Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học công lập ...

Tài liệu Huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học công lập ở việt nam

.PDF
166
42
55

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam đang tiếp tục mở rộng quy mô và đã bước qua cột mốc từ giáo dục đại học “tinh hoa” sang giáo dục đại học “đại trà”. Hệ thống giáo dục đại học phục vụ cho “học tập suốt đời” cũng đã được từng bước hình thành ở nước ta. Ngoài ra, trong lộ trình toàn cầu hóa, ngay trên đất nước Việt Nam đã có nhiều chương trình đào tạo dạng liên kết (Twinning/ Joint program) do nước ngoài cấp bằng và có nhiều chi nhánh đại học (branch campus) của nước ngoài ở Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, nhiều vấn đề đã trở nên hết sức gay cấn đối với giáo dục đại học Việt nam. Ngân sách Nhà nước tính trên đầu sinh viên đã giảm xuống rất nhanh, một mặt, tạo ra nguy cơ giảm sút chất lượng đào tạo, mặt khác, buộc phải tăng học phí làm giảm khả năng tiếp cận giáo dục đại học của nhiều thanh niên, và sẽ có một tầng lớp thanh niên bị cảm giác thất bại, làm trầm trọng thêm vấn đề công bằng trong giáo dục đại học. Quy mô và sự đa dạng nền giáo dục đại học sẽ vượt quá khả năng quản lý và tầm kiểm soát của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) nếu không đổi mới mạnh mẽ cách thức quản lý. Nhiều vấn đề rất cơ bản của nền giáo dục đại học vẫn chưa được nghiên cứu thấu đáo, ví dụ như Chiến lược chủ động hội nhập toàn cầu hóa về giáo dục đại học, chính sách du học, tổ chức phân tầng nền giáo dục đại học, hiệu quả và hiệu suất trong giáo dục đại học, chính sách chia sẻ chi phí giữa Nhà nước, người học và cộng đồng, chính sách học bổng, học phí, đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục đại học, chính sách tài chính ở các trường đại học ngoài công lập vv… Có thể nói rằng, việc đổi mới tổ chức quản lý cũng như tổ chức nghiên cứu, thiết kế các chính sách công về giáo dục đại học đã thực sự trở thành một nhu cầu hết sức cấp bách. Việc nghiên cứu hệ thống quản lý cũng như các chính sách công tương ứng cần được tổ chức một cách chuyên nghiệp, khi các trường đại học công lập giữ vai trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục quốc dân. Với xu thế phát triển mạnh mẽ nền kinh tế tri thức trên thế giới, và cùng với đó là tiến trình xã hội hóa giáo dục ngày càng được đẩy mạnh, trước sự 2 cạnh tranh của các cơ sở đào tạo đại học khác và việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, buộc các trường đại học công lập ở Việt Nam phải nghiên cứu, đổi mới hoạt động giáo dục đào tạo một cách hiệu quả để thực hiện sứ mệnh được giao. Để thực hiện được những nhiệm vụ đó, vấn đề nguồn tài chính phục vụ cho các hoạt động giáo dục của các trường đại học trở nên quan trọng. Trong điều kiện khả năng của ngân sách Nhà nước còn hạn chế, bên cạnh việc tăng cường tính tự chủ, đặc biệt là tự chủ về tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập, thì cần thiết phải xây dựng một cơ chế, một hành lang pháp lý cho các trường cộng lập huy động được các nguồn vốn ngoài kinh phí ngân sách nhà nước (gọi chung là nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước), nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ việc phát triển các hoạt động của trường. Chính vì vậy, việc tăng cường huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước trong các trường đại học công lập ở Việt Nam là thực sự cần thiết nhằm phát huy tính chủ động của các trường để thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục đại học. Xuất phát từ lý do nêu trên, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài “Huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách Nhà nước cho giáo dục đại học công lập ở Việt Nam”. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài - Trình bày có hệ thống và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nguồn tài chính ngoài kinh phí ngân sách nhà nước (gọi chung là nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước) đầu tư cho giáo dục đại học; vai trò nguồn tài chính ngoài ngân sách và các nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách; kinh nghiệm huy động các nguồn tài chính trong một số trường đại học trên thế giới. - Phân tích , đánh giá thực trạng huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách trong các trường đại học công lập Việt Nam thời gian qua , từ đó tìm ra nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong quá triǹ h huy đô ̣ng nguồ n tài chiń h ngoài ngân sách nhà nước. - Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách Nhà nước cho giáo dục đại học công lập ở Việt Nam giai đoạn 2015-2020. 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu: là những vấn đề lý luận về cơ chế, chính sách, hệ thống tổ chức về huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách Nhà nước và thực tiễn huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách Nhà nước trong các trường đại học công lập ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: - Về nội dung: Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu về cơ chế, chính sách huy động và thực trạng huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học công lập ở Việt Nam. - Về không gian và thời gian: trên cơ sở vận dụng lý luận, kinh nghiệm quốc tế để khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước trong các trường đại học công lập ở Việt Nam giai đoạn 2005 – 2013, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện cả về cơ chế, chính sách cũng như biện pháp tăng cường huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học công lập Việt Nam đến năm 2020. 4. Phương pháp nghiên cứu của luận án - Luận án đã sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu các vấn đề, đảm bảo tính toàn diện, tính hệ thống, tính thực tiễn và logic. - Luận án đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác trong lĩnh vực kinh tế như phương pháp phân tích, phương pháp hệ thống, diễn giải, so sánh…. - Lý luận của kinh tế học được sử dụng như là một công cụ quan trọng làm sáng tỏ và luận giải có cơ sở khoa học cho việc phân tích các nguồn tài chính trong trường đại học công lập ở Việt Nam. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Trên cơ sở nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn về các nguồn tài chính ngoài ngân sách đối với các trường đại học công lập ở Việt Nam, luận án hy vọng sẽ có những đóng góp sau: - Hệ thống những vấn đề lý luận về giáo dục đại học và các nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước. - Thực trạng huy động nguồn tài chính ngoài Ngân sách nhà nước trong các trường đại học công lập ở Việt Nam. 4 - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng và dựa vào kinh nghiệm huy động nguồn tài chính trong một số trường đại học của một số nước trên thế giới, luận án sẽ đề xuất các giải pháp huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học công lập ở Việt Nam. 6. Kết cấu của luận án Kết cấu chính của luận án gồm 3 chương: Chương 1: Giáo dục đại học và nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học công lập. Chương 2: Thực trạng huy động nguồn tài chính ngoài Ngân sách nhà nước trong các trường đại học công lập ở Việt Nam. Chương 3: Giải pháp huy động nguồn tài chính ngoài Ngân sách cho giáo dục đại học công lập ở Việt Nam. 5 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Lý thuyết về tài chính công được phát triển và chú ý ở Việt Nam trong thời gian gần đây, khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường và có hội nhập sâu rộng với thế giới. Hiện nay, trong các trường đại học khối kinh tế, môn học này đã được đưa vào giảng dạy. Cuốn tài liệu “Tài chính công” của tác giả Sử Đình Thành [64] nghiên cứu về tài chính công được sử dụng rất phổ biến trong nghiên cứu và giảng dạy ở các trường đại học. Tài liệu về đổi mới tài chính các đơn vị sự nghiệp công lập của tác giả Phan Thị Cúc [60] là tài liệu rất hữu ích đối với những người làm công tác quản lý tài chính và các nhà khoa học nghiên cứu về vấn đề này. Quản lý tài chính đối với GDĐH cũng là một bộ phận của nền tài chính công, chịu sự điều tiết, chi phối bởi những cơ chế, quy định chung của quản lý nhà nước, nhưng cũng có những đặc trưng riêng biệt xuất phát từ vai trò và vị trí quan trọng của trường đại học trong xã hội. Đổi mới cơ chế hoạt động tài chính GDĐH là một nội dung quan trọng trong Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Thông báo kết luận số 37- TB/TW ngày 26/5/2011 của Bộ Chính trị về Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”. Vấn đề huy động các nguồn lực tài chính cho phát triển giáo dục đại học đã thu hút và nhận được sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý trong nước. Các công trình khoa học trong lĩnh vực này khá phong phú với ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau tùy theo cách tiếp cận. Các bài báo, tạp chí bàn về vấn đề tài chính công, quản lý chi tiêu công, huy động các nguồn lực tài chính cho phát triển giáo dục đại học rất phong phú; đối tượng nghiên cứu khá rộng và nhiều giải pháp được đề xuất mang tính định hướng cho toàn bộ hệ thống. Các công trình nghiên cứu thuộc nhóm này có thể kể đến rất nhiều bài viết của Giáo sư Phạm Phụ, bài “7 kiến nghị về chính sách/ giải pháp cho giáo dục đại học” [56], đã nêu các vấn đề về cơ chế tài chính đối với GDĐH và các kiến nghị đối với các cấp quản lý. Bài viết “Học phí đại học và vấn đề giải trình trách nhiệm - thực tiễn quốc tế và đề xuất cho Việt Nam” [58] và bài “Khái niệm trường đại học nghiên cứu và các tiêu chí nhận diện đại học nghiên cứu” [57] của TS. Phạm Thị Ly đã đề cập đến cơ chế tài chính cho 6 GDĐH ở các nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam. Các công trình này rất có giá trị đối với các cơ quan quản lý Nhà nước khi triển khai các đổi mới cơ chế tài chính và huy động nguồn lực tài chính cho GDĐH. Các công trình nghiên cứu mang tính hệ thống, khá "gần" với lĩnh vực nghiên cứu của đề tài phải kể đến các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Đây cũng là nhóm công trình có số lượng lớn và nghiên cứu khá toàn diện về các vấn đề liên quan đến cơ chế quản lý tài chính nói chung, tài chính cho giáo dục và GDĐH nói riêng. Tác giả Đặng Văn Du với luận án: "Các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư tài chính cho đào tạo đại học ở Việt Nam" [43] đã phân tích khá sâu sắc về đầu tư tài chính cho đào tạo đại học. Luận án đã xây dựng các tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư tài chính cho GDĐH ở Việt Nam, phân tích thực trạng và đánh giá hiệu quả đầu tư tài chính qua các tiêu chí được xây dựng, từ đó đề xuất hệ thống giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư tài chính cho GDĐH ở nước ta. Tuy nhiên, phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài này tập trung vào hiệu quả đầu tư tài chính đối với GDĐH nói chung, chưa đề cập đến cơ chế thu hút nguồn lực tài chính ngoài ngân sách cho các trường đại học công lập Việt Nam. Luận án của tác giả Lê Phước Minh với đề tài: "Hoàn thiện chính sách tài chính cho giáo dục đại học Việt Nam" [46] đã tập trung nghiên cứu chính sách tài chính cho GDĐH. Luận án đã đi sâu phân tích thực trạng chính sách tài chính cho giáo dục ở Việt Nam, làm rõ các cơ hội, thách thức và đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách tài chính cho GDĐH ở nước ta, đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận về tăng thu nhập, giảm chi phí và tính toán chi phí đơn vị, tỷ lệ thu hồi đầu tư trong giáo dục đại học. Với góc độ tiếp cận nhằm phân tích chính sách tài chính cho GDĐH nên những kết quả đóng góp của Luận án có giá trị tham khảo tốt với các cơ quan quản lý vĩ mô, tuy nhiên luận án cũng chưa đề cập đến những bất cập trong việc thu hút và sử dụng nguồn tài chính ngoài ngân sách trong các trường đại học công lập ở Việt nam. Tác giả Bùi Tiến Hanh với luận án tiến sỹ “Hoàn thiện cơ chế tài chính nhằm thúc đẩy xã hội hóa giáo dục Việt Nam” [23] đã nghiên cứu và luận giải cơ chế để thực hiện xã hội hóa giáo dục, cơ chế quản lý tài chính công đối với giáo dục công lập, cơ chế khuyến khích và quản lý đối với hoạt động giáo dục ngoài công lập, cơ chế thu và sử dụng học phí,... Tuy nhiên trong nghiên cứu của tác giả, phương pháp tiếp cận về chính sách 7 học phí vẫn bị ảnh hưởng bởi quan điểm coi học phí là nguồn thu thuộc NSNN, nghiên cứu chưa coi GDĐH là một loại hàng hóa và mang lại lợi ích, người được hưởng lợi ích phải chịu chi trả chi phí tương xứng với chất lượng hàng hóa theo quan điểm chia sẻ chi phí. Nhóm công trình nghiên cứu về cơ chế quản lý tài chính ở các trường đại học trọng điểm Việt Nam, trường hợp là ĐHQG Hà Nội phải kể tới luận án “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính của ĐHQG Hà Nội trong tiến trình đổi mới quản lý tài chính công ở nước ta hiện nay” của tác giả Phạm Văn Ngọc [59]. Trong đó cơ chế quản lý tài chính của ĐHQG Hà Nội đã được phân tích sâu sắc, toàn diện trong bối cảnh đổi mới quản lý tài chính công ở Việt Nam và đổi mới GDĐH. Luận án đã đề xuất các giải pháp khả thi trong việc hoàn thiện quản lý tài chính phù hợp với mô hình ĐHQG Hà Nội, với sứ mạng là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao cho đất nước. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài cũng có khá nhiều công trình nghiên cứu có giá trị, gần với lĩnh vực của đề tài. Tài chính công là nội dung nghiên cứu xuất phát từ các nước có nền kinh tế phát triển, lý thuyết về tài chính công không ngừng được bổ sung và hoàn thiện. Các tài liệu nghiên cứu về tài chính công của các tác giả như Alan [76], Holley [79] đã thu hút được sự chú ý của đông đảo các nhà quản lý và nhà nghiên cứu về kinh tế, sinh viên các ngành kinh tế, tài chính, ngân hàng,... Bộ sách về quản trị công và trách nhiệm giải trình Lập ngân sách và các thiết chế ngân sách (bản dịch tài liệu của Dự án Tăng cường năng lực quyết định và giám sát ngân sách của các cơ quan dân cử Việt Nam, Ủy ban Tài chính ngân sách Quốc hội, cũng đã trình bày các lý thuyết về các phương pháp lập ngân sách, cải cách chi tiêu công và kinh nghiệm của các nước trên thế giới rất có giá trị tham khảo đối với các nhà quản lý tài chính công. Tuy nhiên, các vấn đề được nêu ra trong cuốn sách cũng chưa đề cập đến cách thức và giải pháp huy động các nguồn lực tài chính ngoài ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học. Công trình nghiên cứu mang tính hệ thống và "gần" với lĩnh vực nghiên cứu của đề tài luận án cần kể đến tài liệu “Quản lý trường đại học trong GDĐH” [2]. Tài liệu này dành cho các nhà quy hoạch giáo dục, cán bộ quản lý trường đại học và các nhà nghiên cứu về quản lý giáo dục. Với những mô đun về quản lý trường đại học trong GDĐH, tài liệu đã trình bày khái quát về công 8 tác quản lý trong GDĐH, từ đó làm nổi bật ba chủ đề cơ bản: quản lý tài chính, quản lý nhân lực và quản lý nguồn lực cơ sở vật chất. Tài liệu này chủ yếu đề cập vấn đề quản lý và sử dụng tài chính, chưa đề cập nhiều tới vấn đề huy động các nguồn lực tài chính cho giáo dục đại học. Về vấn đề phân cấp, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục đại học, đã có nhiều bài tham luận về đổi mới cơ chế tài chính, và đề xuất các giải pháp để giao quyền tự chủ tài chính cho các trường đại học công lập. Đồng thời nhiều bài báo cũng cho rằng ở trạng thái tự chủ hoàn toàn về lý thuyết, các trường sẽ được tự chủ tất cả các quyền quyết định các yếu tố tác động tới nguồn thu và việc chi tiêu tài chính. Dưới một góc nhìn khác, trong cơ chế thị trường, giáo dục đại học là một dịch vụ đặc biệt và cơ sở giáo dục đại học cần được coi như là một doanh nghiệp, được thành lập và hoạt động theo quy định của nhà nước và do Chính phủ hay tư nhân sở hữu. Theo hướng nghiên cứu này, Phạm Chí Thanh (2011) về “Đổi mới chính sách tài chính đối với khu vực sự nghiệp công ở Việt nam” [55], TS Nguyễn Trường Giang (2013) trong bài tham luận “Đổi mới cơ chế tài chính gắn với nâng cao chất lượng đào tạo đại học, thực hiện mục tiêu công bằng hiệu quả” [45] cho rằng các trường đại học cần được nhà nước giao vốn và bảo toàn phát triển vốn, được quyết định việc sử dụng tài sản, huy động vốn, góp vốn liên doanh, liên kết. Về vấn đề huy động nguồn tài chính cho giáo dục đại học, thông qua việc xã hội hóa các nguồn lực, tác giả Trần Xuân Hải (1999) cho rằng cần huy động nguồn vốn từ nội bộ cơ sở giáo dục đại học thông qua các hình thức hợp đồng cung cấp dịch vụ giáo dục đại học, khuyến khích sự đóng góp, tài trợ của các tổ chức, cá nhân[68]. TS Trần Xuân Trường (2012) đã tổng kết hai phương thức thực hiện xã hội hóa các nguồn lực cho giáo dục đại học, thứ nhất là liên kết giữa trường với doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động, thông qua hỗ trợ học bổng, kinh phí đào tạo và đặt ra yêu cầu về kiến thức, kỹ năng của người được đào tạo, trao đổi các cán bộ tham gia một số nội dung giảng dạy, thứ hai là huy động từ đội ngũ cán bộ, giáo viên của trường thông qua góp vốn cổ phần. GS.TS Hoàng Văn Châu (2013) trong bài tham luận “Tự đảm bảo kinh phí của trường đại học Ngoại thương và đề xuất cơ chế tài chính”[45] cho rằng đối với các chương trình đào tạo, cung cấp dịch vụ theo nhu cầu xã hội, các 9 mức thu và khoản thu được xây dựng dựa trên cơ sở thỏa thuận, đảm bảo cân đối các khoản chi và có tích lũy. Có thể nói, dưới nhiều góc độ khác nhau, các bài báo, các tham luận khoa học, các công trình nghiên cứu khoa học, và một số luận án tiến sĩ gần đây đã phân tích khá toàn diện cõ chế quản lý tài chính, chính sách tài chính đối với giáo dục đại học và tình hình tài chính của các cơ sở giáo dục đại học. Số lượng các công trình nghiên cứu khá đồ sộ, tập trung nghiên cứu ở nhiều khía cạnh về quản lý tài chính, điều hành ngân sách giáo dục đào tạo theo hướng tự chủ và trách nhiệm xã hội của các trường đại học từ quản lý vĩ mô đến cơ chế, chính sách, tiêu chí cụ thể, ... nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về cơ chế huy động và quản lý nguồn tài chính ngoài ngân sách trong các trường đại học công lập hiện nay, chưa đề xuất các giải pháp cho việc huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước theo hướng đảm bảo điều kiện về nguồn tài chính để đảm bảo chất lượng hoạt động của các trường đại học công lập. Để đảm bảo đủ khả năng tài chính cho hoạt động của các trường đại học công lập, trong điều kiện ngân sách nhà nước rất hạn hẹp, yêu cầu đảm bảo chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học của các trường đại học công lập mang tính cấp thiết trong bối cảnh hiện nay và vì vậy, việc đảm bảo nguồn tài chính cho các trường đại học công lập Việt Nam cũng là yêu cầu cấp thiết. Đây chính là khoảng trống trong nghiên cứu hiện nay và mục đích nghiên cứu của đề tài của nghiên cứu sinh đã tập trung giải quyết được khoảng trống của các nghiên cứu hiện nay. Các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ đóng góp cả về lý luận và thực tiễn liên quan đến cơ chế huy động và quản lý nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước trong các trường đại học công lập, nhằm góp phần đạt được mục tiêu và nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu trong các trường đại học công lập Việt Nam hiện nay. 10 Chương 1 GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VÀ HUY ĐỘNG NGUỒN TÀI CHÍNH NGOÀI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP 1.1 Giáo dục đại học với phát triển kinh tế xã hội 1.1.1. Đặc điểm của giáo dục đại học Sự phát triể n ma ̣nh mẽ của khoa ho ̣c công nghê ̣ ta ̣o ra sự thay đổ i lớn trong cấ u trúc ngành nghề , công viê ̣c. Công nghê ̣ thông tin cho phép các công ty tái cơ cấ u la ̣i quy trin ̀ h sản xuấ t theo hướng sử du ̣ng công nghê ̣ phức ta ̣p hơn, cầ n ít lao đô ̣ng hơn với năng suấ t lao đô ̣ng cao hơn . Mă ̣c dù , trong mô ̣t số ít lĩnh vực, do máy móc đã đảm nhiê ̣m phầ n lớn các nhiê ̣m vu ̣ phức ta ̣p nên chỉ cầ n mô ̣t số lao đô ̣ng it́ kỹ năng hơn , nhưng ở phầ n lớn các liñ h vực , để quản lý và vận hành công nghệ mới , nhu cầ u về lao đô ̣ng có kỹ năng cao la ̣i tăng lên . Thêm vào đó , toàn cầu hóa làm cho cạnh tranh giữa các công ty trở nên khốc liê ̣t hơn. Sự thay đổ i trong cấ u trúc công viê ̣c cô ̣ng với áp lự c ca ̣nh tranh khiế n cho nhu cầ u đào ta ̣o đa ̣i ho ̣c – đươ ̣c cho là nơi cung cấ p nguồ n nhân lực có kỹ năng và trin ̀ h đô ̣ chuyên môn cao ngày càng tăng lên. Giáo dục đại học không trực tiếp tạo ra sản phẩm vật chất cho xã hội . Tuy nhiên, giáo dục đại học sản sinh ra lực lượng lao động có trình độ , kỹ năng cao góp phần tăng năng suất lao động , cải thiện đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Theo luật Giáo dục Đại học Việt nam năm 2012, thì giáo dục đại học đào tạo bốn trình độ, gồm: - Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai đến ba năm học tuỳ theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành; - Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ bốn đến sáu năm học tuỳ theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp; từ hai năm rưỡi đến bốn năm học đối với người có 11 bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành. - Đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện từ một đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp đại học; - Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong bốn năm học đối với người có bằng tốt nghiệp đại học, từ hai đến ba năm học đối với người có bằng thạc sĩ. Giáo dục đại học là một dây chuyền sản xuất mà đầu ra là nguồn nhân lực đạt chuẩn. Theo quan điểm này, giáo dục đại học là một quá trình trong đó người học được quan niệm như những sản phẩm được cung ứng cho thị trường lao động. Như vậy, giáo dục đại học trở thành “đầu vào” tạo nên sự phát triển và tăng trưởng của thương mại và công nghiệp. Giáo dục đại học là đào tạo để trở thành nhà nghiên cứu.Theo cách nhìn này, giáo dục đại học là thời gian chuẩn bị để tạo ra những nhà khoa học và nhà nghiên cứu thực thụ, những người sẽ không ngừng tìm những chân trời kiến thức mới. Chất lượng ở đây hướng về việc tạo ra các công bố khoa học và tinh thần làm việc nghiêm túc để thực hiện các nghiên cứu có chất lượng. Giáo dục đại học là quản lý việc tổ chức giảng dạy một cách hiệu quả. Rất nhiều người cho rằng giảng dạy là hoạt động cốt lõi của một cơ sở giáo dục. Do vậy, các cơ sở giáo dục đại học thường chú trọng quản lý một cách hiệu quả các hoạt động dạy và học bằng cách nâng cao chất lượng giảng dạy và nâng cao tỷ lệ kết thúc khóa học của sinh viên. Giáo dục đại học tạo điều kiện mở rộng cơ hội trong cuộc sống cho người học. Theo cách tiếp cận này, giáo dục đại học được xem như một cơ hội để người học được tham gia vào quá trình phát triển bản thân. Vì vậy, khi nhìn vào hoạt động của các trường đại học, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra ba chức năng cơ bản đó là giảng dạy, nghiên cứu và chuyển giao ứng dụng. Thực ra, khi phân tích kỹ những quan điểm khác nhau về giáo dục đại học, chúng ta có thể kể ra nhiều vai trò khác nhau của giáo dục đại học trong xã hội. Giáo dục đại học đóng vai trò là “hệ thống nuôi dưỡng” của mọi lĩnh vực trong đời sống, là nguồn cung cấp nhân lực tối cần thiết để phục vụ các công tác quản lý, quy hoạch, thiết kế, giảng dạy và nghiên cứu. Một quốc gia 12 muốn phát triển về khoa học công nghệ và tăng trưởng về kinh tế thì nhất thiết phải có cả hai yếu tố: một hệ thống giáo dục đại học và một lực lượng lao động. Giáo dục đại học còn tạo ra các cơ hội cho học tập suốt đời, cho phép con người cập nhật các kiến thức và kỹ năng thường xuyên theo nhu cầu của xã hội. Giáo dục đại học bao gồm các cơ sở giáo dục đại học, mà nong cốt và đóng vai trò hạt nhân là các trường đại học. Trường đại học (University) là một cơ sở giáo dục bậc cao tiếp theo bậc trung học dành cho những học sinh có khả năng và nguyện vọng học tập tiếp lên trên. Trường đại học cung cấp cho sinh viên học vấn cao và cấp các bằng cấp khoa học trong các lĩnh vực ngành nghề khác nhau. Các trường đại học có thể cung cấp các chương trình bậc đại học và sau đại học. Trường đại học là một cơ sở giáo dục được Nhà nước, các tổ chức xã hội, cá nhân hoặc nhóm cá nhân thành lập với sứ mạng đào tạo, nghiên cứu khoa học, truyền bá kiến thức, chuyển giao công nghệ và trên hết là phục vụ sự phát triển của xã hội và cộng đồng. Theo ý kiến thống nhất của nhiều học giả quốc tế, trường đại học là một tổ chức phức tạp nhất trong tất cả các loại hình tổ chức trên thế giới bởi nó là sự kết hợp của rất nhiều loại hình tổ chức khác nhau như các tổ chức chính trị nhà nước, công ty, tập đoàn, bệnh viện, công sở… Khác với công ty/ tập đoàn kinh doanh mà đối tượng phục vụ của nó chủ yếu là khách hàng, trường đại học phục vụ rất nhiều nhóm đối tác liên đới từ chính phủ, các tổ chức xã hội/nghề nghiệp, giới công nghiệp, cán bộ nhà trường, cộng đồng, sinh viên, phụ huynh…Việc điều hành, quản trị, và quản lý trường đại học vì thế cũng có những khác biệt cơ bản so với các tổ chức khác. Như vậy, hiện có rất nhiều định nghĩa khác nhau về đại học biến đổi theo cả thời gian và không gian. Tuy nhiên có thể nhận thấy nhiều điểm chung trong các định nghĩa đó để đi đến một khái niệm như sau: trường đại học là một thể chế giáo dục, nghiên cứu khoa học, đào tạo chuyên gia và nhân lực chất lượng cao, truyền bá và phổ biến tri thức, chuyển giao công nghệ, thực hiện dịch vụ xã hội. 13 Hiện nay, nhiều học giả tương đối thống nhất về sứ mạng của đại học là: Kiến tạo tri thức mới thông qua nghiên cứu khoa học; Lưu trữ, truyền bá, phổ biến tri thức; Đào tạo chuyên gia, nhân lực trình độ cao có nền tảng văn hoá – nhân văn tốt; Chuyển giao công nghệ, thực hiện dịch vụ xã hội. Từ những quy định về giáo dục đại học (GDĐH) theo luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học, có thể khái quát đặc điểm của GDĐH Việt Nam hiện nay là: Thứ nhất, GDĐH là giáo dục sau trung học phổ thông (xác định của UNESCO). Thứ hai, GDĐH đã mang tính đại chúng, không còn giới hạn ở giáo dục tinh hoa như đại học truyền thống. Thứ ba, GDĐH luôn gắn với giáo dục dạy nghề. Mỗi trường đại học đều đào tạo những ngành nghề cụ thể nhất định. Danh mục ngành nghề đào tạo ấy không cố định, khép kín, luôn thay đổi, mở theo yêu cầu của đời sống xã hội. Thứ tư, GDĐH luôn song hành cùng nghiên cứu khoa học. Không nghiên cứu khoa học nghiêm túc không phải và không còn là đại học. Thứ năm, GDĐH mang đậm tính dân tộc, đồng thời cũng mang đậm tính quốc tế. Nó là đỉnh cao của tri thức quốc gia; là cửa ngõ để văn hoá, khoa học kỹ thuật quốc gia đến với thế giới và thế giới đến với quốc gia. Nhiều tác giả nhấn mạnh tính dẫn dắt xã hội của đại học, vì đó là trung tâm truy tìm chân lý và đại diện cho lương tri của loài người. Do vậy đại học yêu cầu có một cơ chế tự trị/ tự chủ cao, một yêu cầu về tự do học thuật cao. Đặc điểm của trường đại học trong xã hội, đó là: Về sản phẩm của trường đại học Trường đại học là chủ thể tham gia nền kinh tế xã hội nhưng không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra các sản phẩm vật chất mà đóng góp vào quá trình này thông qua việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ. Sản phẩm của trường đại học có đầy đủ tính chất kinh tế giống như các loại sản phẩm dịch vụ hàng hóa khác vì quá trình sản xuất dịch vụ GDĐH đòi hỏi phải tiêu hao các nguồn lực khan hiếm. Các nghiên cứu cũng đã chỉ ra sự khác biệt giữa sản phẩm dịch vụ của trường đại học đối với các sản phẩm hàng hóa. Về quá trình hoạt động sản xuất sản phẩm dịch vụ của trường đại học 14 Quá trình hoạt động của trường đại học xét về bản chất là quá trình sản xuất tiêu hao lao động sống và lao động vật hóa để tạo ra sản phẩm dịch vụ. Trường đại học tạo ra sản phẩm dịch vụ trong quá trình tương tác giữa người dạy và người học. Lực lượng sản xuất bao gồm người thầy, trang thiết bị, giáo cụ, giáo trình,… trong đó người thầy có vai trò đặc biệt quan trọng. Người thầy tác động trực tiếp đến người học bằng cách truyền đạt kiến thức, hướng dẫn kỹ năng, rèn luyện ý thức,…. Quá trình này buộc người thầy phải tiêu hao sức lao động của mình và sử dụng tiêu hao các công cụ khác phục vụ giảng dạy. Song song với quá trình đó, người học được tiếp nhận các “dịch vụ” mà người thầy đã cung cấp. Quá trình cung ứng dịch vụ đồng thời với quá trình tiêu hao dịch vụ. Điều này tạo nên đặc điểm của sản phẩm dịch vụ GDĐH là kết quả lao động không tách rời bản thân người thực hiện. Về sự phụ thuộc vào điều kiện sản xuất Quá trình hoạt động của trường đại học diễn ra chịu sự tác của các yếu tố về điều kiện sản xuất nhất định giống như bất kỳ quá trình sản xuất của một đơn vị kinh tế nào khác. Tuy nhiên, nó có đặc điểm là không phụ thuộc nhiều vào các điều kiện địa lý tự nhiên mà phụ thuộc nhiều vào các điều kiện xã hội ở môi trường mà nó hoạt động. Hoạt động GDĐH của trường đại học chịu ảnh hưởng bởi các quan điểm, ý chí chủ quan của người quản lý. Các yếu tố này tác động qua việc dành sự đầu tư cho hoạt động GDĐH hay không, giải quyết các vấn đề nảy sinh của thị trường GDĐH ra sao. Ngoài ra, các yếu tố về trình độ phát triển kinh tế, khoa học công nghệ, văn hóa xã hội là các yếu tố tác động trực tiếp đến hoạt động của trường đại học qua nhu cầu sử dụng sinh viên được đào tạo, sử dụng các kết quả nghiên cứu của trường đại học, phát triển và bảo tồn các thành tựu văn hóa. Hoạt động cung cấp sản phẩm dịch vụ của trường đại học đó còn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố nội lực của bản thân trường đại học. Chất lượng, năng lực của đội ngũ giảng viên, các điều kiện về CSVC, trang thiết bị, học liệu,… là yếu tố quyết định đến chất lượng quá trình giảng dạy “cung ứng dịch vụ” cũng như chất lượng sản phẩm dịch vụ cung cấp cho xã hội. 15 1.1.2. Giáo dục đại học với phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia Giáo dục đại học được hiểu là quá trình nhằm hình thành, phát triển nhân cách con người, được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa người dạy và người học nhằm để người học lĩnh hội những tri thức và kinh nghiệm mà loài người đã tích luỹ trong lịch sử. Giáo dục đại học tạo cho người học có được kiến thức, kỹ năng và thái độ phù hợp với sự phát triển xã hội và môi trường nghề nghiệp. Vai trò của giáo dục đại học đối với sự phát triển kinh tế - xă hội được các nhà nghiên cứu nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Từ góc độ cung cấp nguồn nhân lực có trình độ cao cho xã hội, vai trò của GDĐH thể hiện: Thứ nhất, giáo dục đại học góp phần tạo nguồn nhân lực có trình độ và chuyên môn kỹ thuật, một trong những yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Các học thuyết phát triển kinh tế từ trước cho đến nay cơ bản đều thống nhất quan điểm cho rằng để phát triển kinh tế, xã hội cần có ba nguồn lực cơ bản: nhân lực, tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực tài chính. Vị trí của các nguồn lực này thay đổi cùng với sự phát triển của xã hội. Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế dựa vào tri thức, nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, của cải vật chất, tiền vốn vẫn đóng vai trò quan trọng, nhưng vai trò quyết định sẽ thuộc về nguồn vốn con người - nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực sẽ quyết định năng lực cạnh tranh, tăng trưởng và phát triển kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì thế, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng luôn được coi là vấn đề ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến nguồn nhân lực. Theo các chuyên gia của UNDP, các nhân tố đó là: giáo dục - đào tạo; sức khoẻ và dinh dưỡng; môi trường; việc làm; và sự giải phóng con người. Năm nhân tố trên có khả năng tạo ra những giá trị cho sự phát triển nguồn nhân lực, chúng gắn bó với nhau và ảnh hưởng lẫn nhau. Trong đó, giáo dục - đào tạo là cơ sở của các nhân tố khác. Bởi lẽ, giáo dục là điều kiện thiết yếu để cải thiện sức khoẻ và dinh dưỡng, để duy trì một môi trường có chất lượng cao, để mở rộng, cải thiện lao động và để duy trì sự đáp ứng về kinh tế – chính trị nhằm giải phóng con người. Vì lẽ đó, giáo dục được 16 xem như là nền tảng cho sự phát triển nguồn nhân lực, là điều kiện không thể thiếu nhằm hình thành nguồn vốn con người có chất lượng. Giáo dục còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc nâng cao trình độ và khả năng thành thạo của người lao động. Tức là góp phần tăng năng suất lao động. Mức độ ảnh hưởng của giáo dục đối với năng suất lao động được tính bằng cách so sánh sự khác biệt giữa sản phẩm của một cá nhân làm ra trong cùng một đơn vị thời gian trước và sau khi cá nhân đó trải qua một khoá đào tạo với chi phí của khoá đào tạo đó. Kết quả này được gọi là tỷ suất lợi nhuận xã hội khi đầu tư vào giáo dục. Theo tính toán của các nhà kinh tế học, tỷ suất lợi nhuận của xã hội đầu tư cho giáo dục vào khoảng 8 - 10%, cao hơn so với tỷ suất lợi nhuận trung bình của xã hội đầu tư cho các lĩnh vực khác xét về dài hạn. Giáo dục đại học còn được coi là nền tảng cho sự tăng trưởng bền vững. Khác với vốn vật chất, vốn con người khi được sử dụng sẽ tích luỹ ngày càng nhiều kinh nghiệm, tri thức. Vì thế, giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng không ngừng làm gia tăng giá trị và có đóng góp ngày càng lớn hơn đối với sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Thứ hai, giáo dục đại học góp phần thực hiện sự công bằng xã hội, thông qua các hoạt động xoá đói, giảm nghèo. Nghèo, đói là vấn đề lớn của cả nhân loại, đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nghèo đói, bao gồm cả những nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó nổi lên một vấn đề đáng lưu ý đó là trình độ học vấn của người nghèo khá thấp. Trình độ học vấn thấp làm tăng độ sâu của nghèo, đói. Ngay chính bản thân người nghèo khi được phỏng vấn cũng thừa nhận gia đình và cá nhân họ nghèo một phần là do ít được học hành. Người nghèo có thu nhập thấp một phần do năng lực và kinh nghiệm làm việc thấp, một phần do bị phân biệt đối xử trên thị trường lao động. Giáo dục đại học có thể giải quyết được vấn đề thứ nhất và cải thiện vấn đề thứ hai. Vì thế, giáo dục đại học có khả năng góp phần vào công cuộc xoá đói, giảm nghèo. Giáo dục đại học mang lại các kỹ năng, kiến thức và quan điểm giúp nâng cao năng suất của lực lượng lao động nghèo. 17 Giáo dục đại học mang lại các kỹ năng, kiến thức và quan điểm nhận thức xã hội, đó chính là những nhân tố quyết định nâng cao khả năng tham gia vào thị trường lao động. Công bằng trong giáo dục góp phần đem lại sự công bằng trong phân phối thu nhập. Thứ ba, giáo dục đại học mở rộng khả năng thích ứng của nhân lực với thị trường lao động. Ngày nay, dưới tác động của toàn cầu hoá kinh tế và sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, thị trường lao động trở nên năng động hơn bao giờ hết. Nhiều ngành nghề bị mất đi và thay vào đó là những ngành nghề mới , với yêu cầu cao hơn về trń h độ . Điều kiện tham gia vào thị trường lao động nhiều hơn và khắt khe hơn. Trong bối cảnh đó, người lao động cần được đào tạo cơ bản và luôn được đào tạo lại nhằm hình thành năng lực thích ứng với sự vận động không ngừng của thị trường. Kết quả nghiên cứu của nhiều nhà kinh tế học đã khẳng định những người được đào tạo có khả năng thích ứng một cách có hiệu quả hơn với sự biến động của thị trường lao động, với mức lương họ nhận được cũng cao hơn so với lao động phổ thông. Từ góc độ đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội, vai trò của GDĐH thể hiện: Một là, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển con người. Mục đích phát triển của bất kỳ quốc gia nào cũng nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Con người trở thành trung tâm của sự phát triển, là nhân tố chi phối quyết định chính sách của mỗi quốc gia. Chất lượng cuộc sống, theo UNDP, được phản ánh thông qua chỉ số Phát triển con người (HDI). Đây là một chỉ số tổng hợp, được đo lường bằng trung bình cộng của thu nhập bình quân đầu người (chỉ tiêu kinh tế), tuổi thọ trung bình (chỉ tiêu y tế) và tỷ lệ biết chữ (chỉ tiêu giáo dục). Giáo dục trở thành một trong ba khía cạnh cơ bản khẳng định chất lượng cuộc sống, là căn cứ để so sánh cuộc sống của cư dân thuộc các quốc gia và các địa phương khác nhau. 18 Chiến lược phát triển của mỗi quốc gia cần hướng trọng tâm vào giáo dục, coi đây là nhân tố chính thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, ngược lại sự phát triển kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo nâng cao cuộc sống của con người. Như vậy, có thể nói, đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư vào con người, vì con người và cho sự phát triển của con người. Hai là, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Giáo dục không chỉ là mục đích mà còn là điều kiện cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục được xem như là một bộ phận của cơ sở hạ tầng xã hội, nền tảng quan trọng và điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Vai trò của giáo dục đối với phát triển kinh tế - xã hội ngày càng trở nên quan trọng hơn trong bối cảnh thế giới đang chuyển sang nền kinh tế tri thức, trong đó tri thức và thông tin trở thành những yếu tố hàng đầu và là nguồn tài nguyên vô giá cho sự phát triển. Kinh nghiệm thực tiễn của thế giới cho thấy, những nước nghèo muốn tăng trưởng kinh tế nhanh và rút ngắn thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần đặc biệt chú trọng nâng cao trình độ học vấn của người dân và chú trọng đến sự phát triển của giáo dục đại học. Tổ chức UNESCO đã rút ra nhận định với nội dung: Không có sự tiến bộ và thành đạt nào có thể tách rời sự tiến bộ và thành đạt trong giáo dục. Quốc gia nào coi nhẹ giáo dục hoặc không đủ tri thức và khả năng cần thiết để làm giáo dục một cách có hiệu quả thì tụt hậu so với sự phát triển của thế giới là điều khó tránh khỏi. Nhận thức được vai trò to lớn của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã sớm có quan điểm coi “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” và “Phát triển giáo dục - đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. [42] 19 Ba là, đầu tư phát triển giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội. Giáo dục là quyền được thụ hưởng của con người, nhưng mỗi người đều có trách nhiệm xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục chung của quốc gia. Giáo dục ngày nay không còn là khu vực chỉ có một chủ thể cung cấp duy nhất là Nhà nước. Giáo dục cũng không còn bó hẹp trong độ tuổi đến trường, mà được mở rộng, diễn ra trong suốt cuộc đời con người. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước không thể và không nên đảm bảo toàn bộ kinh phí cho hoạt động giáo dục, mà cần xác định nhiệm vụ chính của mình ở mức độ thích hợp, sao cho đảm bảo được sự công bằng trong giáo dục và tạo động lực, định hướng cho các chủ thể khác cùng tham gia phát triển giáo dục. Nhà nước có thể huy động, khuyến khích sự tham gia của các chủ thể thông qua các hoạt động như yêu cầu người học trang trải một phần chi phí giáo dục bằng các khoản thu dưới dạng phí, cho phép các cá nhân, tổ chức đủ điều kiện thành lập cơ sở giáo dục, kêu gọi sự đóng góp của cộng đồng nhằm giảm tải chi ngân sách... Bên cạnh các nguồn lực từ bên ngoài quốc gia, như vay vốn (vay thương mại hoặc vay ưu đãi), cho phép các nhà đầu tư nước ngoài liên doanh, liên kết hoặc thành lập cơ sở giáo dục 100% vốn đầu tư nước ngoài. Ngày nay, chính sách và quan điểm về giáo dục của thế giới đang có sự thay đổi sâu sắc khi mà hầu hết các quốc gia đều mong muốn xây dựng một xã hội học tập, phát động tư tưởng học tập suốt đời và thực thi cam kết giáo dục cho mọi người. Những đổi mới trong chính sách phát triển giáo dục đã từng bước biến một số khía cạnh của giáo dục từ lĩnh vực phúc lợi sang lĩnh vực đầu tư. Giáo dục trở thành một ngành dịch vụ mà mọi chủ thể trong xã hội đều có quyền tham gia (ở mức độ nhất định), trong đó Nhà nước với vai trò đặc biệt của mình điều tiết và định hướng sự phát triển của cả hệ thống giáo dục theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra. 1.1.3 Vai trò của các trường đại học công lập trong hệ thống GDĐH Các trường đại học công của Mỹ (State College hoặc State University) do chính phủ các bang quản lý và cung cấp tài chính. Mỗi bang ở Mỹ có ít nhất một trường Đại học tổng hợp và một số trường đại học đơn ngành loại này. 20 Đại học công lập (Public University) của Nhật Bản thật ra là đại học địa phương (do chính quyền các tỉnh lập và quản lý). Đó cũng là một phần của hệ thống đại học công, bao hàm cả các trường National University, là đại học quốc gia nhưng đúng ra là đại học trung ương vì do chính quyền trung ương lập ra và quản lý. Khái niệm, mô hình và địa vị pháp lý của trường đại học công có sự khác nhau trong hệ thống giáo dục đại học ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên khái niệm về trường đại học công lập có thể được hiểu như sau: Trường đại học công lập là trường do chính quyền thành lập và quản lý. Nguồn kinh phí đảm bảo cho các trường đại học công lập hoạt động phụ thuộc vào chính sách đầu tư tài chính và mức độ xã hội hóa nguồn lực dành cho giáo dục đại học của mỗi quốc gia. Theo Luật Giáo dục đại học năm 2012, cơ sở giáo dục đại học Việt Nam được tổ chức theo các loại hình sau đây: a) Cơ sở giáo dục đại học công lập thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất; b) Cơ sở giáo dục đại học tư thục thuộc sở hữu của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân hoặc cá nhân, do tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân hoặc cá nhân đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất. Như vậy phân định đại học công lập và tư thục tại Việt Nam là thông qua vấn đề sở hữu đại học. Hệ thống các trường đại học công lập đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, thể hiện khái quát qua các mặt sau: Sự ra đời và hoạt động của các trường đại học công lập thể hiện vai trò của Nhà nước đối với GDĐH. Nhà nước thông qua các hoạt động của trường đại học công lập để điều tiết các nguồn lực xã hội sao cho có hiệu quả nhất, từ đó điều tiết cơ cấu đào tạo nhân lực hợp lý, duy trì và phát triển giáo dục đào tạo. Thông qua các trường đại học công lập, Nhà nước muốn đầu tư nhằm đảm bảo lợi ích công về GDĐH. Lợi ích này lan tỏa ra toàn xã hội, đảm bảo tất cả mọi người đều có cơ hội bình đẳng tiếp cận với GDĐH. Trường đại học công lập là nơi triển khai các chính sách đầu tư phát triển GDĐH của mỗi quốc gia. Các trường đại học công lập thuộc sở hữu Nhà
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất