Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hợp đồng dịch vụ lưu trữ theo pháp luật việt nam hiện nay...

Tài liệu Hợp đồng dịch vụ lưu trữ theo pháp luật việt nam hiện nay

.DOC
75
7
117

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN XUÂN LÁNG HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ LƯU TRỮ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI, 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN XUÂN LÁNG HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ LƯU TRỮ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN VĂN BIÊN HÀ NỘI, 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu và thông tin trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình luận văn nào khác. Tác giả luận văn Nguyễn Xuân Láng MỤC LỤC MỞ ĐẦU...........................................................................................................1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ LƯU TRỮ....................................................................................... 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm dịch vụ lưu trữ...................................................... 7 1.2. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng dịch vụ lưu trữ.................................... 10 1.3. Khung pháp luật về hợp đồng dịch vụ Lưu trữ.....................................13 1.4. Thực hiện hợp đồng dịch vụ lưu trữ..................................................... 20 1.5. Các yếu tố tác động đến thực hiện hợp đồng dịch vụ lưu trữ...............23 Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ LƯU TRỮ...................................30 2.1. Thực trạng pháp luật về hợp đồng dịch vụ lưu trữ............................... 30 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ lưu trữ..................44 Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ LƯU TRỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY....................................................................53 3.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng dịch vụ lưu trữ.................................................................................................................53 3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ lưu trữ..............................................................................................58 KẾT LUẬN.....................................................................................................66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................68 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS Bộ luật Dân sự DV Dịch vụ DVLT Dịch vụ Lưu trữ HDDV Hợp đồng dịch vụ HDDVLT Hợp đồng dịch vụ Lưu trữ QPPL Quy phạm pháp luật WTO Tổ chức Thương mại thế giới XHCN Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cơ hội giao thương để trao đổi công nghệ và hàng hoá giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng phát triển và Việt Nam cũng là một trong các nước thực hiện việc giao thương đó. Sau khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều chuyển biến và là nơi có môi trường kinh doanh hấp dẫn trong khu vực cũng như trên thế giới. Trên cơ sở đó hệ thống pháp luật Việt Nam cũng phải điều chỉnh lại để phù hợp với luật pháp quốc tế, từ đó giúp các doanh nghiệp hoà nhập với nền kinh tế toàn cầu một cách tốt nhất. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, còn thiếu sự liên kết trong sản xuất, kinh doanh và hạn chế về hiểu biết pháp luật, do đó đã đem lại không ít rủi ro cho các doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp cần chuẩn bị chu đáo để hạn chế rủi ro một cách tốt nhất. Có thể nói pháp luật về hợp đồng có vai trò rất quan trọng trong kinh doanh, chuẩn bị một hợp đồng tốt là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp tiến tới thành công. Hiện nay, ngoài các phương thức lưu trữ mang tính truyền thống cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, đặc biệt là sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin mang lại nhiều lợi ích và có những tính năng to lớn trong việc trợ giúp con người, đồng thời nó cũng là một trong các tiêu chuẩn để đánh giá một đất nước là phát triển hay không. Dù sử dụng phương thức lưu trữ truyền thống hay hiện đại thì chúng đều có mối quan hệ rất chặt chẽ và xâm nhập vào tất cả các mặt của đời sống xã hội và tạo ra nhiều thay đổi rõ rệt và chỉ thật sự được phát huy giá trị khi được khai thác sử dụng để phục vụ các hoạt động khác nhau của đời sống xã hội. Chính vì thế, công tác tổ chức khai thác, sử dụng phương thức lưu trữ là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, mang tính chiến lược của mọi cơ quan, 1 cá nhân, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ lưu trữ. Việc doanh nghiệp áp dụng lưu trữ vào sản xuất kinh doanh mang ý nghĩa sống còn và như vậy nhu cầu áp dụng lưu trữ trong quản lý kinh tế rất to lớn. Đây là điều rất tốt cho các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ lưu trữ và như vậy xây dựng pháp luật hợp đồng dịch vụ dịch vụ lưu trữ trong lĩnh vực này là điều rất quan trọng để các doanh nghiệp chiếm được thị trường và hạn chế rủi ro. Tuy nhiên, với các quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng dịch vụ lưu trữ lại nằm rãi rác ở nhiều văn bản khác nhau và chưa có quy định cụ thể về khung pháp luật của hợp đồng dịch vụ lưu trữ để các doanh nghiệp áp dụng thực hiện. Trước thực trạng này tôi đã chọn đề tài: “Hợp đồng dịch vụ lưu trữ theo pháp luật Việt Nam hiện nay” để làm Luận văn Thạc sĩ của mình với mong muốn nghiên cứu những quy định cơ bản của pháp luật Việt Nam về hợp đồng dịch vụ lưu trữ, thông qua đó đề ra những giải pháp thiết thực nhằm hoàn thiện pháp luật. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Về phương diện khoa học pháp lý, đã có một số công trình nghiên cứu đề cấp tới các vấn đề, khía cạnh khác nhau của HĐDVLT, cụ thể như: Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Kiều Thị Thùy Linh bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội và công bố năm 2017 có tên gọi “Hợp đồng dịch vụ theo quy định pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [19]. Chuyên đề tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Thị Mơ - Khoa Luật, Trường đại học Quốc gia Hà Nội (2011) [21], “Những vấn đề pháp lý về hợp đồng dịch vụ - thực tiễn giải quyết tranh chấp về hợp đồng dịch vụ”. Ngoài việc tìm hiểu những vấn đề pháp lý về hợp đồng dịch vụ, đề tài đi sâu vào việc phân tích những vụ việc thực tế về giải quyết tranh chấp hợp đồng dịch vụ. 2 Bài viết do Phạm Thị Thúy Kiều, trường Đại học Tài chính- Kế toán Quảng Ngãi đã đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật tháng 10 năm 2018 với chủ đề “Một số ý kiến về hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức” [18]. Luận văn Tiến sĩ kinh tế của tác giả Hà Công Anh Bảo bảo vệ tại Đại học Ngoại thương và công bố năm 2015 có tên gọi: “Hợp đồng thương mại dịch vụ và giải quyết tranh chấp về hợp đồng thương mại dịch vụ ở Việt Nam. Đề tài Luận án tiến sĩ: “Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam”, tác giả Lê Minh Hùng được bảo vệ tại trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh và công bố năm 2010 [1]. Tạp trí Dấu ấn thời gian số 02/2018 đăng tải bài viết[27]: “Vai trò và một số bất cập của hệ thống văn bản Quy phạm pháp luật về xã hội hóa hoạt động Lưu trữ ở Việt Nam” của ThS. Đinh Thế Vinh và bài viết “Đóng góp của các doanh nghiệp trong việc xã hội hóa hoạt động lưu trữ và một vài ý kiến” của tác giả Lê Thị Hà [15]. Những bài viết, công trình khoa học trên là một trong những căn cứ giúp tác giả có thêm nhiều thông tin quan trọng để phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn của mình. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chỉ đi vào vấn đề chung, không nghiên cứu cụ thể và toàn diện về hợp đồng dịch vụ lưu trữ theo quy định của pháp luật nước ta. Theo đó, việc lựa chọn đề tài “Hợp đồng dịch vụ lưu trữ theo pháp luật Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu là có tính mới và không có sự trùng lặp với các công trình đã công bố. 3. Mục đích và nhiệm nghiên cứu 3.1. Mục đích 3 Mục đích của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận về hợp đồng dịch vụ lưu trữ. Trên cơ sở đó, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ lưu trữ, đồng thời đề xuất một số ý kiến, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ lưu trữ ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ Luận văn đã đước tác giả nghiên cứu với những nhiệm vụ là: - Nghiên cứu cụ thể những vấn đề về hợp đồng dịch vụ lưu trữ. - Nghiên cứu pháp luật thực định về hợp đồng dịch vụ lưu trữ. - Nghiên cứu đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ lưu trữ. - Đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ lưu trữ. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Các quan điểm trong các công trình nghiên cứu như sách, luận văn, giáo trình, bài viết đăng trên tạp chí liên quan đến hợp đồng dịch vụ lưu trữ. - Nghiên cứu những quy định tại các văn bản QPPL có liên quan đến hợp đồng dịch vụ lưu trữ. - Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ lưu trữ tại các doanh nghiệp chuyên dịch vụ lưu trữ. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu là những quy định Luật Lưu trữ về hợp đồng dịch vụ lưu trữ và thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ lưu trữ tại Việt Nam từ năm 2017 đến nay. 4 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được trình bày dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật và những quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thời kỳ đổi mới. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp phân tích: Phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng dịch vụ lưu trữ. Phương pháp so sánh: So sánh các quy định của pháp luật hiện hành và pháp luật trước đây để thấy được những phát triển, đổi thay trong quá trình điều chỉnh pháp luật về hợp đồng dịch vụ lưu trữ. Ngoài ra luận văn cũng vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: quy nạp, diễn dịch, tổng hợp, thống kê…để phục vụ cho hoạt động nghiên cứu theo yêu cầu của đề tài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Luận văn làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về hợp đồng dịch vụ lưu trữ và pháp luật điều chỉnh; - Luận văn chỉ ra những hạn chế của các quy định pháp luật hiện hành và những vướng mắc trong thực tiễn thực hiện làm cơ sở cho các cơ quan có thẩm quyền, cơ quan áp dụng pháp luật hoàn thiện và hướng dẫn thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ lưu trữ; - Kiến nghị một số giải pháp có giá trị tham khảo tốt hoàn thiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ lưu trữ. 7. Kết cấu của Luận văn Tác giả đã chia luận văn làm ba chương cụ thể như sau: 5 Chương 1. Một số vấn đề lý luận pháp luật về hợp đồng dịch vụ lưu trữ. Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ lưu trữ. Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ lưu trữ ở Việt Nam hiện nay. 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ LƯU TRỮ 1.1. Khái niệm, đặc điểm dịch vụ lưu trữ 1.1.1. Khái niệm dịch vụ Mặc dù đã có sự phân biệt rõ ràng giữa hàng hóa và dịch vụ nhưng không có một khái niệm thống nhất về dịch vụ cũng như không có khái niệm chính xác nhất về dịch vụ, với mỗi cách tiếp cận khác nhau lại có những khái niệm khác nhau về dịch vụ. Theo cách tiếp cận là một ngành, một lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân thì dịch vụ là một ngành trong nền kinh tế quốc dân, là ngành kinh tế thứ ba sau các ngành công nghiệp, nông nghiệp, là khu vực phi sản xuất vật chất. Với tư cách là một hoạt động, dịch vụ được hiểu là hoạt động sản xuất, là hoạt động chứa đựng cả các yếu tố vật chất và phi vật chất, dịch vụ là hoạt động sản xuất khác với hoạt động sản xuất thông thường, đòi hỏi phải có sự hiện diện của khách hàng, khách hàng phải tiếp cận với nhà cung ứng và ngược lại mới có thể thỏa mãn nhu cầu. Bên cạnh đó, có thể tiếp cận dịch vụ với tư cách là sản phẩm-kết quả của hoạt động: dịch vụ là kết quả của hoạt động tương tác giữa các nhà cung ứng với khách hàng, dịch vụ là sản phẩm vô hình nhưng thực chất là hỗn hợp của các yếu tố vô hình và các yếu tố hữu hình, tùy thuộc vào từng loại hình dịch vụ mà mức độ vô hình hàm chứa trong mỗi loại hình dịch vụ sẽ khác nhau. Từ quan niệm về dịch vụ, có thể khái niệm chung về dịch vụ như sau: dịch vụ là sản phẩm của doanh nghiệp, không tồn tại dưới hình thái vật thể, 7 không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu nhằm thỏa mãn các nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của khách hàng một các kịp thời, thuận lợi và hiệu quả. 1.1.2. Khái niệm dịch vụ lưu trữ Dịch vụ lưu trữ có đặc điểm khác biệt với các ngành dịch vụ thương mại khác đó là tính thương mại luôn gắn liền với các phương thức lưu trữ mang tính truyền thống cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu của tổ chức, cá nhân nào đó. Hiện nay, trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam chưa có một quy định nào thể hiện thế nào là DVLT. Cụm từ “DVLT” được gắn với các cụm từ khác và được nằm rải rác trong các văn bản quy phạm pháp luật. DVLT được coi là một loại dịch vụ mang tính thương mại, người cung cấp DVLT nhằm mục đích thu lợi và được coi như một nghề. Người sử dụng DVLT được thỏa mãn những yêu cầu hiểu biết hay công việc cụ thể và phải trả phí (giá) dịch vụ cho người cung cấp. Tác giả nhận thấy, hiện nay các DVLT luôn gắn liền với pháp luật, nếu nhà nước cung ứng DVLT thì sẽ thông qua các đơn vị mà mình thành lập chẳng hạn như Trung tâm lưu trữ Quốc Gia. Các tổ chức tư cung ứng DVLT như các công ty Dich vụ Văn thư và Lưu trữ, các công ty Số hóa tài liệu lưu trữ …. Có lẽ với một số người khái niệm dịch vụ lưu trữ đã không còn xa lạ, tuy nhiên, theo thống kê hiện nay có một tỷ lệ lớn những người không hề biết đến loại hình này là gì. Trước tiên, chúng ta phải nêu được khái niệm của lưu trữ, vậy lưu trữ là gì? Lưu trữ là giữ lại các loại văn bản, hồ sơ của cơ quan, của cá nhân để làm bằng chứng và tra cứu khi cần thiết. Tại Điều 2 Luật Lưu trữ 2011[22]: “Hoạt động lưu trữ là hoạt động thu thập, chỉnh lý, xác định giá trị, bảo quản, thống kê, sử dụng tài liệu lưu trữ”, “Tài liệu là vật mang tin được hình thành trong quá trình hoạt động 8 của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Tài liệu bao gồm văn bản, dự án, bản vẽ thiết kế, bản đồ, công trình nghiên cứu, sổ sách, biểu thống kê; âm bản, dương bản phim, ảnh, vi phim; băng, đĩa ghi âm, ghi hình; tài liệu điện tử; bản thảo tác phẩm văn học, nghệ thuật; sổ công tác, nhật ký, hồi ký, bút tích, tài liệu viết tay; tranh vẽ hoặc in; ấn phẩm và vật mang tin khác”, “Tài liệu lưu trữ là tài liệu có giá trị phục vụ hoạt động thực tiễn, nghiên cứu khoa học, lịch sử được lựa chọn để lưu trữ. ” Tại Điều 36 Luật Lưu trữ 2011 quy định về hoạt chủ thể hoạt động dịch vụ lưu trữ đó là Tổ chức và cá nhân hành nghề độc lập về dịch vụ lưu trữ [22]. Do vậy, xét về mặt thương mại, thì DVLT được hiểu như sau: “DVLT là loại hình dịch vụ được cung cấp bởi những tổ chức và cá nhân, dành cho những ai có nhu cầu về việc bảo quản các loại giấy tờ quan trọng trong điều kiện tốt nhất”. 1.1.3. Đặc điểm của dịch vụ lưu trữ Dịch vụ lưu trữ là hoạt động rất đặc thù so với các loại dịch vụ thông thường khác, các đặc điểm nổi bật được thể hiện: 1.1.3.1. Dịch vụ lưu trữ luôn gắn liền với tài liệu lưu trữ Dịch vụ lưu trữ là loại hình dịch vụ có liên quan tới hoạt động thu thập, chỉnh lý, xác định giá trị, bảo quản, thống kê, sử dụng tài liệu lưu trữ mà bên cung ứng dịch vụ thực hiện cho khách hàng một hoạt động cụ có liên quan đến tài liệu lưu trữ nhằm mục đích kiếm lời. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh thêm là ngoài mục đích tìm kiếm lợi nhận thì đặc điểm nổi bật so với các dịch vụ khác là luôn gắn liền với tài liệu lưu trữ. đông 1.1.3.2. Hoạt động dịch vụ lưu trữ là hình thức kinh doanh có điều kiện 9 Bên hoạt động DVLT phải là tổ chức hoặc cá nhân hành nghề độc lập phải có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Để hoạt động DVLT trên thị trường và ký kết HĐDVLT thì chủ thể phải đáp ứng điều kiện theo quy định và được phép có quyền cung ứng loại dịch vụ này. Nếu cung cấp DVLT với tư cách là tổ chức thì chủ thể này phải được thành lập hợp pháp và cá nhân thực hiện hoạt động dịch vụ lưu trữ của tổ chức cung cấp DVLT phải có chứng chỉ hành nghề lưu trữ. Nếu hành nghề với tư cách cá nhân thì chủ thể này ngoài việc đáp ứng về chứng chỉ hành nghề thì còn phải thực hiện đăng ký theo quy định của pháp luật. 1.1.3.3. Dịch vụ lưu trữ không định lượng cụ thể hóa được chât lượng dịch vụ Dịch vụ lưu trữ mang những đặc điểm riêng biệt đó là những công việc phải thực hiện nhưng kết quả mang tính vô hình, khó tiêu chuẩn hóa, không thể phân chia. Việc không có thước đo về chất lượng DVLT mà chỉ là sự mẫn cán của người trực tiếp thực hiện DVLT dẫn đến mỗi tổ chức, cá nhân phải luôn phấn đấu để uy tín và thương hiệu của mình ngày càng được củng cố để khẳng định sự tận tâm, nhiệt huyết để đạt được hiệu quả công việc của bên cung cấp DVLT đối với khách hàng. 1.2. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng dịch vụ lưu trữ 1.2.1. Khái niệm hợp đồng dịch vụ lưu trữ 1.2.1.1. Hợp đồng dịch vụ Dưới góc độ là một quan hệ xã hội được hình thành trên cơ sở thảo thuận giữa bên cung ứng dịch vụ và bên thuê dịch vụ được pháp luật điều chỉnh thì HĐDV là sự thỏa thuận giữa bên cung ứng với bên thuê mà theo đó bên cung ứng thực hiện một công việc nhất định nhằm đem lại lợi ích cho bên thuê và bên thuê có nghĩa vụ trả tiền dịch vụ cho bên cung 10 ứng trên cơ sở các nội dung quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật. Dưới góc độ là pháp luật điều chỉnh hoạt động cung ứng, sử dụng dịch vụ thì HĐDV được hiểu là các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nức có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục luật định nhằm điều chỉnh các quan hệ cung ứng, sử dụng dịch vụ phát sinh trong xã hội. Theo quy định tại Điều 513 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ”. Như vậy, BLDS năm 2015 đã thay cụm từ “ bên sử dụng dịch vụ” cho cụm từ “bên thuê dịch vụ” của Điều 518 BLSD năm 2005 [23]. Tác giả cho rằng sự thay đổi này là phù hợp vì nó thể hiện sự tương quan về mục đích mà các bên hướng tới trong hợp đồng. Với khái niệm đã được quy định như trên thì HĐDV là một loại hợp đồng dân sự thông dụng, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ. 1.2.1.2. Hợp đồng dịch vụ lưu trữ Hợp đồng dịch vụ lưu trữ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó một bên (bên cung ứng dịch vụ lưu trữ) cung cấp cho bên kia gói dịch vụ lưu trữ, bên sử dụng dịch vụ lưu trữ phải trả tiền cho bên cung cấp dịch vụ. 1.2.2. Đặc điểm của hợp đồng dịch vụ lưu trữ 1.2.2.1. Đặc điểm chung của hợp đồng dịch vụ lưu trữ ` - Là loại hợp đồng ưng thuận: Các chủ thể tự do thể hiện ý chí khi thỏa thuận về nội dung của hợp đồng như: Đối tượng của hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên, địa điểm, thời hạn phương thức thực hiện hợp đồng, giải quyết tranh chấp tài liệu lưu trữ... và khi các bên đã xác lập, 11 giao kết thì hợp đồng mang tính bắt buộc giữa các bên, việc từ chối hoặc chậm trễ thực hiện coi như vi phạm hợp đồng. Thể hiện nổi bật của đặc điểm này là giá trị pháp lý gắn với công việc mà bên cung ứng DVLT phải thực hiện với kỹ năng, kinh nghiệm của mình theo quy định của pháp luật. - Là loại hợp đồng song vụ: Theo đó mỗi bên điều có nghĩa vụ nhất định đối với nhau, có các quyền tương ứng với nhau, khi bên này thực hiện nghĩa vụ thì bên kia được hưởng quyền tương ứng và ngược lại. Các quyền và nghĩa vụ của các bên có tính quan hệ, có tính phụ thuộc lẫn nhau, được thực hiện nhằm đạt mục đích giao kết hợp đồng. Các nghĩa vụ có mối quan hệ mật thiết với nhau, khi được thực hiện thiện chí và đầy đủ, mỗi bên đều được hưởng đầy đủ các quyền, như vậy mục đích của hợp đồng sẽ đạt được. Ngoài ra, các bên có thể quy định thứ tự thực hiện các nghĩa vụ đối với nhau, việc thực hiện nghĩa vụ này là cơ sở và điều kiện để bên kia có thể thực hiện nghĩa vụ của mình. Nếu có một bên vi phạm nghĩa vụ thì bên kia không được hưởng hoặc không được hưởng đầy đủ quyền tương ứng, hệ quả là việc thực hiện hợp đồng bị đình trệ hay bị xáo trộn, có thể gây thiệt hại hay khiến hợp đồng không thể thực hiện được. Theo nguyên tắc quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia, mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau, việc bên nào phải thực hiện nghĩa vụ trước phải căn cứ vào thỏa thuận của các bên trong hợp đồng. Đặc điểm này thể hiện rõ nhất bên sử dụng DVLT phải trả thù lao cho bên cung ứng dịch vụ. Bên sử dụng DVLT có quyền yêu cầu bên cung ứng thực hiện đối tượng của hợp đồng thì có nghĩa vụ thanh toán phí tương ứng, ngược lại bên cung ứng DVLT có nghĩa vụ thực hiện theo thỏa thuận thì cũng có quyền yêu cầu bên thuê mình phải trả công tương xứng. - Hợp đồng dịch vụ lưu trữ mang tính chất đền bù: Tính đền bù-tương đương là hệ quả của đặc điểm mỗi bên đều có các nghĩa vụ nhất định đối 12 với nhau, có các quyền tương ứng đối với nhau. Trong hợp đồng song vụ, mỗi bên đều được hưởng ít nhất một quyền nhất định, bởi mỗi bên ít nhất phải có một nghĩa vụ nhất định về tinh thần hay vật chất thuộc mục đích giao kết hợp đồng. Khi có vi phạm nghĩa vụ xảy ra, bên bị vi phạm sẽ không được hưởng hoặc không được hưởng đầy đủ quyền tương ứng, dẫn đến không thể đạt được các lợi ích từ thực hiện hợp đồng và có thể bị gánh chịu thiệt hai. Vì vậy, với tính đền bù và cần đảm bảo sự đền bù thỏa đáng, bên vi phạm có quyền được áp dụng các chế tài để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. 1.2.2.2. Đặc điểm riêng của hợp đồng cung cấp dịch vụ lưu trữ Dịch vụ lưu trữ là loại hình dịch vụ đặc biệt cụ thể đó là hoạt động thu thập, chỉnh lý, xác định giá trị, bảo quản, thống kê, sử dụng tài liệu lưu trữ. Theo Khoản 3 Điều 36 Luật Lưu trữ quy định: “Hoạt động dịch vụ lưu trữ bao gồm: Bảo quản, chỉnh lý, tu bổ, khử trùng, khử axit, khử nấm mốc, số hoá tài liệu lưu trữu không thuộc danh mục bí mật nhà nước; nghiên cứu, tư vấn, ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ lưu trữ”. Trong quá trình ký kết hợp dịch vụ lưu trữ cần xác định rõ hoạt động dịch vụ, điều này có ý nghĩa quan trọng trọng việc áp dụng các chính sách của Nhà nước về lưu trữ. Vì vậy, khi ký kết các hợp đồng dịch vụ lưu trữ cần phải nghiên cứu kỹ về các điều khoản tên dịch vụ, chất lượng dịch vụ, thời hạn thực hiện dịch vụ,… để tránh tình trạng tranh chấp xảy ra. 1.3. Khung pháp luật về hợp đồng dịch vụ lưu trữ 1.3.1. Chủ thể của hợp đồng Chủ thể của hợp đồng dịch vụ trong thương mại là bên cung cấp dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ hay còn gọi là khách hàng. Đây là một 13 điểm khác biệt so với hợp đồng mua bán hàng hóa. Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa thường được gọi là bên bán và bên mua. Cách gọi này thể hiện được sự chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa trong quan hệ mua bán hàng hóa giữa hai bên, khi có nghĩa vụ của người bán không chỉ đơn thuần là giao hàng mà còn gắn liền với nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa đó cho người mua. Còn cách gọi các chủ thể của hợp đồng cung ứng dịch vụ phần nào cho thấy bản chất của hoạt động cung ứng dịch vụ, đó là việc một bên cung cấp dịch vụ nhưng không chuyển giao quyền sở hữu dịch vụ đó, bên kia sử dụng dịch vụ và có nghĩa vụ thanh toán. Vậy, Chủ thể của hợp đồng dịch vụ lưu trữ được ký kết giữa các bên là pháp nhân-Bên cung ứng dịch vụ lưu trữ và khác hàng (gồm pháp nhân, cá nhân) là bên yêu cầu cung ứng dịch vụ lưu trữ. 1.3.2. Nội dung của hợp đồng Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các điều khoản mà các bên đã thỏa thuận. Các điều khoản khái quát về đối tượng, giá cả, quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm các bên; có thể là cả phương thức giải quyết tranh chấp; nghĩa là những gì các bên thỏa thuận. Nội dung của hợp đồng có thể làm căn cứ để xác định những trách nhiệm “đương nhiên” của mỗi bên khi thực hiện hợp đồng, đồng thời chỉ ra được mục tiêu, đối tượng của hợp đồng mà các bên đang hướng đến. Nội dung của hợp đồng dịch vụ lưu trữ thường được mô tả rất chi tiết và cụ thể đặc điểm của từng loại hình dịch vụ của lưu trữ, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của bên yêu cầu cung ứng dịch vụ lưu trữ như khả năng cung ứng của bên cung cấp dịch vụ lưu trữ. Các điều khoản chủ yếu của hợp đồng thường tập trung chủ yếu vào những nội dung sau đây: 14 1.3.2.1. Về đối tượng hợp đồng Hợp đồng dịch vụ lưu trữ thì đối tượng của nó là dịch vụ lưu trữ. Các bên mua bán dịch vụ phải mô tả rất kỹ về dịch vụ, đặt ra những yêu cầu cụ thể mà mục tiêu các bên muốn hướng tới khi mua bán dịch vụ và điều này đòi hỏi các bên phải có sự am hiểu về tính chất của dịch vụ đó. 1.3.2.2. Giá hợp đồng dịch vụ Giá được hiểu là giá trị đối với đối tượng của hợp đồng hay còn được hiểu là giá trị của hợp đồng Nếu trong hợp đồng có thỏa thuận thì giá dịch vụ là giá các bên thỏa thuận trong hợp đồng; Trường hợp không có thoả thuận về giá dịch vụ, không có thoả thuận về phương pháp xác định giá dịch vụ và cũng không có bất kỳ chỉ dẫn nào khác về giá dịch vụ thì giá dịch vụ được xác định theo giá của loại dịch vụ đó trong các điều kiện tương tự về phương thức cung ứng, thời điểm cung ứng, thị trường địa lý, phương thức thanh toán và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến giá dịch vụ. 1.3.2.3. Thời hạn thanh toán: Theo thỏa thuận của hai bên. Trường hợp không có thỏa thuận và giữa các bên không có bất kỳ thói quen nào về việc thanh toán thì thời hạn thanh toán là thời điểm việc cung ứng dịch vụ được hoàn thành. 1.3.2.4. Về quyền và nghĩa vụ của các bên Căn cứ vào các điều khoản về nội dung và giá trị hợp đồng, đồng thời dựa trên những quyền lợi chính đáng mà các bên đã thỏa thuận với nhau để quyết định về điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên. Điều khoản này có thể lặp lại những nghĩa vụ và cam kết của các bên tại các điều khoản trước và nêu thêm các điều khoản ràng buộc nếu các bên xét thấy cần thiết. Cách thức thực hiện quyền và nghĩa vụ cụ thể như sau: a) Quyền và nghĩa vụ trong thực hiện đúng điều khoản số lượng: 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan