Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Hủy phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật việt nam...

Tài liệu Hủy phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật việt nam

.PDF
77
108
65

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƢ PHÁP TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI NGUYỄN THỊ PHƢỢNG HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHAN CHÍ HIẾU HÀ NỘI - 2013 LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Sau đại học trường Đại học Luật Hà Nội đã trang bị cho tôi kiến thức và tạo điều kiện cho tôi rèn luyện và phấn đấu trong thời gian học tập tại trường và đặc biệt tới thầy, TS. Phan Chí Hiếu đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và viết luận văn. Tiếp đến, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới Luật sư Nguyễn Mạnh Dũng Văn Phòng Luật sư Tư vấn Độc lập, anh Vũ Ánh Dương - Tổng Thư ký Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, Luật sư Đặng Xuân Hợp - Công ty Luật Allens Arthur Robinson và các anh, chị công tác tại Tòa kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tận tình giúp đỡ tôi trong việc hoàn thành luận văn này. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Phượng MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU Chương 1: 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỦY PHÁN 7 QUYẾT TRỌNG TÀI VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI 1.1. Khái quát chung về hủy phán quyết trọng tài 7 1.1.1. Phán quyết trọng tài và hủy phán quyết trọng tài 7 1.1.2. Ý nghĩa của việc hủy phán quyết trọng tài 13 1.2. Pháp luật về hủy phán quyết trọng tài 14 1.2.1. Khái niệm pháp luật về hủy phán quyết trọng tài 14 1.2.2. Nội dung của pháp luật về hủy phán quyết trọng tài 15 1.3. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về 23 hủy phán quyết trọng tài 1.3.1. Giai đoạn 1: Trước khi có Pháp lệnh Trọng tài thương mại 24 1.3.2. Giai đoạn 2: Từ khi có Pháp lệnh Trọng tài thương mại đến 25 trước khi có Luật Trọng tài thương mại 1.3.3. Giai đoạn 3: Từ khi có Luật Trọng tài thương mại đến nay Chương 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT 26 29 NAM VỀ HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI 2.1. Quy định về thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài 29 2.2. Quy định về căn cứ hủy phán quyết trọng tài 34 2.2.1. Căn cứ “Thỏa thuận trọng tài vô hiệu” 35 2.2.2. Căn cứ “Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản 39 của pháp luật Việt Nam” 2.3. Quy định về thủ tục hủy phán quyết trọng tài 42 2.3.1. Sự vắng mặt của bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài 43 2.3.2. Thời hạn chuyển hồ sơ cho viện kiểm sát nhân dân 44 2.3.3. Tài liệu kèm theo đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài 46 2.3.4. Xem xét lại quyết định của tòa án về hủy phán quyết trọng tài 47 2.4. Quy định về hậu quả hủy phán quyết trọng tài 50 Chương 3: 54 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI 3.1. Những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về 54 hủy phán quyết trọng tài 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về hủy phán quyết trọng tài phải được 54 thực hiện đồng bộ với việc hoàn thiện các quy định pháp luật khác có liên quan 3.1.2. Pháp luật về hủy phán quyết trọng tài phải bảo đảm nguyên 55 tắc quyền tự định đoạt của các bên 3.1.3. Pháp luật về hủy phán quyết trọng tài phải đảm bảo mức độ 55 tương thích với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia 3.1.4. Pháp luật về hủy phán quyết trọng tài phải đảm bảo tính 56 minh bạch và ổn định 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật Việt 57 Nam về hủy phán quyết trọng tài 3.2.1. Về thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài 57 3.2.2. Về một số căn cứ hủy phán quyết trọng tài 58 3.2.3. Về thủ tục hủy phán quyết trọng tài 61 3.2.4. Về hậu quả hủy phán quyết trọng tài 62 KẾT LUẬN 64 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 66 PHỤ LỤC 72 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Công ước New York Công ước về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài năm 1958. Luật Mẫu UNCITRAL Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế của Uỷ ban Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại Quốc tế ban hành ngày 21/6/1985 (sửa đổi, bổ sung ngày 07/7/2006). 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, tồn tại bốn phương thức giải quyết tranh chấp thương mại cơ bản, bao gồm: thương lượng, trung gian hòa giải, trọng tài và tòa án. Phương thức trọng tài có nhiều ưu điểm nổi bật như giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng, hiệu quả, đảm bảo bí mật cho các bên tranh chấp… Giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài ngày càng trở nên phổ biến ở các nước, nhất là trong các tranh chấp thương mại quốc tế [14, tr. 37]. Thực tiễn giải quyết tranh chấp trên thế giới cho thấy trọng tài ngày càng “đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp giữa các thương nhân” [45, tr. 9]. Ở Việt Nam, trong quá trình kinh doanh, các doanh nghiệp thường phát sinh tranh chấp và số lượng tranh chấp ngày càng tăng. Theo thống kê của các cơ quan Tư pháp, tại Tòa kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, từ năm 2005 đến nay năm nào số lượng vụ việc năm sau cũng tăng gấp đôi năm trước [21]. Theo Tổng cục Thống kê, tại thời điểm ngày 01/01/2012 cả nước có 448.393 doanh nghiệp [44]. Trong bối cảnh kinh doanh cạnh tranh và nhiều doanh nghiệp như trên, số vụ tranh chấp ở nước ta ngày càng nhiều. Đồng thời, khi hội nhập kinh tế quốc tế thì các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài ngày càng nhiều và phức tạp. Việc phát huy hiệu quả của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được Đảng và Nhà nước ta quan tâm trong những năm gần đây. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 chỉ đạo: “Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài”. Nhằm khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại và khuyến khích giải quyết tranh 2 chấp thông qua trọng tài, ngày 17/6/2010 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Trọng tài thương mại. Mặc dù số lượng tranh chấp tăng nhanh, phương thức trọng tài có nhiều ưu việt và được chính sách của Đảng và Nhà nước rất quan tâm trong những năm gần đây nhưng hiện nay vẫn rất ít tranh chấp được đưa ra giải quyết bằng trọng tài. Số doanh nghiệp đã từng lựa chọn trọng tài làm phương thức giải quyết tranh chấp chỉ chiếm 16% số doanh nghiệp được khảo sát [20, tr. 1314]. Từ năm 1993 đến năm 2012, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam chỉ thụ lý bình quân khoảng 31 vụ/năm (xem Phụ lục 1). Thực tế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có việc hủy phán quyết trọng tài. Luật Trọng tài thương mại đã quy định cụ thể về vấn đề hủy phán quyết trọng tài nhưng thực tế áp dụng Luật Trọng tài thương mại thời gian qua có nhiều vướng mắc. Nhiều phán quyết trọng tài bị hủy không có căn cứ, gây ảnh hưởng đến hoạt động trọng tài, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Theo thống kê của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, trong số 457 vụ tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2012 thì có 33 phán quyết trọng tài bị yêu cầu tòa án hủy (chiếm 7,22%). Trong số 33 phán quyết trọng tài bị yêu cầu hủy thì 11 phán quyết trọng tài đã bị tòa án hủy (chiếm 33,33%). Tại phiên họp tiến hành chất vấn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 22/3/2013, đại biểu Trương Trọng Nghĩa (Thành phố Hồ Chí Minh) đã chất vấn Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về việc gần đây tòa án hủy phán quyết trọng tài không có căn cứ pháp lý đầy đủ, không thỏa đáng, gây lo ngại cho các doanh nghiệp, ảnh hưởng bất lợi đối với môi trường kinh doanh và đầu tư của Việt Nam. Tình trạng trên đòi hỏi cần nghiên cứu làm rõ nguyên nhân để hoàn thiện pháp luật. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Hủy phán quyết trọng tài theo quy định của pháp 3 luật Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn với mong muốn đóng góp phần nào vào việc đáp ứng đòi hỏi của thực tế hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Trong thời gian qua có một số bài viết đăng trên các báo và tạp chí, một số công trình nghiên cứu liên quan đến những tồn tại, hạn chế trong pháp luật về hủy phán quyết trọng tài thương mại. Có thể kể đến những công trình nghiên cứu như Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại theo Luật Trọng tài thương mại (Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Phan Chân Nhân năm 2012); Tác động của những quy định mới trong Luật Trọng tài thương mại tới hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài ở Việt Nam (Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Thanh Huyền năm 2012); Luật Trọng tài thương mại năm 2010 - Bước phát triển mới của pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam (Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Hồng Hạnh năm 2011); Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế (Luận án tiến sĩ luật học của Trần Minh Ngọc năm 2009); Hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế (Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Đình Thơ); Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại (Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Yến năm 2005); Pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài (Luận văn thạc sĩ luật học của Phạm Thị Phương Thủy năm 2004). Ngoài ra, có thể kể đến các bài viết như Huỷ quyết định trọng tài: Chế định còn nhiều bất cập trong pháp luật Việt Nam của Thạc sĩ Đặng Hoàng Oanh trên trang web của Bộ Tư pháp; Thủ tục giải quyết các yêu cầu liên quan đến hoạt động trọng tài thương mại Việt Nam của Tiến sĩ Phan Chí Hiếu trên Tạp chí Luật học năm 2005, Số đặc san về Bộ luật Tố tụng dân sự; Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại theo 4 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 của Nguyễn Thị Yến trên Tạp chí Luật học số 2/2005… Đánh giá một cách tổng quát thì có thể nhận định rằng các công trình nghiên cứu và bài viết nêu trên chỉ đề cập đến những hạn chế, tồn tại của Pháp lệnh Trọng tài thương mại về hủy phán quyết trọng tài; hoặc chỉ xem xét một vài vấn đề cụ thể, chưa đề cập một cách toàn diện đến hủy phán quyết trọng tài theo quy định của Luật Trọng tài thương mại. Vì vậy, đến nay đề tài nghiên cứu này vẫn là vấn đề mới trong khoa học pháp lý Việt Nam, cần phải được quan tâm và tiếp tục giải quyết. Trên cơ sở kế thừa những đóng góp khoa học của các công trình nghiên cứu trước, luận văn tiếp tục giải quyết những vấn đề còn thiếu sót về lý luận, phân tích những mặt hạn chế của các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về hủy phán quyết trọng tài và đề ra một số giải pháp hoàn thiện. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn là tiếp tục làm rõ các vấn đề lý luận về hủy phán quyết trọng tài, tìm hiểu các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về hủy phán quyết trọng tài; chỉ ra những hạn chế trong những quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về hủy phán quyết trọng tài; góp phần hoàn thiện pháp luật hiện hành của Việt Nam về hủy phán quyết trọng tài. Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về hủy phán quyết trọng tài; khái quát quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về hủy phán quyết trọng tài. - Phân tích, đánh giá một cách khoa học các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về hủy phán quyết trọng tài. - Chỉ ra những điểm hạn chế, chưa phù hợp của các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về hủy phán quyết trọng tài. 5 - Đề xuất một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện một số quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về hủy phán quyết trọng tài. 4. Phạm vi nghiên cứu Pháp luật về hủy phán quyết trọng tài có nội dung rất rộng. Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ luật học, đề tài này giới hạn phạm vi nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, tập trung chủ yếu vào Luật Trọng thương mại và các văn bản hướng dẫn thi hành, về hủy phán quyết của trọng tài Việt Nam được tuyên tại Việt Nam. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, luận văn sử dụng phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, mô tả. 6. Những đóng góp mới của luận văn Luận văn có các đóng góp mới như sau: - Tiếp tục làm rõ một số vấn đề lý luận về hủy phán quyết trọng tài. - Chỉ ra những điểm hạn chế, chưa phù hợp của các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về hủy phán quyết trọng tài trong mối tương quan với thực tiễn áp dụng, sự liên hệ với pháp luật trọng tài của một số nước và thông lệ quốc tế. - Đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về hủy phán quyết trọng tài, cụ thể là những quy định về thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, một số căn cứ hủy phán quyết trọng tài, thủ tục hủy phán quyết trọng tài và hậu quả hủy phán quyết trọng tài. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các chữ viết tắt và phụ lục, luận văn gồm ba chương như sau: 6 Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về hủy phán quyết trọng tài và pháp luật về hủy phán quyết trọng tài. Chương 2: Thực trạng các quy định pháp luật Việt Nam về hủy phán quyết trọng tài. Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về hủy phán quyết trọng tài. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI 1.1. Khái quát chung về hủy phán quyết trọng tài 1.1.1. Phán quyết trọng tài và hủy phán quyết trọng tài Trong quá trình tố tụng trọng tài, hội đồng trọng tài có quyền ban hành nhiều quyết định khác nhau như các quyết định về tố tụng, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài… Các quyết định nêu trên được gọi chung là quyết định trọng tài và được thi hành. Các quyết định trọng tài có thể được phân thành ba loại đó là: quyết định cuối cùng, quyết định từng phần và tạm thời, và quyết định dựa trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên. Quyết định cuối cùng là quyết định do hội đồng trọng tài ban hành, giải quyết mọi vấn đề (hoặc vấn đề còn lại) đã được đưa ra trọng tài. Quyết định từng phần và tạm thời là quyết định do hội đồng trọng tài ban hành để giải quyết một hoặc một số vấn đề riêng rẽ trong quá trình trọng tài trước khi ban hành quyết định cuối cùng. Quyết định trên cơ sở thỏa thuận là quyết định do hội đồng trọng tài đưa ra trên cơ sở thỏa thuận hòa giải của các bên tranh chấp đạt được trong khi đang tiến hành tố tụng trọng tài. Có thể phân biệt quyết định trọng tài cuối cùng với các loại quyết định trọng tài khác ở những điểm như sau: “Quyết định trọng tài cuối cùng sẽ giải quyết tất cả các vấn đề (hoặc tất cả các vấn đề còn lại) mà đã được đưa ra trong trọng tài”; quyết định trọng tài cuối cùng là quyết định trọng tài được đưa ra “sau cùng”; “quyết định trọng tài cuối cùng thường là kết quả của quá trình tố tụng trọng tài được tiến hành từ đầu tới cuối”; quyết định trọng tài cuối cùng “chấm dứt thẩm quyền của hội đồng trọng tài” [35, tr. 423]. Một 8 khi quyết định cuối cùng được ban hành, hội đồng trọng tài sẽ hết trách nhiệm vì đã hoàn thành nhiệm vụ của mình [41, tr. 142]. Luật Mẫu UNCITRAL và pháp luật trọng tài của nhiều nước trên thế giới đều có sự phân biệt các quyết định của hội đồng trọng tài. Theo đó, “quyết định của hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài được gọi là phán quyết trọng tài” [46]. Vậy “phán quyết trọng tài” là gì? Theo Từ điển Tiếng Việt, phán quyết được hiểu là “quyết định để mọi người phải tuân theo” [28, tr. 983]. Theo Đại từ điển kinh tế thị trường, “phán quyết trọng tài là quyết định mà trọng tài viên hoặc cơ quan trọng tài, theo trình tự luật định, sau khi xét xử, đưa ra đối với vụ việc đôi bên đương sự tranh chấp” [29, tr. 1995]. Hiện nay, trên thế giới chưa có một định nghĩa chung về thuật ngữ “phán quyết trọng tài”. Tại các công ước quốc tế về trọng tài như Công ước New York hay Luật Mẫu UNCITRAL cũng không có định nghĩa chung về thuật ngữ này. Công ước New York, là công ước điều chỉnh việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài, chỉ đưa ra định nghĩa về phán quyết trọng tài như sau: Thuật ngữ “các phán quyết trọng tài” bao gồm không chỉ những phán quyết đưa ra bởi các trọng tài viên được chỉ định cho từng vụ mà còn bao gồm các phán quyết đưa ra bởi các tổ chức trọng tài thường trực được các bên đưa vụ việc ra giải quyết. Ở Việt Nam, phán quyết trọng tài được định nghĩa là quyết định của hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài (khoản 10 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại). Tóm lại, có thể đưa ra khái niệm khái quát về phán quyết trọng tài thương mại như sau: Phán quyết trọng tài thương mại là quyết định của hội đồng trọng tài thương mại giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp giữa các bên tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài, ràng buộc các bên tranh chấp phải thực hiện. 9 Phán quyết trọng tài thương mại (dưới đây gọi là phán quyết trọng tài) có một số đặc điểm sau đây: Thứ nhất, phán quyết trọng tài là quyết định giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài của hội đồng trọng tài: Quá trình giải quyết vụ tranh chấp tại trọng tài thường được tính từ thời điểm trung tâm trọng tài nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn đối với trường hợp tranh chấp được giải quyết tại trung tâm trọng tài hoặc tính từ khi bị đơn nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn đối với trường hợp tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài vụ việc đến khi trọng tài họp phiên cuối cùng đưa ra quyết định về giải quyết tranh chấp. Kết thúc quá trình đó, một phán quyết trọng tài giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp sẽ được đưa ra. Phán quyết trọng tài thông thường sẽ là “kết quả của một quá trình tranh luận thấu đáo” của hội đồng trọng tài…, “nghĩa là nó giải quyết tận gốc mọi vấn đề và nó có tính ràng buộc đối với các bên” [26, tr. 47-53]. Khi phán quyết trọng tài được đưa ra đồng nghĩa với việc vụ tranh chấp được giải quyết toàn bộ và thủ tục trọng tài chấm dứt. Phán quyết trọng tài là sản phẩm cuối cùng của quá trình tố tụng trọng tài, kết thúc quá trình tố tụng. Về hình thức, phán quyết trọng tài tạo ra một sự kiện pháp lý mà theo đó tranh chấp chấm dứt. Về nội dung, phán quyết trọng tài đưa ra các kết luận về tranh chấp, quy định quyền và nghĩa vụ mà các bên tham gia tranh chấp phải thực hiện. Cách trình bày phán quyết trọng tài tuân theo một quy định chung về hình thức văn bản cũng như nội dung theo quy định của pháp luật. Pháp luật trọng tài của nhiều nước như Nga, Singapore, Việt Nam… quy định phán quyết phải được lập thành văn bản. Trên cơ sở quy định chung về nội dung và hình thức phán quyết trọng tài, mỗi trung tâm trọng tài hay mỗi hội đồng 10 trọng tài vụ việc có thể có những luận giải, trình bày khác nhau nhưng bắt buộc phải tuân theo quy định chung đó. Thứ hai, phán quyết trọng tài buộc các bên tranh chấp phải thực hiện: Phán quyết trọng tài là chung thẩm. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Điều này có nghĩa phán quyết trọng tài không bị các bên tranh chấp kháng cáo trước bất kỳ một tòa án hay tổ chức nào. Phán quyết trọng tài cũng không bị cơ quan nào kháng nghị. Tuy nhiên, nếu có đủ bằng chứng cho rằng phán quyết đó thuộc một trong các trường hợp hủy phán quyết trọng tài được pháp luật quy định thì có thể yêu cầu tòa án có thẩm quyền hủy. Tại Điều 34 Bản Quy tắc trọng tài UNCITRAL ngày 15/12/1976 (sửa đổi, bổ sung ngày 06/12/2010) của Uỷ ban Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại Quốc tế quy định: “Phán quyết trọng tài phải được lập bằng văn bản và là chung thẩm và ràng buộc các bên, các bên cam kết thi hành phán quyết không chậm trễ”. Ở Việt Nam, khoản 5 Điều 4 Luật Trọng tài thương mại quy định: “Phán quyết trọng tài là chung thẩm”. Các trung tâm trọng tài của Việt Nam khi xây dựng bản quy tắc tố tụng trọng tài của mình cũng khẳng định giá trị chung thẩm của phán quyết. Tại Điều 31 Bản quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam quy định “Quyết định trọng tài là chung thẩm, có hiệu lực kể từ ngày công bố. Các bên phải thi hành quyết định trọng tài theo quy định của pháp luật”. Việc phán quyết của trọng tài là chung thẩm tạo điều kiện cho tranh chấp được giải quyết một cách nhanh chóng, tiết kiệm thời gian và chi phí cho các bên đương sự. Các trường hợp hủy phán quyết trọng tài do có sai sót liên quan đến thủ tục tố tụng ít khi xảy ra. Để một phán quyết trọng tài đạt được 11 tính hiệu lực chung thẩm như trên, phán quyết trọng tài phải là kết quả của một quá trình giải quyết khách quan và tuân theo các quy định của pháp luật. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì có hai loại phán quyết trọng tài là phán quyết của trọng tài trong nước (hay trọng tài Việt Nam) và phán quyết của trọng tài nước ngoài. Phán quyết của trọng tài nước ngoài là phán quyết do trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc ở trong lãnh thổ Việt Nam để giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận lựa chọn. Phán quyết trọng tài có thể bị tòa án có thẩm quyền hủy. Vậy “hủy phán quyết trọng tài” là gì? Theo Từ điển Tiếng Việt, “hủy” có nghĩa là “làm cho không còn tồn tại hoặc không còn có giá trị nữa” [28, tr. 608]. Hủy một phán quyết trọng tài là việc tòa án có thẩm quyền tuyên bố phán quyết đó không có giá trị toàn bộ hoặc một phần. Nếu một phán quyết bị tòa án có thẩm quyền hủy thì thông thường phán quyết đó bị coi là không có hiệu lực và do đó không thể thi hành không chỉ bởi tòa án nơi tiến hành trọng tài mà cả tòa án quốc gia ở nơi khác [35, tr. 489]. Thủ tục hủy phán quyết trọng tài của tòa án không phải là thủ tục xét xử lại vụ kiện. Trong quá trình xem xét yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, tòa án không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp, mà chỉ đối chiếu với các trường hợp hủy phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật để ra quyết định. Tòa án sẽ ra quyết định hủy phán quyết trọng tài trong trường hợp pháp luật quy định phán quyết trọng tài bị hủy. Ngược lại, tòa án sẽ ra quyết định không hủy phán quyết trọng tài nếu lý do bên yêu cầu đưa ra không rơi vào trường hợp pháp luật quy định hủy phán quyết trọng tài. Tòa án ở nhiều quốc gia đã làm rõ rằng thủ tục hủy phán quyết trọng tài không phải là thủ tục phúc thẩm trong đó các bằng chứng được đánh giá lại và sự đúng đắn của quyết định về nội dung tranh 12 chấp của hội đồng trọng tài được xem xét... Tòa án không xem lại nội dung vụ tranh chấp [64]. Xung quanh việc quy định hủy phán quyết trọng tài của tòa án cũng có những quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, xuất phát từ nguyên tắc phán quyết trọng tài là chung thẩm nên khi hội đồng trọng tài đưa ra phán quyết cuối cùng thì phán quyết này sẽ có hiệu lực thi hành ngay, các bên không được yêu cầu tòa án xem xét lại phán quyết. Hơn nữa, hội đồng trọng tài là những người do chính các bên tranh chấp lựa chọn nên các bên phải có nghĩa vụ tôn trọng và thi hành phán quyết của họ. Việc các bên có quyền yêu cầu tòa án hủy phán quyết trọng tài nghĩa là phán quyết của trọng tài dù là chung thẩm, vẫn bị hủy bỏ bởi tòa án và tranh chấp dù các bên có thỏa thuận giải quyết tại trọng tài, thì sau đó họ vẫn có thể đưa ra tòa án. Điều này đi ngược lại với nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là chung thẩm và ngược lại với thỏa thuận của các bên là lựa chọn trọng tài chứ không phải tòa án. Ngược lại với quan điểm trên, có quan điểm lại ủng hộ việc đưa ra cơ chế tòa án có quyền hủy phán quyết của trọng tài. Cơ chế này làm yên lòng các bên tranh chấp vì nếu họ bị "phản bội" thì họ đã có tòa án ra tay giúp họ [19]. Hơn nữa, khi xem xét hủy phán quyết trọng tài, tòa án chỉ xem xét vụ việc về mặt thủ tục, nghĩa là chỉ kiểm tra và đối chiếu các giấy tờ với quy định của pháp luật chứ không xét xử lại về nội dung vụ việc nên không hề vi phạm nguyên tắc phán quyết trọng tài là chung thẩm. Cơ chế này “đã góp phần hạn chế sự tùy tiện trong hoạt động xét xử của trọng tài viên, làm cho họ phải khách quan, vô tư trong khi hành nghề và việc lựa chọn phương thức giải quyết bằng trọng tài sẽ trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà kinh doanh” [19]. Cơ chế hủy phán quyết trọng tài được các quốc gia áp dụng đối với các phán quyết trọng tài trong nước. Đối với phán quyết trọng tài nước ngoài, các 13 quốc gia sẽ không giải quyết việc yêu cầu hủy mà chỉ có thể xem xét trên góc độ công nhận và cho thi hành quyết định trọng tài tại nước họ. Ví dụ, ở Pháp, tòa án chỉ can thiệp để hủy nếu phán quyết trọng tài được tuyên trên lãnh thổ của Pháp [11, tr. 39]. Pháp luật Việt Nam có cơ chế điều chỉnh khác nhau đối với phán quyết của trọng tài nước ngoài và phán quyết của trọng tài Việt Nam. Đối với phán quyết của trọng tài nước ngoài, chúng ta quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự và Công ước New York (lúc này tòa án có thẩm quyền công nhận hay không công nhận phán quyết trọng tài). Đối với phán quyết trọng tài trong Luật Trọng tài thương mại, chúng ta có quy định về thi hành phán quyết trọng tài mà không có thủ tục công nhận và cho thi hành nhưng phán quyết trọng tài có thể bị yêu cầu hủy tại tòa án (lúc này tòa án có thẩm quyền để quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài) [10]. Điều đó có nghĩa, Việt Nam không áp dụng thủ tục công nhận và cho thi hành mà áp dụng cơ chế hủy đối với phán quyết của trọng tài Việt Nam. Nếu phán quyết của trọng tài Việt Nam không bị tòa án tuyên hủy theo yêu cầu của một trong các bên tranh chấp, hoặc không bị một trong các bên tranh chấp yêu cầu tòa án hủy trong thời hạn quy định thì phải được thi hành. Đối với phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, cơ chế công nhận và cho thi hành quyết định trọng tài nước ngoài tại Việt Nam sẽ được áp dụng, chứ không theo cơ chế hủy phán quyết trọng tài như đối với trọng tài Việt Nam. 1.1.2. Ý nghĩa của việc hủy phán quyết trọng tài Khi chọn phương thức trọng tài, các bên tranh chấp mong muốn có kết quả giải quyết là một quyết định chung thẩm và ràng buộc các bên. Tố tụng trọng tài không có nhiều giai đoạn xét xử, không có thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Nguyên tắc xét xử của trọng tài là độc lập, phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, điều đó chỉ đúng 14 với những phán quyết hợp pháp, tức là phán quyết đó được hình thành dựa trên những căn cứ pháp luật. Không ai có thể đảm bảo rằng phán quyết trọng tài luôn luôn đúng về mọi phương diện. Trọng tài là một chế định tài phán tư, trong đó trọng tài viên là người do các bên lựa chọn để giải quyết vụ tranh chấp. Trong quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài, trọng tài viên một mặt phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, mặt khác phải tuân thủ các quy định của pháp luật có liên quan, bảo đảm công bằng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên. Trọng tài viên có thể có những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, giải quyết tranh chấp thông qua phương thức trọng tài có những nhược điểm nhất định. Một trong những nhược điểm đó là các trọng tài viên có thể thiên vị hoặc giải quyết không hiệu quả [18, tr. 15]. Trường hợp vì lý do nào đó mà trọng tài viên xét xử sai, không khách quan thì các đương sự phải được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Do đó, cần có một cơ chế xem xét lại phán quyết trọng tài. Để bảo vệ các bên tranh chấp, đấu tranh chống sự thiếu vô tư, khách quan trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, pháp luật đã ghi nhận việc tòa án có quyền hủy bỏ phán quyết của trọng tài. 1.2. Pháp luật về hủy phán quyết trọng tài 1.2.1. Khái niệm pháp luật về hủy phán quyết trọng tài Có thể hiểu pháp luật về hủy phán quyết trọng tài là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tòa án xem xét hủy phán quyết trọng tài. Đó là các quan hệ như quan hệ giữa bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với tòa án có thẩm quyền, quan hệ giữa các bên trong vụ tranh chấp có yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, quan hệ giữa tòa án với viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. Việc đưa ra khái niệm pháp luật về hủy phán quyết trọng tài là nhằm phân định ranh giới giữa các nhóm quan hệ 15 xã hội, qua đó lựa chọn áp dụng các quy phạm pháp luật phù hợp, đạt được hiệu quả điều chỉnh cao. 1.2.2. Nội dung của pháp luật về hủy phán quyết trọng tài Pháp luật về hủy phán quyết trọng tài thông thường bao gồm các nội dung cơ bản sau đây: Quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, căn cứ hủy phán quyết trọng tài, thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, thủ tục hủy phán quyết trọng tài, hậu quả của việc hủy phán quyết trọng tài. 1.2.2.1. Quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài Như trên đã trình bày, phán quyết trọng tài là chung thẩm. Tuy nhiên, phán quyết trọng tài có thể bị hủy. Luật Mẫu UNCITRAL ghi nhận một bên trong vụ tranh chấp có quyền yêu cầu tòa án hủy phán quyết trọng tài trong trường hợp có căn cứ tại Điều 34. Khảo sát pháp luật trọng tài của các nước như Đức, Singapore, Trung Quốc… cho thấy các nước này cũng quy định quyền yêu cầu tòa án hủy phán quyết trọng tài của đương sự trong vụ tranh chấp nếu có căn cứ hủy theo quy định của pháp luật. Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài phải được thể hiện thông qua đơn yêu cầu. Điều này được Luật Mẫu UNCITRAL và pháp luật các quốc gia quy định. Việc một bên nộp đơn yêu cầu tòa án hủy phán quyết trọng tài là sự mở đầu quá trình tòa án thụ lý và xem xét hủy phán quyết trọng tài. Nếu không có đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của một bên trong vụ tranh chấp thì không có việc tòa án xem xét hủy phán quyết trọng tài. 1.2.2.2. Thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài Theo Luật Mẫu UNCITRAL thì yêu cầu hủy phán quyết trọng tài phải được đưa ra trong thời hạn là 3 tháng kể từ ngày bên yêu cầu nhận được phán quyết trọng tài (Điều 34). Thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài cũng được pháp luật của các quốc gia quy định. Mỗi nước có pháp luật của riêng mình điều chỉnh thời hạn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan