một quan niệm cụ thể hơn về kết cấu:“Kết cấu là việc sắp xếp, lắp ráp chẳng những kiến trúc trong chiều sâu, mà còn bố cục, bài trí ở bên ngoài, nhằm tổng hợp những tương quan giữa các yếu tố của tác phẩm gắn kết lại mọi mảnh vụn rời rạc trong số đó sao cho thành chỉnh thể toàn vẹn. Kết cấu là yếu tố không thể hiện trực tiếp trên câu chữ, mà nó thành chất liên kết toàn bộ các chi tiết rời rạc thành dòng thống nhất. Trong tác phẩm, kết cấu có vai trò của người đạo diễn thay mặt tác giả tạo nên hệ thống các hình tượng như là kết quả của sự thống nhất hoàn thiện các yếu tố hình thức nghệ thuật”. Có thể nói, bất cứ tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định. Kết cấu là phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật. Kết cấu đảm nhiệm các chức năng như bộc lộ tốt chủ đề và tư tưởng tác phẩm; triển khai, trình bày hấp dẫn cốt truyện; cấu trúc hợp lí hệ thống tính cách; tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mĩ. Do đó, kết cấu chính là mảnh đất thử thách tài năng, là khoảng trời tự do để người nghệ sĩ sáng tạo và người cầm bút có thể lựa chọn cho mình cách diễn đạt riêng để hình thức ấy hàm chứa nội dung, trở thành tín hiệu nghệ thuật. 1.3. “Nhiệm vụ của nhà văn là nhào nặn vốn sống để xây dựng thành những sinh mệnh nghệ thuật - tái hiện những bức tranh đời sống giàu tính khái quát, nghĩa là phải tổ chức lại chất liệu sống, bỏ bớt đi những cái thừa, phát triển thêm cái chưa có, nối liền cái xa nhau, tạo thành một chỉnh thể mang giá trị nghệ thuật” [11, tr.295]. Vì vậy, trước khi bắt đầu sáng tác, bao giờ nhà văn cũng quan tâm đến việc làm thế nào để tác phẩm trở nên hấp dẫn, ấn tượng với người đọc, đồng thời còn phải chuyển tải được tối đa ý đồ nghệ thuật của mình. Làm được điều đó, bên cạnh việc chọn đề tài, thể loại, nhân vật ...việc lựa chọn một hình thức kết cấu cho tác phẩm như là một thao tác tất yếu bởi kết cấu tác phẩm là“toàn bộ tổ chức tác phẩm 5 phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình”, nó không bao giờ tách rời nội dung cuộc sống và tư tưởng trong tác phẩm. Ở mỗi thời kì, mỗi thể loại, mỗi cá nhân nhà văn, cách thức tổ chức tác phẩm có những đặc thù khác nhau. Vì vậy ở mỗi nhà văn, chúng ta có thể tìm thấy những nét tiêu biểu trong phong cách bằng những hình thức nghệ thuật trong đó có nghệ thuật kết cấu tác phẩm. Do đó, người nghệ sĩ muốn tạo dựng được những tác phẩm hay thì phải tạo dựng được những kết cấu độc đáo. Qua kết cấu có thể đánh giá nhà văn có phong cách hay không có phong cách. Sương Nguyệt Minh là người sinh ra và lớn lên tại Yên Mỹ, Yên Mô, Ninh Bình, hiện tại đang công tác tại Ban Sáng tác - Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Cho đến nay, bằng sự đam mê và lao động nghệ thuật nghiêm túc, nhà văn đã cho ra đời sáu tập truyện ngắn, rất nhiều bài báo, bút ký, tùy bút, tản văn và mới đây nhất là tiểu thuyết Miền hoang…. Với những sáng tác của mình, ông liên tục đạt giải thưởng cao: giải thưởng cuộc thi truyện ngắn Văn nghệ Quân đội 1996 với tác phẩm Bản kháng án bằng văn; giải thưởng truyện ngắn cuộc thi Cây bút vàng của tạp chí Văn hóa – Văn nghệ Công an (1998 -2001) với tác phẩm Lửa cháy trong rừng hoang; giải Nhì viết truyện ngắn Nhà xuất bản Giáo dục 2004 với tác phẩm Những bước đi vào đời; giải thưởng cuộc thi bút ký báo Giáo dục thời đại 2004 với tác phẩm Nhọc nhằn gieo chữ vùng cao; giải thưởng cuộc thi tập truyện ngắn của Nhà xuất bản Thanh niên 2004 với tập truyện ngắn Đi qua đồng chiều; Giải thưởng cuộc thi bút ký Đài tiếng nói Việt Nam 2002 -2003 với tác phẩm Đêm Pà Cò; giải thưởng cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ 2003-2004 với tác phẩm Mười ba bến nước; giải thưởng Văn học nghệ thuật Bộ Quốc phòng 5 năm 1999 – 2004 với tập bút kýTrong cơn đại hồng thủy. Và đến năm 2010, Sương Nguyệt Minh được nhận Giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam với tập truyện ngắn Dị hương. Bằng ngòi bút đầy tâm huyết, một trái tim chan chứa yêu thương cùng với những trải nghiệm cuộc đời con thuyền văn chương của Sương Nguyệt Minh luôn chở đạo làm người, nhân cách con người, giá trị nhân văn sâu sắc. Điều đó đã làm nên những trang văn làm rung động tâm hồn độc giả. Đọc văn Sương Nguyệt Minh, 6 người đọc như bước vào một thế giới nghệ thuật đa chiều, giản dị nhưng không ngừng đổi mới. Với tất cả những lí do trên, cùng với niềm yêu thích đặc biệt trong những trang văn của Sương Nguyệt Minh, chúng tôi đã chọn đề tài Kết cấu truyện ngắn Sương Nguyệt Minh. Với đề tài này chúng tôi mong muốn đem đến cho người đọc cái nhìn hệ thống hơn về các kiểu mô hình kết cấu tiêu biểu trong truyện ngắn Sương Nguyệt Minh, từ đó lí giải một cách đầy đủ hơn về tư tưởng, tài năng phong cách nhà văn. 2. Lịch sử vấn đề Vào những năm cuối của thế kỷ XX, song song với quá trình hiện đại hóa văn học, truyện ngắn xuất hiện thực sự có bước chuyển biến mạnh mẽ, đã góp phần tạo nên diện mạo của văn học dân tộc. Nhắc đến những cây bút truyện ngắn không thể không có Sương Nguyệt Minh. Dù Sương Nguyệt Minh xuất hiện trên văn đàn với khoảng thời gian sáng tác chưa thật dài song đến nay đã có rất nhiều bài báo, tạp chí tập trung đánh giá về truyện ngắn của ông. Điều đó chứng tỏ những sáng tác của Sương Nguyệt Minh đã được giới độc giả quan tâm, tìm hiểu. Nhận xét về cách viết văn của Sương Nguyệt Minh, nhà văn Phong Điệp trên tờ Văn nghệ trẻ (2002) đã khẳng định:“Truyện của anh viết kỹ đến từng câu, từng chi tiết. Đặc biệt anh rất dụng công trong việc dựng cốt truyện…Anh viết giống như chuẩn bị bước vào một trận đánh. Lực lượng được chuẩn bị sẵn sàng. Lúc nào cần tung ra, lúc nào đánh chiến thuật…nhịp nhàng, bài bản không tạo cảm giác cứng nhắc. Người đọc hoàn toàn bị người viết dẫn dụ, vừa hồi hộp vừa thích thú” [42, tr.34]. Nhìn nhận khái quát về quá trình sáng tác của Sương Nguyệt Minh, các nhà phê bình đều nhận ra những bước chuyển đáng mừng trong văn phong của nhà văn quân đội này. Truyện ngắn đầu tay Nỗi đau dòng họ của Sương Nguyệt Minh ngay khi mới ra đời đã gây ấn tượng mạnh trong dư luận. Nhà văn Hồ Phương đánh giá: “có mùi có vị, rõ ra tư chất nhà văn” và “Truyện đầu tay, nhưng cảm thấy đã rõ hình hài cốt cách một người viết chuyên nghiệp”. Các tập truyện ngắn tiếp theo Người ở bến sông Châu, Đi qua đồng chiều, Đêm làng Trọng Nhân Sương Nguyệt Minh được đánh giá là:“mang đến cho người đọc một khuôn mặt văn chương theo 7 lối truyền thống, nhuần nhụy từ giọng văn cho tới tên của các nhân vật trong tác phẩm” (Thu Phố, Tạp chí tuyên giáo, 10/2009). Nhà văn - nhà phê bình Văn Chinh trong bài viết Tôi muốn có cái lục lạc ấy bằng đất nung (WWW.vanchinh.net ngày 18/12/2008) đã nhận xét:“Một trong những yếu tố đảm bảo sự thành công của Sương Nguyệt Minh là tích tụ các chi tiết và tình huống khác lạ”. Đến các tập truyện Mười ba bến nước, Chợ tình và đặc biệt chín truyện ngắn trong tập Dị hương Sương Nguyệt Minh đã tạo được “bước ngoặt lớn” với những tìm tòi, bứt phá mới khi anh thoát khỏi cách viết với đề tài quen thuộc. Trong các tập truyện thời kỳ này sáng tác của Sương Nguyệt Minh đã đi từ hiện thực - lãng mạn đến hiện thực - lãng mạn - kỳ ảo. Nhà văn Di Li trên tờ An ninh thủ đô (Số ngày 18/10/2009) cho rằng: “Trước nay, cái tên Sương Nguyệt Minh thường gắn liền với những câu chuyện viết về đề tài chiến tranh và nông thôn bằng ngòi bút dù dữ dội vẫn lung linh, trữ tình, nên việc ra đời những truyện ngắn ma mị và nhiều tính dục với bút pháp huyền ảo và giả tưởng trong tập Dị hương khiến nhiều người đọc lạ lẫm, bất ngờ” . Có thể nói, người đọc đọc văn của Sương Nguyệt Minh đều nhận ra ông là một nhà văn không ngừng sáng tạo, văn của ông như dòng sông chảy liên tục chở nặng phù sa tươi tốt bồi đắp cho bờ bãi, ruộng đồng. Nói như nhà lý luận phê bình Phạm Xuân Nguyên nhân buổi tọa đàm ra mắt tập truyện ngắn Dị hương ở Sương Nguyệt Minh đã“có những đổi mới về tư duy, dám bước vào phong cách mới”; “Nhà văn không nhất thiết phải viết hay hơn người khác, nhưng đến một lúc nào đó, nhà văn phải viết khác mình. Nhà văn Sương Nguyệt Minh đã làm được điều này” [61]. Còn nhà văn Khuất Quang Thụy trong lời tựa cho tập truyện ngắn Mười ba bến nước thì phát hiện ra “những cái không thông thường” trong cách viết của Sương Nguyệt Minh, ngay ở những “bến nước” đầu tiên trên con đường sáng tạo văn học nghệ thuật, từ việc phá vỡ bút pháp truyền thống của thể loại, đến việc phá vỡ môtip chủ đề và tạo ra sự đa thanh trong tác phẩm. Tất cả những cái“không thông thường” ấy thể hiện sự tìm tòi không mệt mỏi của tác giả Sương Nguyệt Minh trong quá trình sáng tác. Chính nhờ sự tìm tòi ấy mà các tác phẩm của anh 8 luôn không ngừng đổi mới, mang lại nhiều phong vị khác nhau trong từng giai đoạn sáng tác. Bên cạnh những bài báo, bài phê bình kể trên còn có các công trình nghiên cứu chuyên sâu khi tìm hiểu về truyện ngắn Sương Nguyệt Minh. Đó là luận văn của Thạc sĩ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội Trần Thị Phương Loan nghiên cứu Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Sương Nguyêt Minh. Luận văn đã tập trung vào các phương diện: cảm hứng nghệ thuật, thế giới nhân vật, và một số phương diện nghệ thuật đặc sắc trong truyện ngắn của Sương Nguyêt Minh. Luận văn của Giang Thị Hà với đề tài Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Sương Nguyệt Minh đã nghiên cứu về tình huống, kết cấu, nghệ thuật xây dựng nhân vật, yếu tố kì ảo, ngôn ngữ và giọng điệu các truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh. Luận văn của Thạc sĩ Lê Thị Thu Hà, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 nghiên cứu Đặc điểm thi pháp truyện ngắn Sương Nguyệt Minh bằng việc tiếp cận và khảo sát các truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh trên một số bình diện thi pháp cơ bản và có tính đặc trưng cho đối tượng như: thi pháp kết cấu - tổ chức cốt truyện; thi pháp nhân vật; thi pháp không gian và thời gian…Những công trình nghiên cứu trên đã đem đến cho người đọc về cái nhìn đầy đủ hơn về nghệ thuật viết truyện ngắn đương đại mà Sương Nguyệt Minh là một trường hợp tiêu biểu, khẳng định vị trí và đóng góp riêng của Sương Nguyệt Minh trong tiến trình đổi mới văn học nước nhà, … Đây là những nguồn tư liệu hữu ích để chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu vấn đề. Sương Nguyệt Minh xuất hiện trên văn đàn ở những năm 90 của thế kỉ XX. Dù không ồn ào, nhưng cho đến nay anh đã gặt hái được những thành công nhất định. Trên cơ sở kế thừa các bài báo, tài liệu nghiên cứu - phê bình văn học và các cuộc trao đổi, tranh luận được đăng tải trên sách báo, tạp chí, trên mạng internet về truyện ngắn Sương Nguyệt Minh. Chọn đề tài nghiên cứu Kết cấu truyện ngắn Sương Nguyệt Minh với cái nhìn khách quan, khoa học, hệ thống, đầy đủ luận văn nhằm góp phần làm sáng tỏ thêm những giá trị, những đóng góp riêng của nhà văn Sương Nguyệt Minh đối với nền văn chương Việt Nam đương đại. 9 3. Mục đích nghiên cứu Chọn đề tài Kết cấu truyện ngắn Sương Nguyệt Minh để nghiên cứu chúng tôi hướng tới các mục đích sau: - Giúp người đọc hiểu hơn về những đóng góp của nhà văn Sương Nguyệt Minh đối với thể loại truyện ngắn. - Tìm hiểu một cách hệ thống và đầy đủ những nét đặc sắc trong việc tổ chức hình tượng nhân vật, tổ chức truyện kể và tổ chức trần thuật truyện ngắn Sương Nguyệt Minh ở phương diện kết cấu. Từ đó thấy được sự vận động, phát triển cá tính sáng tạo độc đáo của nhà văn, vị trí và vai trò của Sương Nguyệt Minh trong nền văn học Việt Nam đương đại. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Triển khai đề tài Kết cấu truyện ngắn Sương Nguyệt Minh chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là: - Tìm hiểu sự xuất hiện của Sương Nguyệt Minh trong sự xuất hiện của văn xuôi Việt Nam cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI. - Từ những đặc điểm của nội dung và hình thức của tác phẩm người viết sẽ tập trung đi nghiên cứu một toàn bộ truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh trên phương diện kết cấu. Khẳng định vị thế và đóng góp của Sương Nguyệt Minh đối với nền văn xuôi Việt Nam đương đại. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Kết cấu truyện ngắn Sương Nguyệt Minh. 5.2. Phạm vi nghiên cứu Nhằm khẳng định những nét riêng về kết cấu truyện ngắn Sương Nguyệt Minh, chúng tôi tiến hành khảo sát các tập truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh: - Đêm làng Trọng Nhân (1998) - Người ở bến sông Châu (2002) - Đi qua đồng chiều (2005) - Mười ba bến nước (2005) 10 - Chợ tình (2007) - Dị hương (2010) 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Khi đi vào nghiên cứu Kết cấu truyện ngắn Sương Nguyệt Minh, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp cơ bản sau: Phương pháp hệ thống. Phương pháp phân tích và tổng hợp. Phương pháp thống kê, phân loại. Phương pháp đối chiếu, so sánh. Phương pháp lịch sử. Phương pháp loại hình. 7. Đóng góp của luận văn Đề tài Kết cấu truyện ngắn Sương Nguyệt Minh đã nêu bật lên một trong những đặc trưng riêng biệt trong phong cách nghệ thuật truyện ngắn Sương Nguyệt Minh. Bước đầu xác định những đặc điểm truyện ngắn Sương Nguyệt Minh, những đóng góp nghệ thuật của tác giả về phương diện kết cấu cho sự phát triển của thể loại truyện ngắn ở Việt Nam. Khẳng định giá trị và những thành công truyện ngắn Sương Nguyệt Minh trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại. 8. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được triển khai thành 3 chương: Chƣơng 1: Truyện ngắn Sƣơng Nguyệt Minh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI Chƣơng 2: Kết cấu hình tƣợng nhân vật truyện ngắn Sƣơng Nguyệt Minh. Chƣơng 3: Kết cấu truyện kể và kết cấu trần thuật truyện ngắn Sƣơng Nguyệt Minh. 11 NỘI DUNG CHƢƠNG 1: TRUYỆN NGẮN SƢƠNG NGUYỆT MINH TRONG BỐI CẢNH VĂN XUÔI VIỆT NAM CUỐI THỂ KỶ XX ĐẦU THẾ KỶ XXI 1.1. Vài nét về sự hình thành và phát triển truyện ngắn Việt Nam sau 1975 1.1.1. Quan niệm truyện ngắn Truyện ngắn ra đời ở phương Tây vào thời Trung thế kỷ. Đó là những truyện ngụ ngôn đầu tiên của thời Phục hưng và cách mạng tư sản. Về sau các nhà viết truyện thời Phục Hưng đã mang lại cho các câu chuyện nói trên một hình thức văn học. Thế kỷ VXII tiếp thêm cho nó sức mạnh trong cuộc sống và nhất là sinh hoạt chính trị. Khái niệm và thể loại truyện ngắn đạt đến mức hoàn chỉnh vào khoảng cuối thế kỉ XIX, cùng với báo chí. Trải qua bao thăng trầm trong tiến trình phát triển văn học và lịch sử thể loại, ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển, con người có thời gian đọc, suy ngẫm cùng nhà văn thì truyện ngắn ngày càng phát triển chiếm lĩnh vị trí quan trọng trong mỗi nền văn học dân tộc. Thực chất truyện ngắn là gì? Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về truyện ngắn. Nhận diện thể loại truyện ngắn là nỗ lực liên tục của cả người sáng tác và giới nghiên cứu lý luận. Từ W.Gớt ở thế kỷ XVII cho đến Sê Khốp, từ Lỗ Tấn đến Môpátxăng, từ Antônốp thế kỷ XIX - XX đến Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Minh Châu,… họ đưa ra những cách khu biệt khác nhau. Các định nghĩa thường đặt ra yêu cầu gắt gao đối với thể truyện ngắn là phải có dung lượng tác phẩm, cốt truyện, nhân vật, chi tiết, ngôn ngữ,… để khái quát thành đặc trưng, khắc họa một hình tượng cụ thể, phát hiện một nét bản chất và quan hệ nhân sinh, khám phá cái bí ẩn trong đời sống tâm hồn con người. Trong đó M.B.Khrapchenco - nhà lý luận văn học nước Nga thế kỷ XX cho rằng:“Truyện ngắn có thể viết co giãn. Cần phải tránh để độc giả khỏi phải dừng lại lâu ở những chi tiết vụn vặt của cái mà độc giả đã biết và thậm chí có thể vượt qua bằng trí tưởng tượng” [11, tr.213]. Aimatov chú ý đến đặc trưng lao động nghệ thuật của thể loại truyện ngắn:“Truyện ngắn giống như một thứ tranh khắc gỗ, lao động nghệ thuật ở đây đòi hỏi chặt chẽ, cô 12 đúc, các phương tiện phải được tính toán một cách tinh tế, nét vẽ phải chính xác. Đây là một việc vô cùng tinh tế. Xoay xoả trên một mảnh đất chật hẹp, đó chính là chỗ để cho truyện ngắn phân biệt với các thể tài khác” [44, tr.146]. Truyện ngắn là thể loại gần gũi với đời sống hàng ngày, dễ đọc, lại thường gắn liền với hoạt động báo chí, do đó có tư duy ảnh hưởng kịp thời trong đời sống. Vậy nên truyện ngắn là một trong những thể loại thể hiện trước hết và rõ nét nhất những biến chuyển của nền văn học, chứng tỏ sự nhạy bén cũng như ưu thế của nó trong sự định hình và bước chuyển của văn học. Ở Việt Nam quan niệm về truyện ngắn vô cùng phong phú và đa dạng. Một trong những xác định súc tích về truyện ngắn là định nghĩa của Lại Nguyên Ân:“Một thể loại tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các phương diện của đời sống con người và xã hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là dung lượng; tác phẩm truyện ngắn thích hợp với việc người tiếp nhận (độc giả) đọc nó liền một mạch không nghỉ” [1, tr.1846-1847]. Theo Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi truyện ngắn được định nghĩa:“Là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn” [8, tr.65]. Nhà nghiên cứu Phương Lựu trong giáo trình Lý luận văn học đã phát biểu: “Truyện ngắn là hình thức ngắn của tự sự. Khuôn khổ ngắn nhiều khi làm cho truyện ngắn có vẻ gần gũi với các hình thức truyện kể dân gian như truyện cổ, giai thoại, truyện cười, hoặc gần với những bài ký ngắn. Nhưng thực ra không phải. Nó gần với tiểu thuyết hơn cả bởi là hình thức tự sự tái hiện cuộc sống đương thời” [15]. Còn theo nhà văn Nguyễn Minh Châu thì “truyện ngắn như một mặt cắt giữa một cây cổ thụ, chỉ liếc qua những đường vân trên các khoanh gỗ tròn kia, dù trăm năm cũng thảy cả cuộc đời thảo mộc” [35, tr.67]. Xuất phát từ những quan niệm tương đối thống nhất về truyện ngắn ở trên chúng tôi có thể nêu ra một số đặc trưng cơ bản của thể loại này như sau: Đặc trưng đầu tiên, dễ thấy nhất của truyện ngắn là kích thước, khuôn khổ, dung lượng nhỏ. Thế nào là nhỏ? Có thể nói, dung lượng thông thường của một 13 truyện ngắn co dãn khoảng từ 3 đến 50 trang. Dưới con số 3 trang, người ta gọi là “truyện ngắn mini”, hoặc “truyện ngắn trong lòng bàn tay”; trên con số 50 trang, người ta gọi truyện vừa, trên 100 trang là tiểu thuyết. Tuy nhiên, tính chất nhỏ của truyện ngắn không chỉ nằm ở dung lượng, mà quan trọng hơn là những quy luật cấu tạo đặc thù của truyện ngắn. Truyện ngắn có kết cấu, có cốt truyện, có bút pháp riêng của nó. Kết cấu của truyện ngắn không chia thành nhiều tầng, nhiều tuyến mà thường được xây dựng theo nguyên tắc tương phản hoặc liên tưởng, đây cũng là cách để tạo ra một chiều sâu cần thiết cho truyện ngắn. Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một thời gian, không gian hạn chế, chức năng của nó nói chung là nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình người. Bút pháp của truyện ngắn thường là chấm phá cho nên viết truyện ngắn cần phải biết“Viết thế nào cho ngắn”. Tsêkhốp, một bậc thầy về truyện ngắn đã rút kinh nghiệm“gạt thô lấy tinh, viết ngắn gọn, viết thật khách quan nhưng phải luôn tế nhị và luôn luôn làm chủ ngòi bút của mình” Đặc trưng thứ hai của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, hàm súc; lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết. Chi tiết của truyện ngắn giống như những mắt xích kết nối các yếu tố khác tạo nên tác phẩm. Do tính chất ngắn gọn, truyện ngắn được tổ chức bằng các phương thức và chất liệu cá biệt. Sekhov, một bậc thầy truyện ngắn thế giới đã ví truyện ngắn cũng y như trên boong tàu quân sự, ở đó tất cả phải đâu vào đấy, không có cái gì được thừa, phải là “một lát cắt gọn ghẽ”,“toàn truyện là một cái vòng khép kín không dài quá, không ngắn quá, không xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào” [35, tr.122]. Tính nhanh nhạy, cập nhật là đặc trưng thứ ba của truyện ngắn. Là một thể loại dân chủ, truyện ngắn trực tiếp tác động đến những điều của cuộc sống hiện đại, gần gũi với đời sống hằng ngày. Với đặc thù ngắn gọn, súc tích, dễ đọc, truyện ngắn thường gắn liền với hoạt động báo chí, có tác động mạnh mẽ, kịp thời tới cuộc sống. Ở truyện ngắn, người viết không được dông dài, độ căng của tác phẩm phải “như mũi tên mà dây cung đã bật, phải bay vụt về tới đích không thể có một phần nghìn dây trù trừ” [21, tr.162]. Để đạt được điều này, điều cốt yếu của truyện ngắn là phải 14 “nhạy bén trước những đổi thay của cuộc sống” [21, tr.146], truyện ngắn cần bắt nhịp nhanh với cuộc sống thời hiện tại, phải trực tiếp đả động đến điều mọi người đang suy nghĩ trong cuộc sống ngày hôm nay, cho dù chất liệu sử dụng trong tác phẩm là những điều xưa cũ. Đặc trưng thứ tư của truyện ngắn là các tác giả truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay trong đời sống tâm hồn con người“khái quát cuộc sống theo chiều sâu, lấy điểm nói diện, lấy khoảnh khắc để nói cái vĩnh cửu” [44, tr.149]. Nói như Lỗ Tấn: truyện ngắn có thể và cần phải trở thành“tòa đại lầu” để chứa đựng cả tinh thần của thời đại nhờ phương thức biểu hiện qua một con mắt mà truyền đạt được cả tinh thần con người vốn có của nó. Nét đặc trưng cuối cùng của truyện ngắn là truyện ngắn tuy bị giới hạn về dung lượng chữ nhưng có sức chứa lớn xét từ góc độ tư tưởng và trình độ khái quát hóa. Chỉ cần một ít trang văn xuôi, người viết có thể làm “nổ tung trong tình cảm và ý nghĩ của người đọc những điều rất sâu xa và da diết của con người, khiến người đọc phải nhớ mãi, suy nghĩ mãi, đọc, đọc lại mãi không chán” [18, tr.148]. Roymond Carver, một bậc thầy truyện ngắn thế giới ghi nhận:“ngày nay, tác phẩm hay nhất, tác phẩm hấp dẫn và thỏa mãn nhất về nhiều mặt, thậm chí có lẽ tác phẩm có cơ hội lớn nhất để trường tồn, chính là tác phẩm được viết dưới dạng truyện ngắn” [7, tr.75]. Đỗ Chu cũng có cùng ý kiến như vậy, ông cho rằng:“một truyện ngắn hay có thể làm cho người ta cười lớn hoặc ứa nước mắt” bởi vì “sức chứa trong truyện có thể rất nhiều, sức nổ rất lớn”. Với những đặc trưng cơ bản trên, sau nhiều năm chiếm lĩnh trên văn đàn, trong khi thơ, kịch, tiểu thuyết dường như đang vắt kiệt về khả năng hồi sinh và đổi mới thể loại thì truyện ngắn vẫn là một mảnh đất tương đối để các cây bút trẻ khẳng định tài năng. Chính vì thế mà truyện ngắn trở thành một thể loại tiêu biểu của văn học Việt Nam đương đại. 1.1.2. Truyện ngắn Việt Nam thời kỳ đổi mới Sau năm 1975 là bước đầu quá trình chúng ta xây dựng cuộc sống mới do đó, văn học cũng tự tạo cho mình những điều mới mẻ để theo kịp với thời đại. Nhưng 15 để có được sự đổi mới trong văn học nó phải có sự tác động tổng hợp của các yếu tố trong hoàn cảnh lịch sử như sau: 1.1.2.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa Ngày 30 tháng 4 năm 1975 cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài 30 năm đã kết thúc toàn thắng. Tổ quốc thống nhất, cả đất nước bước vào thời kì xây dựng và đi lên chủ nghĩa xã hội. Thời cơ và thuận lợi để đưa đất nước phát triển lớn mạnh đã đến, nhưng thách thức và những khó khăn thì rất nhiều. Hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh ác liệt và lâu dài vào bậc nhất trong lịch sử phát triển dân tộc, cho đến nay, sau ba mươi năm vẫn chưa thể khắc phục hết. Những năm đầu thập kỷ 80, đất nước chìm ngập trong những khó khăn nan giải, nền kinh tế khủng hoảng trầm trọng bởi chính sách cấm vận, cô lập của các thế lực đế quốc thù địch, bởi sự khủng hoảng và sụp đổ của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa trên thế giới, thêm vào đó còn là hậu quả của những chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội nặng về duy ý chí, chủ quan nóng vội, gây mất lòng tin ở nhân dân. Cuộc chiến tranh giải phóng đã kết thúc nhưng súng vẫn nổ ra ở biên giới phía Bắc và phía Tây Nam, máu vẫn chảy ở chiến trường Campuchia. Tất cả những điều đó đã tác động đến tình hình chung của nước ta, đẩy đất nước đến cuộc khủng hoảng nặng nề và trầm trọng. Nhưng sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của một dân tộc đã có lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước lại một lần nữa được khẳng định. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã tiến hành đổi mới toàn diện đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng để bước vào thời kỳ phát triển mới. Sự suy thoái kinh tế được chặn lại và nền kinh tế bắt đầu có sự tăng trưởng, phát triển tốc độ ngày càng cao và dần có sự ổn định, nền kinh tế thị trường dần được hình thành. Đổi mới cũng có nghĩa là mở cửa tăng cường giao lưu và hội nhập quốc tế trên mọi bình diện chính trị, kinh tế, văn hóa khiến đất nước có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực, làm biến đổi sâu sắc, toàn diện hình ảnh đất nước. Từ chiến tranh chuyển sang cuộc sống hòa bình, từ nền kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ mối quan
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan