Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU.........................................................................................................
CHƯƠNG 1: SỰ CẦN THIẾT PHẢI GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO
NGƯỜI LAO ĐỘNG BỊ THU HỒI ĐẤT.............................................................
1.1. Cơ sở lý luận về lao động...............................................................................
1.2. Cơ sở lý luận về việc làm...............................................................................
1.3. Sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất.......
1.3.1. Đặc điểm của lao động bị thu hồi đất do quá trình CNH – HĐH...........
1.3.2. Sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi
đất....................................................................................................................
1.4. Kinh nghiệm tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất ở một số địa
phương................................................................................................................
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO LAO ĐỘNG BỊ THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI...................
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động trên địa bàn
hà Nội..................................................................................................................
2.1.1. Vị trí địa lí kinh tế..................................................................................
2.1.2. Khí hậu...................................................................................................
2.1.3. Địa hình..................................................................................................
2.1.4. Tài nguyên đất........................................................................................
2.1.5. Tài nguyên du lịch..................................................................................
2.2. Thực trạng lực lượng lao động trên địa bàn Hà Nội.....................................
2.2.1. Lực lượng lao động................................................................................
2.2.2. Cơ cấu lao động......................................................................................
2.3. Thực trạng lao động bị thu hồi đất trên địa bàn Hà Nội................................
2.3.1. Số lượng lao động bị thu hồi đất............................................................
2.3.2. Cơ cấu lao động......................................................................................
2.3.3. Chất lượng lao động bị thu hồi đất.........................................................
2.4. Thực trạng giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất trên địa bàn
Hà Nội.................................................................................................................
2.4.1. Thực trạng việc làm của lao động bị thu hồi đất.....................................
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc
0
Lớp: Kế hoạch 48A
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
2.4.2. Chính sách tạo việc làm cho lao động bị thu hồi đất..............................
2.5. Đánh giá chung về việc giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi
đất trên địa bàn Hà Nội........................................................................................
2.5.1. Kết quả đạt được....................................................................................
2.5.2. Những hạn chế, bất cập còn tồn tại.........................................................
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO
ĐỘNG BỊ THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI.......................................
3.1. Cơ sở để đưa ra các giải pháp tạo việc làm cho lao động bị thu hồi đất........
3.1.1. Định hướng phát triển kinh tế xã hội Hà Nội đến năm 2020..................
3.1.2. Dự báo nhu cầu việc làm của người lao động bị thu hồi đất trên địa
bàn Hà Nội.......................................................................................................
3.2. Các quan điểm, mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động bị thu
hồi đất..................................................................................................................
3.2.1. Quan điểm giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất..........
3.2.2. Mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất.............
3.3. Các giải pháp tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất trên địa
bàn Hà Nội.......................................................................................................
3.3.1. Nghiên cứu và hoàn thiện các chính sách hỗ trợ người lao động bị thu
hồi đất..............................................................................................................
3.3.2. Tạo sự phát triển toàn diện các mặt kinh tế, xã hội ................................
3.3.3. Chú trọng đến đào tạo nghề cho người lao động....................................
3.3.4. Tăng cường hoạt động hệ thống thông tin thị trường lao động...............
3.3.5. Hỗ trợ nguồn vốn cho người lao động bị thu hồi đất..............................
KẾT LUẬN...........................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Thực trạng sử đụng dất thành phố Hà Nội...............................................23
Bảng 2.2 Một số chỉ tiêu về lao động......................................................................26
Bảng 2.3. Kết quả giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất theo tuổi...........30
Bảng 2.4. Kết quả giải quyết việc làm 5 năm 2006 -2010.......................................36
Biểu đồ 2.1.Cơ cấu việc làm mới theo ngành kinh tế..............................................32
Biểu đồ 2.2.Cơ cấu việc làm mới theo trình độ chuyên môn kỹ thuật.....................33
Biểu 3.1. Dự báo cơ cấu sử dụng lao động bị thu hồi đất........................................48
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
LỜI MỞ ĐẦU
Việc làm cho người lao động là một vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là
mối quan tâm lớn của nhiều quốc gia. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế, hướng tới tăng tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng, dịch vụ, giảm tỷ
trọng ngành nông nghiệp như hiện nay, Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng đã
đạt được những kết quả khả quan trong việc phát triển kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh
đó, nguy cơ tỷ lệ thất nghiệp cao, nhu cầu về việc làm cho người lao động ngày
càng trở thành một sức ép không nhỏ trong nền kinh tế.
Đặc biệt, tiến hành cơ cấu lại nền kinh tế, không thể thiếu việc quy hoạch lại
thành phố cho phù hợp, nhằm tăng nhanh sự phát triển. Do đó, sau khi thu hồi đất
để thực hiện các dự án, nhiều người lao động bị rơi vào tình trạng mất việc làm, tạo
sự trì hoãn cho việc phát triển cũng như chuyển dịch nền kinh tế. Chính vì vậy, tạo
việc làm cho người lao động, nhất là lao động bị thu hồi đất trở thành chủ trương
lớn của thành phố Hà Nội nói riêng và là một vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước
nói chung, nhằm đáp ứng được nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước
mà còn góp phần nâng cao được vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Chính vì vậy, tôi xin chọn đề tài: “Giải pháp tạo việc làm cho người lao
động bị thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội.” mong muốn góp một phần
nhỏ bé cho việc giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất tại Hà Nội nói
riêng và Việt Nam nói chung.
Kết cấu bài viết bao gồm 3 chương:
Chương 1: Sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi
đất.
Chương 2: Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi
đất trên địa bàn Hà Nội.
Chương 3: Các giải pháp tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất trên
địa bàn Hà Nội.
Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy PGS.TS
Nguyễn Ngọc Sơn và tập thể các bác, các cô chú tại sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội
đã đóng góp ý kiến và giúp đỡ trong quá trình thực tập để tôi có thể hoàn thành tốt
được bản báo cáo chuyên đề này.
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc
1
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
CHƯƠNG 1
SỰ CẦN THIẾT PHẢI GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
BỊ THU HỒI ĐẤT
1.1. Cơ sở lý luận về lao động.
a. Khái niệm chung về lao động.
Lao động là một trong những hình thức hoạt động của con người vào thực tiễn
nhằm biến đổi và tạo ra các của cải vật chất nhằm phục vụ cho lợi ích đời sống của
con người. Hoạt động lao động giúp con người tồn tại, hình thành và phát triển nhân
cách thông qua quá trình xã hội hóa cá nhân, từ đó, thể hiện được giá trị của mình
trong xã hội. Lao động là điều kiện chủ yếu cho sự tồn tại của loài người, là cơ sở
tiền đề tạo động lực cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Chính vì vai trò của
con người vô cùng quan trọng, nên chúng ta cần tìm cách khai thác được tối đa sức
lao động của con người, nâng cao tri thức và khả năng sáng tạo của con người,
nhằm tạo sự phát triển cho nền kinh tế của đất.
Sức lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một
cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi
sản xuất ra một giá trị thặng dư nào đó. Sức lao động là khả năng lao động của con
người, là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình sản xuất và là lực lượng sản xuất
sáng tạo chủ yếu của xã hội. Nhưng sức lao động mới chỉ là khả năng lao động, còn
lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong hiện thực.
Nguồn lao động là bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng
lao động, theo quy định của Bộ luật lao động Việt Nam (nam đủ 15 đến hết 60 tuổi,
nữ đến hết 55 tuổi).
Lực lượng lao động của một quốc gia hay một địa phương là bộ phận dân số
trong tuổi lao động, có khả năng tham gia lao động, có mong muốn lao động, đang
có việc làm hoặc đang tìm việc làm. Lực lượng lao động bao gồm những người có
việc làm và những người chưa có việc làm nhưng đang tìm việc làm (gọi là người
thất nghiệp).
b. Các yếu tố ảnh hưởng tới lực lượng lao động.
Dân số.
Dân số của một quốc gia bao gồm dân số trong độ tuổi lao động và dân số
ngoài độ tuổi lao động. Dân số trong độ tuổi lao động được chia ra làm hai bộ phận
gồm dân số hoạt động kinh tế và dân số không hoạt động kinh tế. Dân số hoạt động
kinh tế là những người trong độ tuổi lao động, đang làm việc hoặc không có việc
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc
2
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
làm nhưng có nhu cầu làm việc. Đây chính là lực lượng lao động. Chính vì vậy mà
dân số là yếu tố cơ bản quyết định đến lực lượng lao động . Qui mô và cơ cấu dân
số cũng ảnh hưởng đến qui mô và cơ cấu của lực lượng lao động.
Có nhiều yếu tố tác động đến sự biến động của dân số như các phong tục, tập
quán, trình độ phát triển kinh tế,xã hội của từng nước, các cơ chế chính sách của
từng nước về việc khuyến khích hoặc hạn chế việc sinh đẻ đối với từng hộ gia đình.
Thông thường, ở các nước phát triển, người dân có đời sống cao, trình độ giáo
dục cao,họ có ý thức về những ràng buộc khi có con như ảnh hưởng đến việc làm,
kinh tế, phải chăm sóc con cái, nên họ thường không muốn có con. Hơn nữa họ
cũng không phải chú trọng đến việc nối dõi tông đường như một số nước đang phát
triển. Chính vì vậy những nước này thường có mức độ tăng dân số thấp.
Ngược lại, đối với các nước đang phát triển, mức độ tăng dân số thường ở
mức độ cao. Các nước này thường được thừa hưởng các thành tựu của nên khoa học
kỹ thuật nên cuộc sống của người dân được chăm lo đến sức khỏe, khả năng phòng
chống và kháng bệnh cao, sức khỏe sinh sản được đảm bảo. Do vậy, trẻ em được
sinh ra có khả năng sống sót cao, tỉ lệ tử vong giảm nên sự gia tăng tự nhiên
cao.Mặt khác, các nước đang phát triển còn có nền sản xuất lạc hậu, hệ thống máy
móc lạc hậu, còn dùng nhiều đến sức người nên đòi hỏi cần có nhu cầu lao động rất
lớn trong việc phát triển kinh tế. Ở các nước nghèo, tỉ lệ sinh đẻ cao, do việc kế
hoạch hóa gia đình chưa được tuyên truyền rộng rãi, đồng thời người dân còn chịu
nhiều quan niệm, hủ tục lạc hậu dẫn đến tỉ lệ sinh đẻ ở các quốc gia này cao.
Hiện nay, tỷ lệ tăng dân số của thế giới là 1,8%, ở các nước châu Á là 2 – 3%
và các nước châu Phi là 3 – 4%. Còn ở Việt nam là 1,44%. Hiện có 3/4 dân số trên
thế giới sống ở các nước đang phát triển, ở đó dân số tăng nhanh trong khi nền kinh
tế tăng chậm, làm mức sống của người dân thấp, tạo áp lực lớn trong việc giải quyết
việc làm. Do đó vấn đề kế hoạch hóa dân số đi đôi với việc phát triển kinh tế là một
trong những vấn đề quan trọng cần được quan tâm đối với các nước phát triển nói
chung và Việt Nam nói riêng.
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động.
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là tỷ lệ phần trăm của lực lượng lao động và
dân số trong độ tuổi làm việc (những người đủ 15 tuổi trở lên). Tỷ lệ tham gia lực
lượng lao động xác định quy mô lao động của một đất nước tham gia hoạt động
kinh tế. Tỷ lệ này là một chỉ tiêu đánh giá quy mô của nguồn cung lao động sẵn có
phục vụ cho việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế. Chỉ tiêu tỷ lệ tham
gia lực lượng lao động là trung tâm trong việc nghiên cứu các nhân tố xác định quy
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc
3
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
mô, kết cấu các nguồn nhân lực trong nền kinh tế và dự đoán được nguồn cung lao
động trong tương lai, giúp đánh giá mức độ hoạt động của thị trường lao động trong
nền kinh tế. Bên cạnh đó, chỉ tiêu cũng giúp cho việc hoạch định các chính sách
việc làm, đánh giá nhu cầu đào tạo và xác định thời gian lao động và tính toán được
số lượng lao động tham gia trên thị trường lao động. Hiện nay tỷ lệ tham gia lực
lượng lao động của Việt Nam có xu hướng giảm, nhưng vẫn đang còn ở mức cao
(trên dưới 71%) so với các nước trên thế giới.
Thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp.
Thất nghiệp là hiện tượng những người trong độ tuổi lao động tại thời điểm
điều tra ở trong tình trạng không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc. Nhu cầu
này thể hiện thông qua các hoạt động tích cực tìm việc. Thất nghiệp là vấn đề đặc
trưng mà quốc gia nào cũng gặp phải. Nó không chỉ tác động về mặt kinh tế mà còn
ảnh hưởng đến các vấn đề mang tính xã hội.
Tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ % số người lao động không có việc làm trên tổng số
lực lượng lao động của xã hội.Thông thường, nếu tỷ lệ thất nghiệp của một quốc gia
cao, đồng nghĩa với việc các nguồn lực con người không được sử dụng, bỏ phí đi
các cơ hội sản xuất tham sản phẩm, dịch vụ, làm giảm hiệu quả sản xuất theo quy
mô. Một tỷ lệ thất nghiệp vừa phải sẽ giúp cho cả người lao động và chủ sử dụng
lao động. Khi đó, người lao động có thể tìm được những công việc khác phù hợp
với khả năng, mong muốn và điều kiện cư trú. Còn với những người chủ, tình trạng
thất nghiệp giúp cho họ tìm được những người lao động phù hợp, nâng cao sự trung
thành đối với người lao động. Ở một khía cạnh nào đó, thất nghiệp giúp các doanh
nghiệp tăng năng suất lao động và tăng lợi nhuận.
Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển, tỷ lệ thất nghiệp không hoàn toàn
phản ánh được đúng sự thực về nguồn lao động chưa được sử dụng hết. Nguyên
nhân là do số người nghèo chiếm tỷ lệ nhỏ, khi gặp thất nghiệp họ thường cố gắng
không để tình trạng này kéo dài, vì họ không có nguồn lực dự trữ nên họ buộc phải
chấp nhận mọi việc nếu có. Tình trạng này xảy ra phổ biến ở các nước đang phát
triển nói chung và Việt Nam nói riêng.
Thời gian lao động.
Khi người lao động tham gia vào quá trình lao động, ngoài việc hao phí nguồn
lực, còn hao phí về mặt thời gian lao động. Qua việc xem xét thời gian lao động,
làm việc của mỗi người lao động, ta có thể đánh giá được hiệu quả sử dụng và chất
lượng của lực lượng lao động. Nếu hiệu quả sử dụng cao, doanh nghiệp sẽ tiếp tục
thuê lao động và đề ra các phương án phù hợp để giữ chân người lao động. Ngược
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc
4
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
lại, nếu hiệu quả sử dụng lao động thấp, doanh nghiệp có thể sẽ sa thải người lao
động, dẫn đến tình trạng thất nghiệp cho người lao động.
c. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng lực lượng lao động.
Số lượng lao động mới phản ảnh được một mặt sự đóng góp của lao động vào
phát triển kinh tế. Mặt khác, cần được xem xét đến chất lượng nguồn lao động, đó là
yếu tố làm cho lao động có năng suất cao hơn. Chất lượng lao động có thể được
nâng cao nhờ giáo dục, đào tạo, sức khỏe của người lao động, nhờ bố trí điều kiện
lao động tốt hơn.
Giáo dục được coi là một trong những yếu tố quan trọng giúp cho sự phát triển
tiềm năng của con người. Yêu cầu chung đối với giáo dục là rất lớn, nhất là đối với
giáo dục phổ thông, con người ở mọi nơi đều tin rằng giáo dục rất có ích cho bản
thân mình và con cháu họ. Bằng trực giác, mọi người có thể thấy mối quan hệ giữa
giáo dục và mức thu nhập. Mặc dù không phải là tất cả, nhưng thông thường những
người có học thức cao thường có mức thu nhập cao hơn rất nhiều so với những
người có học thức thấp. Nhưng để đạt được trình độ giáo dục nhất định cần phải chi
phí khá nhiều, kể cả chi phí của gia đình và của quốc gia. Đó chính là khoản đầu tư
cho con người. Ở các nước đang phát triển giáo dục được thực hiện dưới nhiều hình
thức nhằm không ngừng nâng cao trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật cho mọi
người. Kết quả giáo dục làm tăng lực lượng lao động có trình độ tạo khả năng thúc
đẩy đổi mới công nghệ. Công nghệ càng thay đổi nhanh càng thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Vai trò của giáo dục còn được đánh giá qua tác động của nó đối với việc
tăng năng suất lao động của mỗi cá nhân nhờ có nâng cao trình độ và tích lũy kiến
thức.
Giống như giáo dục, sức khỏe làm tăng chất lượng cả nguồn nhân lực cả hiện
tại và tương lai. Người lao động có sức khỏe tốt có thể mang lại những lợi nhuận
trực tiếp từ việc nâng cao sức lao động, khả năng tập trung cao khi làm việc. Việc
nuôi dưỡng và chăm sóc sức khỏe tốt cho trẻ em sẽ là yếu tốt làm tăng năng suất lao
động trong tương lai, giúp trẻ em phát triển thành những người khỏe về thể chất,
lành mạnh về tinh thần. Hơn nữa, điều đó còn giúp trẻ em nhanh chóng đạt được
những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết cho sản xuất thông qua giáo dục ở nhà trường.
Những khoản chi cho sức khỏe còn làm tăng nguồn nhân lực về mặt số lượng bằng
việc kéo dài tuổi lao động. Ngoài yếu tố giáo dục và sức khỏe, động lực lao động
cũng là 1 yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lao động. Đây là yếu tố quan trọng trong
việc nâng cao năng suất lao động.
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc
5
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
1.2. Cơ sở lý luận về việc làm.
a. Khái niệm về việc làm.
Việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã hội, phụ
thuộc vào các điều kiện hiện có của nền sản xuất. Một người lao động có việc làm
khi có một vị trí nhất định trong hệ thống sản xuất của xã hội. Thông qua việc làm,
người lao động thực hiện được quá trình lao động tạo ra sản phẩm và thu nhập. Ở
mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế xã hội, khái niệm việc làm lại được hiểu theo
nhiều khía cạnh khác nhau.
Trước đây, trong nền cơ chế kế hoạch hóa tập trung, những người lao động
làm việc trong khu vực thể chế kinh tế, khu vực nhà nước, khu vực tập thể là những
người được coi là có việc làm.
Hiện nay, sau khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nên nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, quan niệm việc làm đã được thay đổi. Theo điều 13 chương 3 Bộ
luật lao động nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam năm 1994 đã ban hành:
“Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa
nhận là việc làm”.
Tuy nhiên, quan niệm của người lao động về việc làm trong giai đoạn này
cũng có thay đổi. Trước đây, nhiều người quan niệm rằng chỉ làm việc trong các xí
nghiệp quốc doanh và nằm trong biên chế nhà nước thì mới được coi là có công
việc ổn định, còn việc làm trong các thành phần kinh tế khác thì bị coi là không có
công việc ổn định. Vì vậy, nhiều người cố gắng xin vào làm việc trong nhà nước.
Hiện nay, đối với nhiều người quan niệm này không còn mang nặng. Với họ, chỉ
cần tìm được công việc phù hợp, có thu nhập cao và được nhà nước khuyến khích
thì họ sẵn sàng làm.
Có thể nói yếu tố việc làm và yếu tố lao động có liên quan đến nhau, cùng
phản ánh đến lợi ích của một con người. Tuy nhiên, hai phạm trù này không giống
nhau, bởi có việc làm thì chắc chắn có lao động, nhưng ngược lại có lao động chưa
chắc đã có việc làm, bởi nó còn phụ thuộc vào mức độ ổn định của công việc mà
người lao động đang làm.
b. Phân loại việc làm.
Phân theo mức độ sử dụng thời gian lao động.
- Việc làm đầy đủ: là sự thỏa mãn nhu cầu việc làm của bất cứ ai có khả năng
lao động trong nền kinh tế quốc dân. Hay nói cách khác việc làm đầy đủ là trạng
thái mà mỗi người có khả năng lao động, muốn làm việc thì đều có thể tìm được
việc làm trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, việc xác định số người có việc làm theo
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc
6
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
khái niệm này vẫn chưa phản ánh được chính xác trình độ sử dụng lao động xã hội
vì không đề cập đến chất lượng của công việc làm. Thực tế, nhiều người lao động
đang có việc làm nhưng chỉ làm nửa ngày hoặc việc có năng suất, thu nhập thấp.
Việc làm đầy đủ căn cứ trên hai khía cạnh : mức độ sử dụng thời gian lao động,
năng suất lao động và thu nhập. Mọi việc làm đầy đủ đòi hỏi người lao động phải sử
dụng đủ thời gian lao động theo luật định (8 tiếng/ngày), đồng thời, việc này phải
mang lại thu nhập không thấp hơn mức lương tối thiểu của người lao động (hiện
nay nước ta quy định mức lương tối thiểu chung là 650.000 đồng một người một
tháng).
Vậy những người làm việc đủ thời gian quy định và có thu nhập lớn hơn mức
thu nhập tối thiểu hiện hành là những người có việc làm đầy đủ.
- Thiếu việc làm: là những việc làm không tạo điều kiện cho người lao động sử
dụng hết thời gian lao động của mình, tạo thu nhập cho người lao động thấp hơn
mức lương tối thiểu.
Theo quan niệm của tổ chức lao động thế giới ( viết tắt : ILO), thiếu việc làm
được chia ra làm 2 dạng :
Thiếu việc làm vô hình: là những người có đầy đủ việc làm, làm đủ thời gian,
thậm chí còn quá thời gian qui định nhưng lại có thu nhập thấp do tay nghề kém,
điều kiện lao động xấu, tổ chức lao động kém khiến năng suất thấp, thường có nhu
cầu tìm công việc khác có mức thu nhập cao hơn.
Thiếu việc làm hữu hình: là những người lao động làm việc với thời gian ít
hơn quỹ thời gian qui định, không đủ việc làm và đang có mong muốn kiếm thêm
việc và luôn sẵn sàng để làm việc.
- Thất nghiệp: là hiện tượng những người trong độ tuổi lao động tại thời điểm
điều tra ở trong tình trạng không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc. Nhu cầu
này thể hiện thông qua các hoạt động tích cực tìm việc.
Thất nghiệp được chia thành nhiều loại :
Thất nghiệp tự nhiên: tỷ lệ thất nghiệp đương nhiên bởi luôn có một số người
trong giải đoạn chuyển từ chỗ làm này qua chỗ làm khác.
Thất nghiệp cơ cấu: là sự mất việc kéo dài trong các ngành hoặc vùng có sử
giảm sút kéo dài về nhu cầu lao động do thay đổi cơ cấu nền kinh tế.
Thất nghiệp chu kỳ: khi tổng cầu lao động thấp hơn tổng cung lao động ở giai
đoạn suy thoái của chu kỳ kinh tế.
Thất nghiệp kỹ thuật: Do việc thay thế công nhân bằng máy móc hoặc công
nghệ tiên tiến hơn.
Thất nghiệp thông thường: khi thu nhập thực tế xuống dưới mức chấp nhận
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc
7
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
được.
Thất nghiệp theo học thuyết Mark: là mức cần thiết để thúc đẩy công nhân làm
việc và giữ mức lương thấp.
Thất nghiệp theo mùa: khi công việc phụ thuộc vào nhu cầu theo thời tiết.
Phân theo vị trí lao động của người lao động.
- Việc làm chính: là công việc mà người lao động thực hiện dành nhiều thời
gian nhất và đòi hỏi yêu cầu của công việc cần trình độ chuyên môn kỹ thuật.
- Việc làm phụ: là công việc mà người lao động thực hiện dành nhiều thời gian
sau công việc chính.
c. Một số mô hình lý thuyết tạo việc làm.
Mô hình Lewis
Lewis đưa ra mô hình giải thích mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp
trong quá trình tăng trưởng, còn gọi là “Mô hình hai khu vực cổ điển”. Mô hình
nghiên cứu sự di chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công
nghiệp. Sự phát triển của ngành công nghiệp quyết định tăng trưởng kinh tế phụ
thuộc vào khả năng thu hút lao động dư thừa của ngành nông nghiệp. Lượng lao
động ngày càng tăng khiến số lượng lao động dư thừa trong xã hội ngày càng lớn.
Khi lao động dư thừa, tiền lương lao động trong nông nghiệp luôn ở mức tối thiểu,
không đảm bảo được đời sống của người lao động. Chính vì khu vực nông nghiệp
mang tính trì trệ nên cần giảm dần quy mô và tỷ trọng đầu tư, thay vào đó, cần xây
dựng và đầu tư vào các khu công nghiệp để thu hút người lao động. Mô hình được
đề ra dựa trên các giả định:
- Tỷ lệ lao động thu hút sang khu vực công nghiệp tương ứng với tỷ lệ vốn
tích lũy ở khu vực này ( thâm dụng vốn, hoặc đầu tư nơi khác).
- Khu vực thành thị không có thất nghiệp.
- Nông thôn có thể giải quyết việc làm mà không cần phải chuyển ra thành
phố.
- Tiền lương công nghiệp không tăng(thực tế vẫn tăng do nhu cầu về lao động
tay nghề và công đoàn).
Mô hình tân cổ điển
Mô hình tân cổ điển coi công nghệ (T) là yếu tố trực tiếp quyết định tăng
trưởng. Việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ giúp tối đa hóa lợi
nhuận.Đối với khu vực nông nghiệp, nếu áp dụng các tiến bộ công nghệ, lao động
có thể cải thiện, nâng cao chất lượng ruộng đất, giúp tăng về cả chất lượng và số
lượng sản phẩm.Đối với khu vực công nghiệp, các sản phẩm do lao động làm ra
ngày càng tăng. Vì vậy, các chủ lao động phải trả tiền công cho người lao động cao
hơn. Điều này buộc các nhà sản xuất phải lựa chọn sản xuất công nghệ phù hợp
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc
8
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
(công nghệ sử dụng nhiều vốn hay công nghệ sử dụng nhiều lao động).
Trong đó, quan điểm đầu tư:
- Tránh bất lợi công nghiệp nên đầu tư cả nông nghiệp ngay từ đầu.
- Đầu tư là tăng năng suất nông nghiệp khiên viện lao động dịch chuyển khỏi
nông nghiệp không làm tăng giá nông sản.
Mô hình Harry T. Oshima
Oshima đã đưa ra các biện pháp hỗ trợ vạo việc làm cho người lao động, từ đó
giúp kinh tế ngày càng tăng trưởng. Theo mô hình, cần tạo việc làm cho lao động
nhàn rỗi theo hướng tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp. Đa dạng hóa sản
xuất nông nghiệp, xen canh, tăng vụ trông thêm rau quả, cây lấy củ, mở rộng chăn
nuôi, trồng cây lâm nghiệp. Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần hỗ trợ để nâng cao
năng suất: hệ thống tưới, vận tải nông thôn, giáo dục và điện khí hóa nông thôn; cải
tiến các tổ chức: tổ chức dịch vụ, tổ chức tín dụng; tăng xuất khẩu nông sản thu
ngoại tệ (nhập khẩu máy móc cho công nghiệp nhiều lao động). Sau đó, cần hướng
tới tạo việc làm đầy đủ cho lao động bằng cách đầu tư phát triển đồng thời nông
nghiệp và công nghiệp (theo chiều rộng): đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp; Phát
triển ngành công nghiệp chế biến nông sản hàng hóa; Phát triển ngành tiểu thủ công
nghiệp ( nông cụ cải tiến); Phát triển ngành sản xuất phân bốn, gióng, các yếu tố
đầu vào; Hoạt động đồng bộ từ sản xuất vận chuyển bán hàng, tín dụng; Phát triển
nông nghiệp tạo nhu cầu tăng quy mô công nghiệp và dịch vụ. Các biện pháp này
hướng tới tăng trưởng việc làm nhanh hơn tăng trưởng lao động, khiến thu nhập
thực tế của người lao động tăng lên.
d. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc làm.
Điều kiện tự nhiên.
Mỗi quốc gia có một ưu thế riêng về điều kiện tự nhiên như các yếu tố về đất
đai, khí hậu, địa hình,… Đất đai màu mỡ hay khô cằn, khí hậu ôn đới hay nhiệt đới,
địa hình đồng bằng, vùng núi hay vùng biển, các nguồn tài nguyên khoáng sản
nhiều hay ít, … Từ các yếu tố trên, mỗi quốc gia có thể lựa chọn được các phương
thức sản xuất, các ngành nghề kinh doanh khác nhau, sao cho có thể tạo ra năng
suất cao nhất trong quá trình sản xuất. Từ đó, người lao động trên mỗi quốc gia có
thể lựa chọn được việc làm phù hợp với trình độ và trạng thái sức khỏe của bản
thân.
Dân số.
Dân số vừa là yếu tố sản xuất, vừa là yếu tố tiêu dùng. Quy mô dân số tăng thì
cầu hàng hóa và dịch vụ tăng. Khi đó, nguồn cung sản xuất cũng tăng lên, đa dạng
hóa các ngành nghề hoạt động do cung và cầu luôn có mối quan hệ tác động qua lại
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc
9
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
lẫn nhau. Đồng thời, cơ cấu dân số cũng quyết định tiêu dùng. Tùy thuộc vào sở
thích, giới tính, tâm lý, dân tộc, nhu cầu tiêu dùng của mỗi người là khác nhau. Để
lượng hàng hóa sản xuất bán ra có người mua, các doanh nghiệp buộc phải quan
tâm đến nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Nếu lượng hàng hóa bán ra nhiều, các
nhà sản xuất phải tăng thêm coogn lao động, ngược lại, nếu không có người mua,
các doanh nghiệp buộc phải sa thải một số lượng lao động để cân bằng chi phí sản
xuất nhằm tránh tình trạng lỗ vốn.Quá trình di dân cũng làm cho dân số ở từng nơi
thay đổi. Khi cơ cấu dân số thay đổi sẽ dẫn đến nhu cầu tiêu dùng sản xuất hàng hóa
ở từng nơi thay đổi. Những vùng người dân di cư đến buộc phải tăng thêm lượng
sản xuất để đáp ứng đủ nhu cầu của người dân, từ đó tăng thêm nhiều ngành nghề
mới, góp phần tạo ra nhiều chỗ làm mới. Trong khi những vùng dân di cư đi lại phải
giảm số lượng sản xuất xuống dẫn đến tình trạng lao động bị thất nghiệp.
Ngoài ra, chất lượng lao động cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tạo
việc làm cho người lao động. Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các
doanh nghiệp ngày càng phát triển, việc đòi hỏi lao động có sức khỏe, trình độ
chuyên môn tay nghề cao để đáp ứng được yêu cầu của công việc đề ra là điều vô
cùng cần thiết. Người lao động có trình độ mới có nhiều cơ hội tìm kiếm được việc
làm theo đúng nguyện vọng, mới có thể có được thu nhập cao đáp ứng được nhu
cầu cuộc sống. Người lao động cần tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của
mình, tranh thủ tham gia các hoạt động giáo dục, đào tạo, nâng cao tay nghề để có
thêm kinh nghiệm, kiến thức và nhận thức. Điều đó mới có thể nâng cao vị thế bản
thân mỗi người lao động.
Cơ chế chính sách
Cơ chế chính sách là một yếu tố quan trọng góp phần tạo việc làm cho người
lao động. Nhà nước dùng các công cụ chính sách pháp luật để đảm bảo được quyền
lợi của người dân, đồng thời buộc người dân phải tuân theo những chủ trương đúng
đắn của đảng và nhà nước đề ra, nhằm hướng tới một xã hội ngày càng phát triển,
cuộc sống của người dân được ấm no. Chính vì vậy, trong mỗi thời kỳ khác nhau,
Nhà nước lại đề ra các chính sách cụ thể, các hành lang pháp lý phù hợp hướng tới
phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho người lao
động. Trong Bộ luật lao động của nước ta quy định: “Người lao động có quyền làm
việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và bất kỳ chỗ nào mà pháp luật không
cấm” (khoảng 1, điều 16) và điều 13 cũng ghi rõ: “Giải quyết việc làm, bảo đảm
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc
10
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của
nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội.”
e. Ảnh hưởng của tạo việc làm đến việc sử dụng nguồn nhân lực.
Ảnh hưởng của tạo việc làm đến việc sử dụng nguồn nhân lực.
Sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào vấn đề sử dụng có hiệu
quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực và vốn. Trong đó, việc sử dụng
nguồn nhân lực có vai trò quan trọng và quyết định đến sự phát triển đó, tạo việc
làm nhằm nâng cao hiệu quả nguồn nhân lực thông qua các hướng:
Tạo việc làm và giải quyết việc làm nhằm phân bổ lao động một cách hợp lý,
góp phần hoàn thiện hệ thống quản lý đưa đến một hệ thống lao động phù hợp với
cơ cấu hệ thống ngành nghề có sự phối hợp hài hòa giữa các bộ phận tổ chức, bố trí
lao động phù hợp với đặc điểm tính chất của công việc sẽ nâng cao năng suất lao
động cá nhân, giúp họ phát triển khả năng và sự sáng tạo của mình cho quá trình sản
xuất phát triển.
Tạo ra nhiều chỗ làm việc mới sẽ thu hút được nhiều lao động tham gia vào
quá trình sản xuất xã hội và sẽ giải quyết các vấn đề mang tính xã hội như : nâng
cao, cải thiện đời sống, hạn chế các hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
Tạo việc làm là một trong những động lực thúc đẩy nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực vì khi các công việc được tạo mới bao giờ cũng đòi hỏi một chuyên
môn kỹ thuật cao ở người lao động mà theo quy luật của quá trình tuyển dụng thì
người ứng cử viên cũng phải có một trình độ tương đương bởi thế cho nên con
người luôn có xu hướng tích lũy kiến thức trình độ lành nghề cho mình để có thêm
nhiều cơ hội tham gia vào các hoạt động kinh tế.
Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động.
Tạo việc làm là quá trình tạo ra những điều kiện cần thiết cho sự kết hợp giữa
tư liệu sản xuất, công cụ và sức lao động. Tạo việc làm cho người lao động giúp
phát huy tiềm lực sẵn có của từng đơn vị, địa phương, từng người lao động nhằm
tạo ra những công việc hợp lý và đầy đủ, đồng thời đem lại được thu nhập đảm bảo
thỏa mãn nhu cầu đời sống hàng ngày cho người lao động. Có thể nói tạo việc làm
luôn là vấn đề quan trọng, mang tính xã hội, có ý nghĩa lớn lao đối với từng người
lao động và toàn xã hội.
Tạo việc làm giúp khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tiềm năng
kinh tế, nhằm tránh lãng phí nguồn lực xã hội. Về mặt xã hội, tạo việc làm giúp con
người nâng cao vai trò của mình trong quá trình phát triển kinh tế, giảm thiểu được
tình trạng thất nghiệp trong xã hội. Đồng thời, người lao động có việc làm sẽ giúp
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc
11
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
giảm các tệ nạn xã hội như : trộm cắp, lừa đảo, nghiện hút, … và hạn chế được
những phát sinh tiêu cực do thiếu việc làm gây ra. Về mặt kinh tế, việc làm giúp con
người thỏa mãn được các nhu cầu về vật chất và tinh thần, giúp ổn định và nâng cao
đời sống của người lao động.
Tạo việc làm đáp ứng nhu cầu tìm việc, nhu cầu lao động của con người vì lao
động là phương tiện dể tồn tại chính của con người. Có thể nói, giải quyết và tạo
việc làm cho người lao động giúp cho họ tham gia được vào quá trình sản xuất của
xã hội, cũng là tiền đề giúp cho sự tồn tại và phát triển của đất nước.
Do đó, mọi chủ trương chính sách đúng đắn là phải phát huy cao độ khả năng
nguồn lực con người, nếu có sai p hạm thì nguồn lao động sẽ trở thành gánh nặng,
thậm chí gây trở ngại, tổn thất lớn cho nền kinh tế cũng như xã hội. Vì vậy một
quốc gia giải quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao động là thành công lớn trong
sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội chính trị của mình.
1.3. Sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất.
1.3.1. Đặc điểm của lao động bị thu hồi đất do quá trình CNH – HĐH.
Đặc điểm của người lao động bị thu hồi đất là một yếu tố khiến cho việc giải
quyết việc làm trở nên cần thiết. Với những người lao động bị thu hồi đất, đất đai
chính là tư liệu sản xuất, đã nơi giúp họ tạo ra được thu nhập, là điều kiện cần để họ
có thể sinh tồn . Người lao động khi bị thu hồi đất, không còn đất để tham gia vào
hoạt động sản xuất cũng tựa như họ mất đi quyền lợi của chính mình.
Ngoài ra, những lao động sau khi bị thu hồi đất họ rất khó chuyển đổi nghề
nghiệp. Một phần vì với phần lớn người lao động bị thu hồi đất quen với nghề nông.
Mất đất canh tác đồng nghĩa với việc họ mất nơi lao động hoạt động sản xuất.
Những lao động này thường quen với việc thuần nông, không có tay nghề, không có
trình độ. Để kiếm được việc làm, họ cần phải cạnh tranh với số lượng lao động
được đào tạo bởi các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề khá nhiều. Biết được sự
bất lợi của mình thế nhưng nhiều lao động lại không cố gắng khắc phục những yếu
kém, mà trở nên buông xuôi, không muốn nỗ lực trong việc nâng cao trình độ kiến
thức với mong muốn tìm được công việc mới tốt hơn. Ngoài ra, một phần lao động
bị thu hồi đất đã quá tuổi để có thể dễ dàng làm quen với công việc mới (khoảng 35
tuổi). Cùng với tâm lý lo sợ rủi ro, thất bại, lối tư duy “ăn chắc, mặc bền”, sản xuất
nhỏ lẻ manh mún càng làm cho cơ hội tìm việc của họ trở nên khó khăn hơn.
Phần lớn người lao động bị thu hồi đất là những người làm nghề nông. Một số
người sau khi bị thu hồi đất tuy diện tích đất bị thu hẹp, nhưng đa số vẫn cố gắng
tìm cách bám trụ với nghề nông như trồng lúa, chăm sóc hoa màu, chăn nuôi trâu,
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc
12
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
bò, lợn, gà để kiếm sống. Tuy nhiên, họ chỉ biết lao động theo những phương thức
đơn giản, chưa biết áp dụng những tiến bộ công nghệ mới, họ vẫn dựa nhiều vào
những kinh nghiệm lâu năm của mình đã sản xuất. Vì vậy, thu nhập của những
người lao động này sau khi bị thu hồi đất trở nên rất thấp, không đủ sống.
Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều người lao động sống ỷ lại vào những khoản tiền
trợ cấp đền bù đất. Phần lớn số tiền đền bù được người dân sử dụng vào việc sửa
sang, xây dựng nhà ở, mua sắm phương tiện đi lại, việc học tập của con cháu. Tuy
nhiên, rất ít gia đình dành tiền đền bù đầu tư cho việc học nghề của con cháu, cũng
như số gia đình đầu tư vào việc mở rộng sản xuất kinh doanh không nhiều.Nhiều
người biết ăn tiêu chứ không biết cách tạo việc làm như thế nào. Một số người chỉ
thích tìm những công việc nhàn hạ, ít bận rộn, không phải chịu nhiều áp lực.Vì vậy,
cần có những chính sách tạo việc làm và hỗ trợ cho người lao động.
Ngoài ra, việc thu hồi đất có một số ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của
người dân như ô nhiễm môi trường gây bất bình, lo lắng về sức khỏe của bản thân,
gia đình và cộng đồng. Đồng thời, nó tác phần không nhỏ đến sự du nhập của các tệ
nạn xã hội như ma túy, mại dâm, cờ bạc... Bởi với những người lao động bị thu hồi
đất sau khi bị mất việc làm trở nên vô công rỗi nghề. Hàng ngày, họ chỉ biết tìm
cách để hưởng thụ khoản tiền lớn đền bù đất mà Nhà nước đã giao cho. Chính vì
vậy, họ là những người dễ bị lôi kéo vào các vấn đề của xã hội, là một trong các tác
nhân gây nên những bất ổn của xã hội.
Ngoài ra, phần lớn nông dân bị thu hồi đất cảm thấy chưa thật hài lòng với
chính sách đền bù giải tỏa mặt bằng và hỗ trợ chuyển đổi việc làm, nguyên nhân là
do việc thu hồi đất kéo dài nhiều đợt dẫn đến việc tiền đền bù nhận được lẻ tẻ gây
khó khăn cho việc đầu tư, ổn định, phát triển sản xuất. Nhưng lý do cơ bản nhất là
tồn tại tình trạng thiếu công bằng trong công tác đền bù. Hiện nay, đứng giữa các
quy định chính sách cũ và mới, mức giá đền bù đã chênh nhau đáng kể. Nhiều
người dân bị thu hồi đất trước trở nên thiệt thòi.
1.3.2. Sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất.
Tạo việc làm cho người dân bị thu hồi đất là một nhân tố quan trọng cho sự
phát triển kinh tế của đất nước. Sự phát triển này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như
tài nguyên, vốn, lao động, công nghệ, trong đó việc sử dụng lao động là một nhân tố
quan trọng, nhất là đối với một nước nông nghiệp đang phát triển như Việt Nam.
Hiện nay, chúng ta đang có nhiều dự án phát triển, dẫn đến việc tồn tại một lượng
lớn người lao động sau khi bị thu hồi đất không có việc làm. Việc để không một lực
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc
13
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
lượng lớn lao động không sử dụng đến gây lãng phí tổn thất lớn cho xã hội, nhất là
đối với một đất nước đang trên đà phát triển như Việt Nam. Chính vì vậy, tạo việc
làm cho người lao động bị thu hồi đất là hoạt động đóng vai trò quan trọng đối với
xã hội, doanh nghiệp và bản thân chính người lao động.
a. Đối với xã hội.
Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, quốc gia nào cũng
muốn thoát ra khỏi tình trạng kinh tế nông nghiệp lạc hậu để chuyển sang nền kinh
tế công nghiệp, nhằm có được năng suất sản xuất tăng, đời sống của con người nâng
cao, từ đó mới có thể đưa được nền kinh tế của xã hội phát triển. Sự chuyển dịch cơ
cấu nền kinh tế tác động không nhỏ đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động. Khi đất
nước càng ngày càng áp dụng nhiều công nghệ khoa học kỹ thuật mới nhằm tạo ra
các hoạt động sản xuất mới, máy móc thay thế cho lao động, khi đó tình trạng thất
nghiệp sẽ xảy ra. Việc tạo việc làm là một yếu tố cần thiết nhằm giảm tình trạng thất
nghiệp, giúp giảm gánh nặng cho xã hội trong việc ổn định cuộc sống cho người lao
động. Đồng thời, tạo việc làm còn giúp cho chất lượng cuộc sống của người dân
được nâng cao, hạn chế được những vấn đề tiêu cực do những người lao động dư
thừa trong xã hội gây nên, đồng thời góp phần xóa đói giảm nghèo và giúp giải
quyết được các vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội.
b. Tác động đối với các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất còn giúp duy trì
sự tồn tại và phát triển cho các doanh nghiệp. Lao động là một yếu tố quan trọng
góp phần thúc đẩy sản xuất , càng nhiều lao động thì lượng sản phẩm được tạo ra
càng tăng, từ đó giúp các doanh nghiệp có thể phát triển và lớn mạnh. Nhất là đối
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn ít, quá trình sản xuất chủ yếu sử dụng nhiều
lao động hơn máy móc. Đồng thời, dù công nghệ có ngày càng tiến bộ, nhưng máy
móc cũng không thể tự hoạt động, mà phải dựa trên sự điều khiển của con người. Vì
vậy, trên thực tế, đối với các nước đang phát triển, các doanh nghiệp luôn luôn cần
tuyển các lao động có tay nghề, trình độ cao. Tuy nhiên, hiện nay, số lượng lao
động tuy đông, nhưng không đáp ứng được đủ yêu cầu do các nhà tuyển dụng đề ra.
Do đó, vẫn còn tồn tại việc các doanh nghiệp luôn trong tình trạng thiếu người,
nhưng lượng lao động dư thừa vẫn tiếp tục tăng.
c. Đối với người lao động bị thu hồi đất.
Tạo việc làm cho người lao động bị thu đất chính là biện pháp cải thiện giúp
người lao động sớm ổn định được đời sống cũng như góp phần nâng cao thu nhập
cho bản thân cũng như gia đình của lao động. Khi đó, ý thức của người lao động
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc
14
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
trong việc nâng cao trình độ, nhận thức tăng lên, biết đầu tư nhiều hơn vào đào tạo
cho tầng lớp con em. Đồng thời, điều này cũng giúp giảm sự phân cách giàu nghèo
giữa các tầng lớp trong xã hội.
Hiện nay, đất nước đang ngày càng phát triển, rất cần đến sự đóng góp không
nhỏ của lực lượng lao động. Vì vậy, việc tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi
đất là rất cần thiết. Người lao động bị thu hồi đất chủ yếu là nông dân bị thu hồi đất
canh tác. Đối với một nước vẫn thuần nông như nước ta, nếu người dân bị thu hồi
đất canh tác, trở nên thất nghiệp, sự phát triển kinh tế có thể bị chững lại, mọi bước
đi đều trở nên chông chênh. Nhà nước cần tạo ra các chính sách giáo dục đào tạo,
đặc biệt hướng vào đối tượng thành niên, bởi đây chính là lực lượng nòng cốt,là
xương sống để phát triển nền kinh tế hiện nay. Nếu đẩy mạnh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa mà không gắn liền với quyền lợi và việc làm của người lao động
bị thu hồi đất thì sẽ tạo ra sự mất ổn định trong xã hội, làm chậm tiến trình công
nghiệp hóa. Việc dựa lao động dư thừa sau khi bị thu hồi đất, sử dụng đúng chỗ,
đúng sách giúp chúng ta có thể tăng năng suất sản xuất, tạo sự đi lên về kinh tế.
1.4.
Kinh nghiệm tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất ở một số địa
phương.
a. Thành phố Hồ Chí Minh.
Kể từ cuối năm 1993, thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành thực hiện triển
khai nhiều dự án xây dựng các khu công nghiệp, chế xuất để nhằm mục đích thu hút
các nguồn đầu tư, di dời các cơ sở sản xuất ra khỏi khu dân cư đông đúc nhằm
tránh tình trạng ô nhiễm, cải thiện lại hệ thống giao thông ,… Tính từ năm 1998,
thành phố đã triển khai bồi thường và giải phóng mặt bằng 721 dự án, tổng diện tích
thu hồi hơn 201,8 triệu m2. Quá trình thu hồi đất đã ảnh hưởng lớn đến cuộc sống
của người dân bị thu hồi đất. Thành phố đã có nhiều chính sách đền bù và hỗ trợ
cho người dân, tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập như giá đền bù thấp, không thỏa
đáng,, gây nhiều xáo trộn, bức xúc đến đại bộ phận người dân có đất bị thu hồi.
Trước tình hình này, thành phố đã thực hiện một số giải pháp, trong đó tập trung
vào công tác bồi thường, hỗ trợ đào tạo và giải quyết việc làm cho người dân bị thu
hồi đất. Bên cạnh công tác bồi thường đất đai, thành phố còn thực hiện nhiều chính
sách hỗ trợ cho người dân.
Đối với các hộ nông dân sau khi bị thu hồi đất nhưng vẫn còn đất canh tác,
thành phố hỗ trợ cho vay vốn để phát triển sản xuất với mức vay lãi theo chương
trình 419 (hộ dân thường được hỗ trợ 4% lãi suất vay/năm; hộ diện xoá đói giảm
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc
15
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
nghèo được hỗ trợ 7% lãi suất/năm). Đối với hộ bị thu hồi dưới 30% diện tích,
thành phố hỗ trợ kinh phí học nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn với mức
300.000 đồng/người/tháng và không quá 1,5 triệu đồng trong một khoá đào tạo.
Những hộ dân không còn đất sản xuất phải chuyển sang ngành nghề khác thì được
hỗ trợ cho vay tín dụng từ 1 triệu đến 20 triệu đồng/hộ, lãi vay 6%/năm. Hỗ trợ,
khoanh nợ lãi vay ngân hàng cho những hộ bị thu hồi hết đất, không thể tiếp tục sản
xuất để trả nợ ngân hàng. Thành phố cũng đang xây dựng đề án thành lập công ty
với sự góp vốn bằng tiền bồi thường của nông dân bị thu hồi đất. Xây dựng đề án
nhà ở xã hội trên địa bàn giai đoạn 2006 – 2010. Thành phố cũng lập ra quỹ hỗ trợ
đào tạo và giải quyết việc làm cho ngưòi dân có đất bị thu hồi (chương trình 156)
với nguồn vốn ban đầu 50 tỉ đồng. Nguồn vốn gồm: nguồn ngân sách thành phố,
đóng góp của chủ đầu tư sử dựng đất của người dân, đóng góp tự nguyện của các cá
nhân, tổ chức, kể cả tổ chức phi chính phủ và các nguồn tín dụng khác được ngân
sách thành phố cấp bù lãi suất. Người bị thu hồi đất sẽ được quỹ hỗ trợ để theo học
văn hoá, học nghề, đầu tư sản xuất, kinh doanh, đi xuất khẩu lao động… Theo đó,
học sinh học phổ thông và đại học sẽ được hỗ trợ học phí và tiền đóng góp xây
dựng cơ sở vật chất trường học, thời gian hỗ trợ không quá 3 năm. Học sinh học
nghề được hỗ trợ tối đa 3 triệu đồng/người đối với khoá đào tạo trung hạn và không
quá 250 nghìn đồng/người/tháng đối với khoá ngắn hạn. Đối với vay vốn để sản
xuất, kinh doanh, mỗi lao động được vay không quá 10 triệu đồng, mỗi hộ không
quá 30 triệu đồng. Riêng đối với trường hợp đi xuất khẩu lao động thì được vay
không quá 50 triệu đồng/hộ. Lãi suất cho vay ưu đãi là 2%/năm (0,17%/tháng).
Tuy nhiên, trong thời đại hiện nay, tốc độ phát triển các khu công nghiệp, khu
dân cư tại nông thôn sẽ càng ngày càng tăng. Vì vậy, để đảm bảo được quyền lợi
của những người lao động bị thu hồi đất, mất việc làm cũng như phương án sản
xuất, nhà nước cần đưa ra nhiều hình thức hỗ trợ phù hợp hơn cho người dân được
lựa chọn.
b. Thành phố Đà Nẵng.
Trong thời đại công nghiệp hóa, Đà Nẵng đã tiến hành triển khai quy hoạch, giải
phóng mặt bằng đối với một số nơi trong thành phố. Đây là thành phố có diện tích
đất nông nghiệp giảm rất nhanh do quá trình đô thị hóa. Nhiều người dân mất đất
sản xuất nhưng chưa tìm được việc làm, hoặc không thể chuyển đổi ngành nghề đã
khiến lực lượng lao động trong thành phố trở nên dư thừa. Nhiều người dân phải
vào tận Quảng Nam để thuê đất trồng trọt. Để giải quyết vấn đề này, UBND thành
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc
16
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: PGS. TS Nguyễn Ngọc Sơn
phố đã triển khai đề án: “Hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm, ổn
định đời sống đối với đối tượng bị thu hồi đất sản xuất, di dời giải toả trên địa bàn”.
Về chính sách học nghề, thành phố hỗ trợ triền ăn trưa cho 124 học sinh thuộc
diện này với mức 5000đ/học sinh/ngày thực học, mức hỗ trợ mỗi học sinh không
quá 120.000 đ/tháng (hỗ trợ tối đa không quá 6 tháng); hỗ trợ kinh phí đào tạo cho
doanh nghiệp tiếp nhận lao động di dời giải toả là 1 tỷ 500 triệu đồng; trích từ ngân
sách hơn 1 tỷ 480 triệu đồng để dạy nghề ngăn hạn không thu học phí đối với 1.250
đối tượng chính sách xã hội, trong đó có đối tượng bị hộ thu hồi đất; Chương trình
mục tiêu quốc gia về hỗ trợ dạy nghề cho nông dân của thành phố đã dành 700 triệu
đồng chi dạy nghề cho hơn 800 nông dân bị thu hồi đất.
Về chính sách hỗ trợ học phí, đến nay, thành phố đã thực hiện miễn giảm học
phí cho gần 2.000 em học sinh thuộc diện này. Thành phố Đà Nẵng đã trình HĐND
thành phố đề án: “Quỹ giải quyết việc làm từ ngân sách thành phố”, dự kiến 6 tỷ
đồng/năm uỷ thác cho Ngân hàng Chính sách xã hội cho vay ưu đãi để giải quyết v
iệc làm cho các đối tượng bị mất đất do di dời giải toả.Riêng quỹ quốc gia hỗ trợ
việc làm , trong 5 tháng dầu năm 2006, đã cho 19 hộ trong diện di dời, giải toả vay
gần 350 triệu, giải quyết việc làm mới cho 29 lao động bị mất đất. Ngoài ra, thành
phố cũng tạo điều kiện và hỗ trợ cho nông dân bị mất đất, thật sự không có điều
kiện chuyển đổi nghề để hình thành vùng chuyên canh rau an toàn, với quy mô mỗi
vùng từ 30 - 50 ha tại huyện Hỏa Vang và các quận: Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu.
c. Thành phố Hải Phòng.
Hải Phòng là thành phố lớn thứ 3 trong cả nước, áp lực về nhu cầu việc làm
của người dân độ tuổi lao động cũng không ngừng tăng. Tuy nhiên, mỗi năm, thành
phố vẫn thực hiện chuyển đổi hàng nghìn hécta đất nông nghiệp cho công nghiệp và
các mục đích khác. Đồng nghĩa với việc đó, hàng vạn người lao động bị mất việc
làm. Ước tính trong vòng 10 năm trở lại đây, đã có hàng vạn ha đất nông nghiệp
không thể trồng cấy vì phải nhường chỗ cho các dự án mới được đầu tư chẳng liên
quan gì đến trồng lúa. Theo số liệu thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Hải Phòng, chỉ tính từ năm 2003 đến tháng 7/2008, địa phương đã thu hồi gần
5.000 ha đất nông nghiệp cho 625 dự án công nghiệp, đô thị, thương mại, với tổng
số hộ dân phải di dời gần 49.000 hộ, bằng hơn 64.000 nhân khẩu. Các huyện An
Dương, Kiến Thụy (cũ), Thủy Nguyên có nhiều diện tích đất nông nghiệp bị thu
hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng nhất. Được biết, đi cùng với thu hút đầu tư, Hải
Phòng cũng đã có chiến lược về tạo việc làm cho người lao động. Theo đó khuyến
Họ tên: Lê Thị Hồng Ngọc
17
Lớp: Kế hoạch 48A