Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Hợp đồng cung cấp nước sạch sinh hoạt theo pháp luật việt nam từ thực tiễn công ...

Tài liệu Hợp đồng cung cấp nước sạch sinh hoạt theo pháp luật việt nam từ thực tiễn công ty cổ phần cấp nước bến thành.

.PDF
78
95
62

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH THỊ HỒNG SANG HỢP ĐỒNG CUNG CẤP NƯỚC SẠCH SINH HOẠT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN CÔNG TY CỔ PHẦN CẤP NƯỚC BẾN THÀNH Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8 38 01 07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. PHẠM KIM ANH HÀ NỘI, năm 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Mọi số liệu, dẫn chứng thể hiện trong luận văn là trung thực và được chú thích nguồn đầy đủ. NGƯỜI CAM ĐOAN HUỲNH THỊ HỒNG SANG MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CUNG CẤP NƯỚC SẠCH SINH HOẠT ............. 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng cung cấp nước sạch sinh hoạt ................. 7 1.2. Bản chất của hợp đồng cung cấp nước sạch sinh hoạt và những ảnh hưởng của nó đến quyền tự do ký kết hợp đồng .................................................. 9 1.3. Nội dung, ý nghĩa và quyền lợi của người tiêu dùng trong hợp đồng cung cấp nước sạch sinh hoạt .......................................................................... 19 1.4. Quy định của pháp luật điều chỉnh hợp đồng cung cấp nước sạch sinh hoạt ........................................................................................................................... 29 Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CUNG CẤP NƯỚC SẠCH SINH HOẠT ........................................................................................................................... 32 2.1. Thực trạng thi hành pháp luật điều chỉnh hợp đồng cung cấp nước sạch sinh hoạt tại Công ty Cổ phần Cấp nước Bến Thành ............................................... 32 2.2. Một số nhận xét và đánh giá về thực tiễn thi hành pháp luật điều chỉnh hợp đồng cung cấp nước sạch sinh hoạt tại Công ty Cổ phần Cấp nước Bến Thành ........................................................................................................................... 49 2.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng cung cấp nước sạch sinh hoạt và tổ chức thực hiện từ góc độ áp dụng pháp luật .................................... 52 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 61 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 62 PHỤ LỤC ......................................................................................................... 66 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật dân sự BCCN: Bên cung cấp nước BSDN: Bên sử dụng nước HĐCCN: Hợp đồng cung cấp nước NTD: Người tiêu dùng MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Đối với sức khỏe con người nước là một loại thức uống không thể thiếu được đối với cơ thể chúng ta. Nước chiếm 70% trọng lượng cơ thể và nó phân phối khắp nơi trong cơ thể như: Máu, cơ bắp, xương tủy, phổi… Chúng ta có thể nhịn ăn vài tuần, thậm chí vài tháng nhưng không thể chịu khát được vài ngày. Như vậy, ta có thể thấy được tầm quan trọng của nước đối với con người. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội kèm theo đó là sự biến đổi khí hậu làm cho nguồn nước ít đi, gia tăng nhanh chóng của các nhà máy xí nghiệp mà nguồn nước thải không được xử lý mà xả thải trực tiếp ra môi trường từ đó sẽ làm ô nhiễm môi trường và đặc biệt là nguồn nước cũng bị ô nhiễm thì việc cung cấp nước sạch sinh hoạt cho con người lại càng quan trọng. Biết được tầm quan trọng đó vào năm 2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 117/2007/NĐ-CP ngày 11/7/2007 về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch như là một bước đệm ban đầu để bảo vệ nguồn nước. Nhằm đẩy mạnh việc cung cấp nước sạch sinh hoạt cho người dân và có một khung pháp lý để bảo vệ người dân khi tham gia vào hoạt động cung cấp nước sạch sinh hoạt trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thì Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Quyết định số 20/QĐ-UBND ngày 9/2/2007 về ban hành quy định về cung cấp, sử dụng nước và bảo vệ công trình cấp nước trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh tuy nhiên trong quá trình thực hiện quy định trên thì vẫn còn có nhiều bất cập trong quy định đặc biệt là đối với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội và nhu cầu sử dụng nước sạch sinh hoạt của người sử dụng nước hiện nay. Nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, đảm bảo cho người dân có nước sạch sinh hoạt thì Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã đề ra chủ trương phải 1 đảm bảo 100% hộ dân được sử dụng nước sạch. Để đáp ứng chủ trương trên thì các đơn vị cung cấp nước sạch trên địa bàn phải đảm bảo được cơ sở vật chất, nguồn nhân lực cần thiết bên cạnh đó thì Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và đơn vị cung cấp nước sạch cũng phải xây dựng khung pháp lý vững chắc để đảm bảo quyền lợi cho bên cung cấp và bên sử dụng nước trên cơ sở các quy định của Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan khác. Do đó, tác giả đã chọn “Hợp đồng cung cấp nước sạch sinh hoạt theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Công ty Cổ phần Cấp nước Bến Thành” để làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về HĐCCN sạch sinh hoạt tuy nhiên hợp đồng trên là một dạng hợp đồng đặc biệt do nó là hợp đồng mẫu, bên cạnh đó nguồn nước sạch rất quan trọng đối với cuộc sống hằng ngày của con người do đó cũng có một số giáo trình, công trình nghiên cứu, tạp chí về hợp đồng mẫu và nước sạch nhưng các bài nghiên cứu chủ yếu chỉ nghiên cứu chung về hợp đồng mẫu hoặc ở một lĩnh vực cụ thể khác, chủ yếu là bảo vệ NTD bên giao kết hợp đồng với vai trò là bên yếu thế hơn trong quan hệ này cũng như các bài viết về nước sạch như: Các tài liệu về sách, giáo trình như: - Doãn Hồng Nhung, Hoàng Anh Dũng (2018), Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng mẫu trong mua bán căn hộ chung cư tại Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia, Hà Nội. - Doãn Hồng Nhung, Nguyễn Mạnh Diệp Nguyễn Viết Minh… (2013), Pháp luật về hạn chế rủi ro cho người tiêu dùng trong hợp đồng mẫu, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội. 2 - Các quy định pháp luật về hợp đồng và mẫu hợp đồng (2003), Nhà xuất bản Giao thông Vận tải, Hà Nội. Các tài liệu được đăng trên báo, tạp chí như: - Nguyễn Thị Hồng Minh, Nguyễn Thị Lệ Thúy, Bùi Thị Hồng Việt (2018) Thể chế thị trường trong lĩnh vực cung cấp nước sạch ở Việt Nam, Kinh tế và Dự báo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 01/2018, Số 02. - Hà Thị Thúy (2017) Giải thích hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung – Một số điểm bất cập và giải pháp hoàn thiện, Tạp chí Luật học, số 10. - Nguyễn Việt Anh (2016) Giải pháp cải thiện cung cấp nước sạch đô thị, Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, số 10. - Trọng Đạt (2012) Nhu cầu bức thiết về cung cấp nước sạch, Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, số 5 (139). Các tài liệu về luận văn, luận án như: - Phạm Thị Thanh Nhàn (2010), Luận văn thạc sĩ Luật học “Pháp luật về hợp đồng mẫu và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. - Hoàng Thùy Linh (2018), Luận văn thạc sĩ Luật học “Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết và thực hiện hợp đồng theo mẫu ở Việt Nam”, trường Đại học Luật Hà Nội. - Phạm Thị Kim Thanh (2016), Luận văn thạc sĩ Luật học “Hoàn thiện quy định của pháp luật về Hợp đồng mẫu dưới góc độ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Trường Đại học Cần Thơ. 3 - Nguyễn Công Đại (2017), Luận án Tiến sĩ Luật học “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các giao dịch có sử dụng hợp đồng theo mẫu ở Việt Nam hiện nay”, Học viện Khoa học Xã hội. Các công trình nghiên cứu trên là nguồn tài liệu rất quý giá cho việc nghiên cứu đề tài này, vì nó một phần nào cũng đã nêu ra được những bất cập trong hợp đồng mẫu, tầm quan trọng của nước sạch và có những ý kiến đề xuất cần thiết khi thay đổi những quy định liên quan đến hợp đồng mẫu ở khía cạnh nào đó cũng ảnh hưởng đến đề tài đang nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, đặc điểm, nội dung và thực tiễn thực hiện các quy định về hợp đồng mua bán nước sạch sinh hoạt từ đó đề xuất các phương án để hoàn thiện các quy định của pháp luật. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích của đề tài thì nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: Thứ nhất, nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề mang tính lý luận về HĐCCN sạch sinh hoạt thông qua việc làm rõ khái niệm, đặc điểm, của HĐCCN sạch sinh hoạt, nội dung của HĐCCN sạch sinh hoạt. Thứ hai, nghiên cứu đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật trong quá trình giao kết, thực hiện, sửa đổi, bổ sung… chấm dứt HĐCCN sạch sinh hoạt để nhận biết được những bất cập của pháp luật cũng như những vướng mắc trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật. 4 Thứ ba, từ những kết quả nghiên cứu về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ HĐCCN sạch sinh hoạt để nêu phương hướng và đề xuất các giải pháp cụ thể, góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về HĐCCN sạch sinh hoạt từ đó tạo điều kiện thuận lợi trong việc áp dụng các quy định pháp luật cho các bên tham gia giao kết hợp đồng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực cung cấp nước sạch sinh hoạt và thực trạng hiện nay. Phạm vi nghiên cứu: trong đề tài này chủ yếu tập trung phân tích những nội dung trong HĐCCN sạch sinh hoạt theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tại Công ty Cổ phần Cấp nước Bến Thành và các quy phạm pháp luật được áp dụng từ trước đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Để làm rõ nội dung nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử đi từ cái chung đến cái riêng, từ lịch sử đến hiện tại để làm rõ nội dung cần nghiên cứu. Bên cạnh đó luận văn sử dụng những phương pháp sau: - Phương pháp phân tích: trong luận văn sẽ nêu ra các quy định của pháp luật để từ đó nêu ra các vấn đề còn vướng mắc và những số liệu cần thiết để chứng minh những tồn tại. - Phương pháp so sánh: các quy định của pháp luật sẽ thay đổi theo sự biến đổi của xã hội do đó khi phân tích đề tài HĐCCN sạch sinh hoạt sẽ sử 5 dụng phương pháp trên để làm rõ những điểm nổi bật và hạn chế của quy định pháp luật. - Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn Về mặt khoa học, luận văn sẽ là một công trình nghiên cứu chuyên sâu trong một lĩnh vực, giúp khai thác được những vấn đề của pháp luật hiện tại chưa theo kịp với sự phát triển của xã hội và những nhận thức về các quan hệ trong hợp đồng dịch vụ cấp nước cần phải thay đổi. Về mặt thực tiễn, việc nghiên cứu đề tài sẽ chỉ ra những vấn đề còn gặp khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật, đồng thời đưa ra các phương hướng, giải pháp để hoàn thiện các quy định của pháp luật trong HĐCCN sạch sinh hoạt và có thể sử làm nguồn tư liệu nghiên cứu trong quá trình hoàn thiện cũng như nâng cao giá trị thực thi các quy định về HĐCCN sạch sinh hoạt nhằm hướng tới việc đảm bảo quyền lợi của BSDN. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu gồm 2 chương với những nội dung cơ bản sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về hợp đồng cung cấp nước sạch sinh hoạt. Chương 2: Thực tiễn thi hành và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng cung cấp nước sạch sinh hoạt. 6 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CUNG CẤP NƯỚC SẠCH SINH HOẠT 1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng cung cấp nước sạch sinh hoạt. 1.1.1. Khái niệm hợp đồng cung cấp nước sạch sinh hoạt. Để có những nhận thức về khái niệm HĐCCN sạch sinh hoạt trước hết cần tìm hiểu khái niệm hợp đồng. Trong đời sống hằng ngày của chúng ta phát sinh rất nhiều các quan hệ dân sự mà nó cũng liên quan đến hợp đồng như hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ, hợp đồng cho thuê tài sản, hợp đồng tư vấn dịch vụ… những loại hợp đồng khác nhau được ký kết, giao dịch cũng dựa trên những quy định chung của hợp đồng. Các Mác đã nói: “bản chất của con người là tổng hòa tất cả quan hệ xã hội” [22]. Thật vậy con người không thể tồn tại và phát triển khi không có mối quan hệ với nhau và khi có các mối quan hệ với nhau đặc biệt là về trao đổi hàng hóa thì con người cần có một hợp đồng để đảm bảo lợi ích của nhau. Từ điển tiếng Việt năm 2000 định nghĩa hợp đồng là “giấy cam kết giữa hai hoặc nhiều người để làm việc gì” [19]. Từ điển Hán Nôm Nguyễn Quốc Hùng ghi nhận hợp đồng là “tờ giấy làm bằng, ghi sự thỏa thuận của đôi bên về việc gì” [19]. Từ điển Luật học được biên soạn dựa trên các quy định của pháp luật dân sự, xuất bản năm 1999 ghi nhận hợp đồng là “sự thỏa thuận của các bên có tư cách pháp nhân hoặc giữa những người có đầy đủ năng lực hành vi nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên” [19]. Với những định nghĩa như trên cho ta thấy được điểm chung bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên nhưng về hình thức thì định nghĩa của Luật học rộng hơn nó được thể hiện không chỉ được thể hiện ở dạng văn bản mà còn thông 7 qua nhiều hình thức khác như lời nói, hành vi hay các hình thức khác. Với cách định nghĩa như vậy cho thấy sự mở rộng của thuật ngữ hợp đồng để hòa hợp pháp luật quốc tế và xu thế hội nhập. Điều 385 BLDS năm 2015 đưa ra khái niệm hợp đồng như sau: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, từ khái niệm trên có thể rút ra khái niệm hợp HĐCCN sạch sinh hoạt như sau: “hợp đồng cung cấp nước sạch sinh hoạt là sự thỏa thuận giữa hai bên (bên cung cấp nước sạch sinh hoạt và bên có nhu cầu sử dụng nước sạch sinh hoạt), về việc ghi nhận quyền và nghĩa vụ của hai bên, căn cứ để phát sinh, chấm dứt hay thay đổi giữa hai bên trong hoạt động cung cấp nước sạch sinh hoạt”. 1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng cung cấp nước sạch sinh hoạt. Từ những phân tích trên cho ta thấy HĐCCN sạch sinh hoạt có những đặc điểm như sau: Thứ nhất, HĐCCN sạch sinh hoạt là sự thỏa thuận giữa hai bên, sự thỏa thuận đó phải thống nhất ý chí và nó phải phù hợp với quy định của pháp luật. Trong đó, sự thỏa thuận giữa hai bên trong hợp đồng được biểu hiện thông qua một bên là đơn vị cung cấp nước sạch sinh hoạt bên còn lại là tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng nước. Đồng thời, sự thỏa thuận giữa hai bên trong quan hệ này phải thống nhất ý chí với nhau nếu một trong hai bên không thống nhất ý chí với nhau thì hợp đồng sẽ không có hiệu lực đối với các bên. Tuy nhiên, sự thống nhất ý chí của hai bên không phải lúc nào cũng hình thành hợp đồng được pháp luật công nhận mà sự thống nhất ý chí đó phải dựa trên cơ sở tự nguyện, có 8 thỏa thuận với nhau và những thỏa thuận thống nhất ý chí đó còn phải phù hợp với quy định của pháp luật. Thứ hai, HĐCCN sạch sinh hoạt là một sự kiện pháp lý làm phát sinh hậu quả pháp lý. Nó xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia vào quan hệ trên. Khi HĐCCN sạch sinh hoạt được ký kết thì nó sẽ xác lập, thay đổi làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên, ràng buộc các bên khi tham gia quan hệ này như BCCN phải có nghĩa vụ cung cấp nước sạch đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật, việc cung cấp nước sạch phải liên tục…, BSDN phải có nghĩa vụ đóng tiền nước hàng tháng, có trách nhiệm bảo quản đồng hồ nước…. Tuy nhiên, khi tham gia bất kỳ một quan hệ nào không chỉ trong HĐCCN sạch sinh hoạt các bên cũng có quyền chấm dứt quan hệ này khi một trong hai bên vi phạm hợp đồng hoặc một bên không còn nhu cầu tham gia vào quan hệ này nữa. Thứ ba, nội dung của hợp đồng là quyền và nghĩa vụ mà các bên tham gia trong quan hệ HĐCCN sạch sinh hoạt quy định cho nhau. Những nội dung do hai bên quy định cho nhau phải đảm bảo quyền lợi của các bên đồng thời những nội dung đó phải phù hợp với quy định của pháp luật. Thứ tư, mục đích của HĐCCN sạch sinh hoạt. Trong quan hệ này thì mục đích của hai bên sẽ khác nhau thể hiện thông qua BCCN sạch sinh hoạt mong muốn bán được nước sạch sinh hoạt của mình và thu được lợi nhuận còn BSDN sinh hoạt lại mong muốn có được nguồn nước đạt tiêu chuẩn đảm bảo cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày. 9 1.2. Bản chất của hợp đồng cung cấp nước sạch sinh hoạt và những ảnh hưởng của nó đến quyền tự do ký kết hợp đồng. 1.2.1. Bản chất của hợp đồng cung cấp nước sạch sinh hoạt. Mỗi tổ chức, cá nhân khi tham gia vào bất kỳ quan hệ nào cũng mong muốn đạt được lợi ích nhất định và cũng cần có một cái gì đó để đảm bảo cho những thỏa thuận, mong muốn của mình đạt được đồng thời phải có sự an toàn cho mình khi có tranh chấp xảy ra. Vì vậy, các bên khi tham gia vào quan hệ trên thường lựa chọn hình thức hợp đồng và đưa ra các đề nghị để cùng nhau soạn thảo hợp đồng, để thống nhất những nội dung trong hợp đồng được ký kết của hai bên. Trong quan hệ cung cấp nước sạch cũng không ngoại lệ khi hai bên tham gia vào quan hệ này đều mong muốn có một cái gì đó để bảo vệ họ khi xảy ra tranh chấp hoặc là đảm bảo rằng bên kia phải thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trước đó. Vì vậy, HĐCCN sạch sinh hoạt đã ra đời hay còn gọi là hợp đồng dịch vụ cung cấp nước. Theo quy định tại Điều 513 BLDS 2015 thì: “Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền cho bên cung ứng dịch vụ”. Như khái niệm được nêu ở trên thì trong hoạt động cung cấp nước sạch sinh hoạt hai bên giao kết hợp đồng phải có sự thỏa thuận với nhau nếu như bên nào không đồng ý với các điều khoản ghi trong hợp đồng thì có quyền nêu ra ý kiến của mình và đề nghị bên còn lại chỉnh sửa nội dung của hợp đồng cho phù hợp với ý chí của hai bên. Tuy nhiên, trên thực tế thì mọi cá nhân, tổ chức tham gia vào quan hệ trên không có thỏa thuận hoặc thay đổi nội dung của hợp đồng. Bên sử dụng dịch vụ muốn được sử dụng dịch vụ phải ký kết hợp đồng dựa trên 10 nội dung sẵn có của bên cung ứng dịch vụ làm sẳn và áp dụng với tất cả mọi khách hàng có nhu cầu sử dụng nước. Từ những phân tích trên có thể cho ta thấy được HĐCCN sạch sinh hoạt là hợp đồng dịch vụ, đặc biệt đó là hợp đồng mẫu. Như vậy, để hiểu rõ bản chất của HĐCCN sạch sinh hoạt thì ta phải tìm hiểu về hợp đồng mẫu. Trên thế giới, các quốc gia theo các chế độ khác nhau nên việc sử dụng các quy định và các nguồn để áp dụng pháp luật cũng khác nhau do đó tên gọi và hình thức tồn tại của hợp đồng mẫu cũng khác nhau như một số quốc gia quan niệm đây là hợp đồng mẫu tiêu chuẩn (standard form contract) tức là khi giao dịch dạng hợp đồng này thì nó đã được soạn sẵn, dùng để áp dụng cho mọi đối tượng và không có sự thỏa thuận để thay đổi nội dung của hợp đồng, một số quốc gia khác quan niệm là hợp đồng gia nhập (adhesion contract) tức là khi tham gia vào một quan hệ có sử dụng hợp đồng thì hợp đồng sẽ do một bên soạn sẵn, các nội dung trong hợp đồng sẽ do bên soạn sẵn quyết định còn bên tham gia hợp đồng còn lại chỉ có lựa chọn là tham gia hợp đồng hoặc từ chối tham gia, cũng có một số quốc gia quan niệm là hợp đồng hàng loạt (boilerplate contract). Một số quốc gia đưa ra định nghĩa hợp đồng mẫu của mình như sau: Hàn Quốc định nghĩa hợp đồng gia nhập: “là những điều khoản và điều kiện chung trong hợp đồng, bất kể mang tên, hình thức hay phạm vi như thế nào, do một bên soạn sẵn bằng một hình thức nhất định nhằm giao kết hợp đồng với số đông người” (Khoản 1 Điều 2 Luật Hợp đồng gia nhập). [17] Điều 3 Luật hợp đồng gia nhập Hàn Quốc quy định: “theo cách được sử dụng phổ biến cho loại hợp đồng này và theo yêu cầu của NTD, phải cung cấp cho NTD một bản của hợp đồng để họ có thể hiểu được nội dung của hợp đồng”. 11 Như vậy, theo quy định trên các doanh nghiệp muốn sử dụng hợp đồng gia nhập cần phải ghi rõ và giải thích nội dung của hợp đồng cho NTD. Luật về hợp đồng gia nhập của Hàn Quốc cũng khẳng định nó được xây dựng trên nguyên tắc thiện chí và với những NTD khác nhau phải có cùng một cách giải thích, đồng thời có những điều khoản không rõ cần giải thích theo hướng có lợi cho NTD. Trong Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Đài Loan tại Khoản 9 Điều 2 định nghĩa hợp đồng theo mẫu là: “hợp đồng mà một phần hoặc toàn bộ điều khoản được soạn thảo bởi các doanh nghiệp kinh doanh” [15]. Tại Khoản 7 Điều 2 cũng đưa ra định nghĩa về các điều khoản của hợp đồng theo mẫu là “các điều khoản mẫu được các doanh nghiệp đơn phương soạn thảo để giao kết với số lượng lớn và không xác định các đối tác. Ngoài dạng văn bản, những điều khoản này còn được thể hiện trên các bảng thông báo công cộng, tờ rơi, các màn hình quảng cáo công cộng, internet hoặc các phương tiện khác”. Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Đài Loan đã dành hẵn Mục 2 với bảy điều (từ Điều 11 đến Điều 17) để điều chỉnh chế định hợp đồng theo mẫu như vậy có thể thấy được Đài Loan cũng rất chú trọng điều chỉnh chế định hợp đồng theo mẫu. Tại Điều 11, còn có một quy định mang tính nguyên tắc chung là “các điều kiện và điều khoản trong hợp đồng theo mẫu được soạn thảo bởi các doanh nghiệp phải được soạn thảo trên cơ sở các nguyên tắc của công bằng và có đi có lại. Nếu các điều khoản và điều kiện của hợp đồng theo mẫu không rõ nghĩa, việc giải thích sẽ được thực hiện theo hướng có lợi cho người tiêu dùng”. Đồng thời, Luật cũng bắt buộc các doanh nghiệp phải cho NTD một khoảng thời gian ít nhất là 30 ngày để NTD xem xét tất cả các nội dung, điều 12 kiện và điều khoản trong hợp đồng mẫu trước khi giao kết. Trường hợp không tuân thủ quy định này thì các điều khoản và điều kiện được giao kết sẽ vô hiệu. Ngoài ra, Luật cũng quy định các cơ quan có thẩm quyền ở cấp trung ương có thể lựa chọn một ngành, lĩnh vực cụ thể và công bố thời hạn phù hợp cho NTD xem xét một hợp đồng mẫu trên cơ sở các tiêu chí về tính quan trọng của các điều kiện và điều khoản đó, số lượng các vấn đề có liên quan và mức độ phức tạp của hợp đồng mẫu đó. Có thể nói rằng, các quy định của Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Đài Loan rất nghiêm khắc và chặt chẽ đối với các doanh nghiệp và rất có ý nghĩa đối với NTD. Thông qua việc cho NTD có một thời gian xem xét nội dung của hợp đồng mẫu là rất hợp lý do NTD không phải là người trực tiếp soạn thảo và cũng không có khả năng đàm phán, thỏa thuận lại từng điều khoản trong hợp đồng do đó, họ cần phải có một khoảng thời gian nhất định để tìm hiểu các nội dung trong hợp đồng trước khi ký kết. Theo Isreal thì hợp đồng mẫu là: “hợp đồng mà tất cả hoặc một phần các điều kiện đã được xác định trước bởi một bên sử dụng nhiều lần trong hợp đồng với những người chưa được xác định cụ thể” (Điều 2 Luật Hợp đồng theo mẫu).[16] Qua các định nghĩa và phân tích một số nội dung về quy định hợp đồng mẫu của các nước trên có thể thấy cách hiểu hợp đồng theo mẫu ở các quốc gia có sự thống nhất tương đối với nhau dù cách sử dụng từ ngữ và câu chữ khác nhau, đồng thời các quy định trên đều theo hướng bảo vệ quyền lợi của NTD. Tại Việt Nam thì hợp đồng theo mẫu đã được ghi nhận và định nghĩa tại Điều 406 BLDS 1995, Khoản 1 Điều 407 BLDS 2005 và hiện nay được quy định tại Khoản 1 Điều 405 BLDS 2015 như sau: 13 “Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng gồm những điều khoản do một bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận thì coi như chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên đề nghị đã đưa ra”. Qua định nghĩa trên ta có thể thấy hợp đồng theo mẫu cũng có những đặc điểm như các loại hợp đồng khác bên cạnh những đặc điểm riêng của mình do đó HĐCCN sạch sinh hoạt cũng có những đặc điểm như sau: Một là, HĐCCN sạch sinh hoạt là hợp đồng được soạn sẵn bởi bên cung cấp dịch vụ. Theo như hiểu biết thông thường thì hợp đồng nó phải thể hiện sự tự do ý chí, tự do thỏa thuận của các bên khi tham gia vào quan hệ trên. Tuy nhiên, khi tham gia vào việc ký kết HĐCCN sạch sinh hoạt thì bên muốn được sử dụng nước sạch không được quyền thỏa thuận trong việc giao kết hợp đồng mà chỉ có thể chấp nhận tất cả nội dung của hợp đồng để giao kết hợp đồng hoặc từ chối giao kết hợp đồng chính điều này đã dẫn đến việc bất cân xứng của hai bên trong hợp đồng dù nó là loại hợp đồng bắt buộc phải đăng ký theo quy định của pháp luật và đã được kiểm tra để đảm bảo quyền lợi của bên yếu thế trong quan hệ này nhưng như thế vẫn chưa đủ. Hai là, hợp đồng trên được áp dụng đối với tất cả các khách hàng có đủ điều kiện tham gia vào hợp đồng. Như đã phân tích ở trên thì HĐCCN sạch sinh hoạt có những đặc điểm của các loại hợp đồng nói chung do đó, không phải bất kỳ khách hàng nào cũng được tham gia vào HĐCCN sạch sinh hoạt mà phải đáp ứng được các điều kiện về chủ thể được quy định trong BLDS như: 14 Đối với cá nhân: khách hàng tham gia vào HĐCCN sạch sinh hoạt phải đáp ứng các điều kiện về năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 16 và Điều 19 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Đối với pháp nhân: Khoản 1 Điều 86 BLDS năm 2015 quy định “năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự” nhưng trước tiên để có được năng lực pháp luật dân sự thì pháp nhân phải được công nhận theo quy định. Tại Khoản 1 Điều 74 BLDS năm 2015 quy định một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ điều kiện sau: - Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan. - Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này. - Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. - Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. Như vậy, pháp nhân được công nhận theo quy định của pháp luật thì có đủ điều kiện tham gia vào HĐCCN sạch sinh hoạt. Ba là, chủ thể của HĐCCN sạch sinh hoạt luôn bao gồm một bên là bên BCCN và bên còn lại là BSDN. Để tham gia vào quan hệ trên thì các chủ thể phải có năng lực chủ thể nhất định. Theo đó, để hợp đồng có hiệu lực thì một trong những điều kiện tiên quyết là chủ thể phải có “năng lực hành vi dân sự” được quy định cụ thể tại Điểm a Khoản 1 Điều 117 BLDS 2015 như sau: “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập”. Theo quy định của BLDS năm 2015 thì chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng gồm cá nhân, tổ hợp tác, pháp nhân, hộ gia đình. Mặt khác, năng lực hành 15 vi dân sự để tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng của các chủ thể khác nhau thì khác nhau. Trong các hợp đồng thông thường thì địa vị pháp lý của các bên khi giao kết hợp đồng thường không có sự chênh lệch rõ ràng và các bên ngang bằng nhau. Do đó, các bên có đầy đủ điều kiện, cơ sở, khả năng để thỏa thuận, thương lượng về các điều khoản trong hợp đồng nhằm đáp ứng được nhu cầu mình đặt ra. Tuy nhiên, HĐCCN sạch sinh hoạt thì lại khác, giữa các chủ thể tồn tại một khoảng cách về địa vị rất lớn. Bên đưa ra các điều khoản trong hợp đồng là bên có địa vị pháp lý cao hơn, có sự am hiểu về pháp lý, có khả năng tài chính cao đồng thời cũng có sự am hiểu, điều kiện và khả năng tìm hiểu về loại sản phẩm mà mình cung cấp. Ngược lại, BSDN do họ có nhu cầu sử dụng nước và ở một vị thế thấp hơn hẳn do đó họ phải chấp nhận vô điều kiện nội dung của hợp đồng. Họ không thể thương lượng lại các nội dung trong hợp đồng. Bốn là, hình thức của hợp đồng được thể hiện dưới hình thức văn bản. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 401 BLDS 2005 quy định: “Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định”. Theo như quy định trên thì BLDS năm 2005 không quy định cụ thể về hình thức của hợp đồng tuy nhiên tại Khoản 1 Điều 119 BLDS năm 2005 quy định cụ thể hình thức của giao dịch dân sự như sau: “Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản”. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan