Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Hội nhập văn hoá phương thức phát triển nền văn hoá việt nam tiên tiến, đậm đà...

Tài liệu Hội nhập văn hoá phương thức phát triển nền văn hoá việt nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

.PDF
170
336
133

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐÀO THU HƢƠNG HỘI NHẬP VĂN HÓA – PHƢƠNG THỨC PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - năm 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐÀO THU HƢƠNG HỘI NHẬP VĂN HÓA – PHƢƠNG THỨC PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS Mã số: 92.29.002 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. Nguyễn Văn Huyên HÀ NỘI - năm 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Những kết quả và nội dung của luận án là trung thực, chưa được công bố ở những công trình nghiên cứu khác. Tác giả luận án Đào Thu Hương MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN ........ 8 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến các vấn đề lý luận chung về văn hóa ..................................................................................................... 8 1.1.1. Những nghiên cứu về khái niệm văn hóa......................................... 8 1.1.2. Những nghiên cứu về bản chất của văn hóa .................................. 11 1.1.3. Những nghiên cứu về cấu trúc và vai trò của văn hóa trong phát triển xã hội ........................................................................................ 14 1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến vấn đề phát triển nền văn hóa Việt Nam trong hội nhập văn hóa ..................................................... 19 1.2.1. Nghiên cứu liên quan đến xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam .................................................................................................. 19 1.2.2. Nghiên cứu về hội nhập văn hóa với tư cách phương thức phát triển văn hóa ............................................................................................. 23 1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra đối với luận án ......................................................................................................... 28 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................ 31 Chƣơng 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA VÀ HỘI NHẬP VĂN HÓA .......................................................................................... 32 2.1. Những vấn đề lý luận về văn hóa ...................................................... 32 2.1.1. Khái niệm, bản chất văn hóa, quy luật vận động và phát triển của văn hóa ............................................................................................... 32 2.1.2. Văn hóa - tinh hoa của dân tộc ....................................................... 43 2.2. Một số vấn đề chủ yếu về hội nhập văn hóa và phát triển văn hóa ... 48 2.2.1. Khái niệm hội nhập văn hóa và phát triển văn hóa, tính tất yếu và nội dung của hội nhập văn hóa ............................................................ 48 2.2.2. Vai trò của hội nhập văn hóa đối với sự phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc .............................................................. 63 TIẾU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................ 76 Chƣơng 3. THỰC TRẠNG HỘI NHẬP VĂN HÓA TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC................................................................... 78 3.1. Thành tựu của hội nhập văn hóa trong sự phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc..................................... 78 3.1.1. Hội nhập văn hóa đã bổ sung, hình thành và phát triển nhiều giá trị văn hóa mới theo hướng tiên tiến và hiện đại................................ 78 3.1.2. Hội nhập văn hóa đã làm mới và đậm đà thêm các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc theo hướng tiến bộ và nhân văn ................ 92 3.1.3. Hội nhập văn hóa góp phần nâng cao vị thế văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế ................................................................................. 103 3.2. Hạn chế và những vấn đề đặt ra của hội nhập văn hóa trong sự phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc...... 105 3.2.1. Sự tiếp nhận giá trị mới từ bên ngoài và nguy cơ mai một nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc ...................................... 105 3.2.2. Hội nhập văn hóa tạo nên sức ép cạnh tranh rất lớn từ bên ngoài vào các lĩnh vực văn hóa ở nước ta .............................................. 109 3.2.3. Sự xâm nhập của các sản phẩm phản văn hóa và tư duy bảo thủ, chậm đổi mới kìm hãm hiệu quả hội nhập văn hóa hiện nay ......... 117 TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 .......................................................................... 120 Chƣơng 4. ĐẨY MẠNH HỘI NHẬP VĂN HÓA NHẰM TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC .................................................................................. 122 4.1. Quan điểm và nguyên tắc đẩy mạnh hội nhập văn hóa nhằm tiếp tục phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ....................................................................................................... 122 4.1.1. Một số quan điểm cơ bản đẩy mạnh hội nhập văn hóa nhằm tiếp tục phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc .................................................................................................... 122 4.1.2. Một số nguyên tắc chủ yếu đẩy mạnh hội nhập văn hóa nhằm tiếp tục phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc .................................................................................................... 128 4.2. Giải pháp tiếp tục đẩy mạnh hội nhập văn hóa nhằm phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ........... 135 4.2.1. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong việc đẩy mạnh hội nhập văn hóa nhằm phát triển nền văn hóa mới ở Việt Nam ...................................................................................... 135 4.2.2. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ để nâng cao năng lực và hiệu quả hội nhập văn hóa ............ 138 4.2.3. Phát triển nhanh các lĩnh vực, các yếu tố văn hóa để bổ sung và phát triển các giá trị văn hóa ............................................................. 141 4.2.4. Đa dạng hóa các hình thức hội nhập văn hóa .............................. 143 4.2.5. Ngăn ngừa sự xâm nhập các sản phẩm phản văn hóa ngoại lai và xóa bỏ các hủ tục lạc hậu trong nền văn hóa dân tộc ........................ 146 TIẾU KẾT CHƢƠNG 4 .......................................................................... 148 KẾT LUẬN .................................................................................................. 149 DANH MỤC NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .................................. 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 152 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Văn hóa là tinh hoa của con người và xã hội, là linh hồn và sức sống của mỗi quốc gia, dân tộc. Mỗi dân tộc, bằng lao động sáng tạo của mình đã làm nên văn hóa riêng với bản sắc độc đáo của mình. Đến lượt mình, văn hóa dân tộc lại trở thành nội lực cho dân tộc phát triển và trường tồn. Vì vậy, văn hóa có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội. Lịch sử nhân loại đã chứng minh văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là công cụ của lịch sử sinh tồn và phát triển của quốc gia, dân tộc. Kinh nghiệm phát triển kinh tế - xã hội ở nhiều quốc gia đã chỉ ra rằng nếu quốc gia nào trong sự phát triển của mình mà tách rời sự phát triển kinh tế ra khỏi môi trường văn hóa thì nhất định sẽ bị mất cân đối nghiêm trọng cả về mặt kinh tế lẫn văn hóa và nền văn hóa đó cũng sẽ bị mai một, suy yếu dần. Do đó, trong thời đại ngày nay, bên cạnh việc cùng nhau hợp tác phát triển kinh tế, tất cả các quốc gia trên thế giới đều đã và đang nỗ lực không ngừng tìm cách hội nhập, trao đổi, hợp tác nhằm tìm ra những giải pháp phát triển văn hóa, làm động lực cho sự phát triển kinh tế, xã hội và con người. Nhưng làm thế nào để phát triển nền văn hóa? Trong quá trình phát triển ở bất kỳ quốc gia, dân tộc nào, văn hóa bao giờ cũng được phát triển từ nhiều yếu tố khác nhau: từ điều kiện tự nhiên, đặc điểm con người, truyền thống dân tộc, nhất là các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ,... Trong đó, giao lưu, hội nhập giữa các nền văn hóa là một cách thức quan trọng để xây dựng và phát triển nền văn hóa. Lịch sử phát triển của các quốc gia, dân tộc trên thế giới nói chung, phát triển văn hóa của các quốc gia nói riêng cho thấy, không hội nhập quốc tế nói chung, hội nhập quốc tế về văn hóa nói riêng thì không thể phát triển được. Cũng như quy luật phát triển xã hội nói chung, văn hóa không thể đứng tách biệt; nếu đứng tách khỏi cộng đồng văn hóa loài người, văn hóa dân tộc 1 sẽ ngày một nghèo nàn. Quy luật vận động và phát triển của văn hóa là thâm nhập vào các nền văn hóa khác, tiếp nhận, học hỏi, bổ sung, làm phong phú cho văn hóa riêng của dân tộc, đồng thời làm phong phú thêm các nền văn hóa khác. Bởi vì văn hóa là tinh hoa của dân tộc. Các nền văn hóa hội nhập, trao đổi với nhau có nghĩa là nền văn hóa này tiếp thu tinh hoa của các dân tộc khác. Đó là một trong những phương thức tối ưu của quá trình mỗi nền văn hóa dân tộc tự làm giàu có cho chính mình, phát triển chính mình. Thông qua hội nhập văn hóa, nền văn hóa của các dân tộc đã tiếp thu, học hỏi tinh hoa văn hóa nhân loại, góp phần làm đa dạng, phong phú và sâu sắc hơn nền văn hóa dân tộc. Đồng thời, hội nhập văn hóa cũng đòi hỏi các dân tộc phải giữ vững các giá trị văn hóa đặc sắc của mình và giới thiệu các giá trị văn hóa tiêu biểu đó với thế giới trong quá trình hội nhập. Hội nhập văn hóa có vai trò quan trọng như vậy trong sự phát triển văn hóa nhưng trong một thời gian dài trước đây, việc triển khai vấn đề này ở nước ta còn chưa đúng mức, làm hạn chế rất nhiều đến quá trình phát triển nền văn hóa nước nhà. Trong thời gian gần đây, với chủ trương đẩy mạnh hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập văn hóa, lĩnh vực văn hóa của xã hội ta có nhiều khởi sắc. Nội dung và phương thức hội nhập quốc tế về văn hóa đã được đổi mới nhiều và thực tế, nhiều khía cạnh của văn hóa Việt Nam được khám phá, vị trí và vai trò của văn hóa Việt Nam được khẳng định và tác động mạnh tới sự phát triển của nhiều lĩnh vực khác trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội… Tuy nhiên, so với sự phát triển nhanh của các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, xã hội… thì lĩnh vực văn hóa nước ta vẫn còn quá chậm và chưa đồng bộ, chưa toàn diện. Điều đó có thể do chủ thể văn hóa chưa chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, có thể do chúng ta chưa khai thác và phát huy đúng và hiệu quả các tiềm năng văn hóa dân tộc; có thể do trình độ và năng lực tổ chức, triển khai các thế mạnh riêng của văn hóa Việt Nam trong các điều kiện 2 mới… Song theo chúng tôi, một trong những nguyên nhân chậm trễ và chưa hiệu quả trong quá trình phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc, đó là chúng ta chưa nhận thức đúng và sâu sắc vai trò của hội nhập quốc tế về văn hóa đối với sự phát triển nền văn hóa nước ta; chưa có tầm nhìn và chiến lược xây dựng nội dung hội nhập quốc tế về văn hóa; từ đó, chưa vạch ra chính xác và cụ thể các khía cạnh, các nội dung, đặc biệt là các cách thức hội nhập quốc tế về văn hóa; làm thế nào để khai thác hiệu quả nhất các yếu tố của nền văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập. Có được tư duy khoa học và năng lực hội nhập quốc tế về văn hóa, chắc chắn nền văn hóa Việt Nam vốn phong phú, đa dạng và đặc sắc sẽ nhanh chóng trở thành một nền văn hóa tiên tiến, hiện đại. Với những vấn đề và tính cấp thiết trên, nghiên cứu sinh chọn vấn đề “Hội nhập văn hóa - Phương thức phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” làm đề tài luận án tiến sỹ của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án Nghiên cứu, luận giải một cách thuyết phục hội nhập quốc tế về văn hóa là một phương thức phát triển ưu trội của phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Để thực hiện mục đích nêu trên, luận án sẽ giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau đây: Thứ nhất, trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, đánh giá tình hình nghiên cứu và xác định những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu. Thứ hai, làm rõ những vấn đề lý luận về bản chất và vai trò của hội nhập quốc tế về văn hóa với tư cách là một phương thức phát triển văn hóa ưu trội. 3 Thứ ba, làm rõ thành tựu và hạn chế của quá trình hội nhập quốc tế về văn hóa trong sự phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong những năm vừa qua. Thứ tư, đề xuất một số quan điểm, nguyên tắc và những giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục đẩy mạnh hội nhập văn hóa vì sự phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời gian tới. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án Nghiên cứu hội nhập quốc tế về văn hóa với tính cách là phương thức phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án Luận án tiếp cận những vấn đề văn hóa, hội nhập quốc tế về văn hóa và phát triển văn hóa theo quan điểm mácxít. Hội nhập quốc tế về văn hóa có rất nhiều nội dung: có thể nghiên cứu từ phương diện lịch sử, chính trị, quan hệ quốc tế… Luận án này tiếp cận vấn đề từ phương diện triết học, chỉ tập trung luận giải, chứng minh cho thuyết phục bản chất khoa học và hiệu quả của hội nhập quốc tế trong phát triển văn hóa Việt Nam. 3.3. Không gian, thời gian nghiên cứu của luận án Luận án tiến hành nghiên cứu vấn đề từ khi Đảng và Nhà nước ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước và mở cửa hội nhập quốc tế (từ năm 1986 đến nay), trọng tâm là từ khi Việt Nam thực hiện hội nhập quốc tế về văn hóa. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận của luận án Cơ sở lý luận của luận án là những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa và hội nhập để phát triển văn hóa. Bên cạnh đó, luận án có sử dụng các lý thuyết phát triển hiện đại về văn hóa và hội nhập văn hóa. 4 4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là công cụ chung nhất để nhìn nhận, tiếp cận và phân tích đối tượng của luận án một cách có căn cứ lý luận và thực tiễn làm rõ cơ sở của quá trình hình thành và phát triển các yếu tố cấu thành nền văn hóa, nguyên tắc và cơ chế tiếp nhận các giá trị văn hóa với tư cách là tinh hoa của các dân tộc, làm phong phú, hiện đại hóa và tiên tiến hóa bản sắc văn hóa của mỗi nền văn hóa thông qua sự hội nhập quốc tế về văn hóa. Phương pháp cụ thể được sử dụng trong luận án là: lịch sử và lôgic, phân tích và tổng hợp, khái quát hóa, gắn lý luận với thực tiễn... Phương pháp lịch sử và logic luôn luôn gắn kết với nhau trong suốt quá trình nghiên cứu và giải quyết các vấn đề và nội dung của luận án. Cặp phương pháp này chứng minh quá trình hình thành và phát triển của bản chất, các yếu tố, các giá trị văn hóa. Chúng sẽ luận giải một cách thuyết phục quá trình hội nhập văn hóa có tính lịch sử và logic như một tất yếu. Quá trình hội nhập văn hóa của các dân tộc chỉ có thể diễn ra trong lịch sử - logic của nó, nó diễn ra từ thấp đến cao, bối cảnh lịch sử quy định sự lựa chọn các giá trị văn hóa phù hợp, không thể hội nhập một cách phi thực tế. Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng trong luận án nhằm phân tích - tổng hợp để làm rõ quá trình tiếp nhận và phát triển các yếu tố, các giá trị văn hóa mới trong quá trình các nền văn hóa thống nhất với nhau, tác động và thúc đẩy quá trình nảy sinh các yếu tố và các giá trị mới trong mỗi nền văn hóa. Sự phân tích các sự kiện, các yếu tố và việc xác định bản chất của chúng là căn cứ để đi đến sự tổng hợp kết quả phân tích đó. Có thể nói, cặp phương pháp phân tích - tổng hợp là thế mạnh trong việc chứng minh tính tất yếu của sự hình thành và phát triển của các giá trị mới của nền văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập. 5 Phương pháp khái quát hóa là phương pháp đứng trên kết quả của quá trình phân tích - tổng hợp để rút ra những kết luận theo hướng khẳng định rằng, quá trình hội nhập quốc tế về văn hóa tất yếu sẽ đưa đến những kết quả hình thành và phát triển của những giá trị mới của mỗi bên tham gia hội nhập. Khái quát hóa không chỉ là dựa trên số liệu, chất liệu của phân tích - tổng hợp, mà là phương pháp hữu hiệu để người nghiên cứu đi đến những kết luận có cơ sở khoa học, do đó có tính thuyết phục. Phương pháp khái quát hóa đã cho phép nghiên cứu sinh rút ra được những kết luận có sức thuyết phục trong luận án. Phương pháp gắn lý luận với thực tiễn được sử dụng trong luận án để làm tăng sức thuyết phục của những phương pháp phân tích - tổng hợp và khái quát hóa những kết luận. Lý thuyết không thể tách rời với thực tiễn. Thực tiễn là cơ sở của chân lý (V.I.Lênin). Luận án vừa có những nội dung trừu tượng, vừa kết hợp lý luận với thực tiễn đã được sử dụng trong luận án, làm cho những cái trừu tượng trở nên thực tế hơn. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Thứ nhất, luận án đã luận chứng, làm rõ về mặt lý luận tính ưu việt của hội nhập quốc tế về văn hóa trong sự phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Thứ hai, luận án đã làm rõ những thành tựu và hạn chế của hội nhập quốc tế về văn hóa trong quá trình phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời gian qua. Thứ ba, luận án đề xuất được một số quan điểm, nguyên tắc và giải pháp khả thi để tiếp tục đẩy mạnh hội nhập quốc tế về văn hóa nhằm đẩy nhanh quá trình phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án Luận án góp phần làm rõ và sâu sắc thêm những vấn đề lý luận về hội nhập văn hóa với tư cách là một phương thức ưu việt của quá trình phát triển 6 văn hóa nói chung, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nói riêng; góp phần làm phong phú cả nội dung và phương thức xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho các cơ quan Đảng, Nhà nước và các cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc hoạch định chiến lược xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam. Luận án cũng là tài liệu tham khảo có tính chuyên sâu dành cho công tác nghiên cứu, học tập trong lĩnh vực cụ thể. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận án gồm 4 chương, 9 tiết. 7 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN Nghiên cứu về vấn đề hội nhập văn hóa và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc những năm qua thu hút không ít nhà khoa học tham gia với những chủ đề phong phú, phương pháp tiếp cận đa dạng. Theo mục đích, nhiệm vụ của luận án, chương tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài sẽ làm rõ hai nhóm vấn đề chính. 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến các vấn đề lý luận chung về văn hóa 1.1.1. Những nghiên cứu về khái niệm văn hóa Văn hóa là khái niệm rộng lớn, tồn tại trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về khái niệm văn hóa thuộc các ngành khoa học lịch sử, nhân loại học, dân tộc học, xã hội học, văn hóa học, triết học... Điều đó cho thấy các quan điểm về văn hóa là rất phong phú, đa dạng và hết sức phức tạp. Về xuất xứ khái niệm văn hóa, đa số các nhà nghiên cứu đều coi định nghĩa văn hóa của nhà nghiên cứu văn hóa người Anh Edward B. Tylor (1832 - 1917) đưa ra trong công trình “Văn hóa nguyên thủy” (1871) là định nghĩa khoa học đầu tiên về văn hóa. Trong công trình“Văn hóa: Tổng luận về các khái niệm và định nghĩa” (1952), hai tác giả A.L.Kroeber và Clyde Kluckhohn đã liệt kê hơn 150 định nghĩa văn hóa. Từ đó cho đến nay, đã xuất hiện thêm rất nhiều định nghĩa văn hóa. Khoảng những năm 70 của thế kỷ XX, nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa trên thế giới đã tập trung làm rõ nội hàm của văn hóa, coi văn hóa là những đặc điểm về thói quen, lối sống, phong tục, tập quán, cách thức lao 8 động sản xuất… của các cộng đồng người, các quốc gia, dân tộc, coi đó là những cái giúp phân biệt các dân tộc trên thế giới với nhau. Theo Từ điển Bách khoa thư Le Petit Larousse (năm 2000 của Pháp), “văn hóa hiểu theo nghĩa rộng là tập tục, tín ngưỡng, ngôn ngữ, tư tưởng, thị hiếu, thẩm mỹ, những hiểu biết kỹ thuật, cũng như toàn bộ tổ chức môi trường của con người, văn hóa vật chất gồm những công cụ, nhà ở và nói chung toàn bộ công nghiệp có thể truyền lại được, điều tiết những quan hệ và những ứng dụng của một nhóm xã hội với môi trường sinh thái của nó” [23; tr.20]. Nhà nghiên cứu người Trung Quốc, Đàm Gia Kiện trong cuốn sách “Lịch sử văn hóa Trung Quốc” (1993) quan niệm: “Ngoại diên của văn hóa có rộng, có hẹp…, song trong đó các mặt chủ yếu không ngoài chế độ điển chương (văn trị), tập tục xã hội, văn học, nghệ thuật, triết học, tôn giáo, khoa học, kỹ thuật” [Theo 121; tr.18]. UNESCO, trong Tuyên bố quốc tế về tính đa dạng văn hóa (2001) cũng đã đưa ra một cách hiểu về văn hóa; cách hiểu đó cho rằng, văn hóa nên được xem như một tập hợp các đặc điểm nổi bật về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm của xã hội hay một nhóm xã hội, ngoài văn học, nghệ thuật, nó còn bao hàm lối sống, cách thức cùng chung sống, các hệ thống giá trị, các truyền thống và tín ngưỡng [Theo 121; tr.20]. Ở Việt Nam, hiện vẫn chưa rõ khái niệm văn hóa xuất hiện trong văn tự lần đầu tiên từ khi nào. Tuy nhiên, trong “Bình Ngô đại cáo” (1428), Nguyễn Trãi đã bàn đến văn hiến như sau: “Như nước Đại Việt ta từ trước/Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Trong nền văn hiến đó, Nguyễn Trãi xác định nét đặc trưng của văn hóa Việt là “phong tục” (“Phong tục Bắc Nam cũng khác”). Cho đến nay, các công trình nghiên cứu liên quan đến văn hóa ở nước ta là rất phong phú và đa dạng. Trong đó, trước hết phải kể đến học giả Đào 9 Duy Anh với quan niệm “Văn hóa là cách sinh hoạt của người” [1; tr.10-11] trong công trình nghiên cứu “Việt Nam văn hóa sử cương” (2000). Ngay từ năm 1943, Hồ Chủ tịch đã đưa ra một khái niệm văn hóa có thể nói là khái quát hầu hết nội hàm các khái niệm văn hóa trước đó: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương tiện sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [102; tr.431]. Trong những thập niên gần đây, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam đã đưa ra thêm nhiều cách định nghĩa khác nhau về văn hóa. Trong công trình "Bản sắc văn hóa Việt Nam" (1998), nhà nghiên cứu Phan Ngọc đã đề cập đến một số khái niệm như văn hóa, tiếp xúc văn hóa, khúc xạ văn hóa, giao lưu bản sắc... đồng thời tác giả cũng đưa ra quan điểm về sự giao lưu giữa văn hóa Việt Nam với các nền văn hóa khác trên thế giới. Đặc biệt, tác giả đã đưa ra một định nghĩa mang tính chất thao tác luận về văn hóa. Trong quan niệm về văn hóa, Phan Ngọc cho rằng văn hóa là một quan hệ, có mặt ở mọi tộc người và chỉ ở con người mà thôi, cho nên cần tìm hiểu khái niệm văn hóa ở những khoa học nghiên cứu loài người một cách tổng thể như tâm lý học, triết học. Khác với Phan Ngọc, nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng tiếp cận văn hóa học từ các góc độ lịch sử và khảo cổ học. Các công trình tiêu biểu của ông phải kể đến: “Việt Nam, cái nhìn địa văn hóa” (1998); “Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm” (2000); Cơ sở văn hóa Việt Nam (2004)... Trong các công trình nghiên cứu của mình, ông chủ yếu đề cập đến các giá trị văn 10 hóa truyền thống của dân tộc cũng như đề cao vẻ đẹp truyền thống của con người Việt Nam - vốn được hình thành từ trong lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc ta. Trong công trình “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam (Cái nhìn hệ thống loại hình)”(1997), nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm đã hướng đến những nét bản sắc đặc trưng cơ bản cần thiết cho việc tìm hiểu văn hóa Việt Nam cùng những quy luật hình thành và phát triển của chúng. Tác giả đã vận dụng cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc kết hợp với phương pháp so sánh loại hình để tiến hành khảo sát văn hóa Việt Nam một cách toàn diện, trong sự liên hệ với các nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Trong công trình này, tác giả đã đưa ra định nghĩa về văn hóa với bốn đặc trưng quan trọng của văn hóa: tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử, tính nhân sinh. Kết quả khảo sát trên cho thấy, trên thế giới và ở Việt Nam có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm văn hóa do cách tiếp cận về văn hóa của các nhà khoa học khác nhau. Song, dù có khác nhau thì các quan điểm về văn hóa vẫn có sự thống nhất, đó là xem văn hóa là toàn bộ những giá trị do con người sáng tạo ra, bao gồm cả mặt vật chất và mặt tinh thần, là cái đặc trưng của một cộng đồng người, giúp phân biệt các cộng đồng người khác nhau trong lịch sử. 1.1.2. Những nghiên cứu về bản chất của văn hóa Cùng với các nghiên cứu và đưa ra các định nghĩa về văn hóa, thì các quan niệm về bản chất của văn hóa đã được nhiều học giả quan tâm, nghiên cứu từ lâu. Nghiên cứu về bản chất của văn hóa, các học giả đều luận giải và đi đến nhận định có tính chung về bản chất của văn hóa: Văn hóa là sản phẩm của hoạt động của con người, nó thể hiện sức mạnh của con người, năng lực của con người trong quá trình tồn tại và phát triển của mình. Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 10 - 2003 có giới thiệu bài “Bản chất của văn hóa” của các tác giả David Hicks và Margazet A. Gwynne. Bài viết 11 đã nêu lên được một số khía cạnh, thuộc tính của văn hoá đó là văn hoá không phải là cái có sẵn trong giới tự nhiên mà văn hoá là sản phẩm do con người tạo ra, là cái thuộc về con người và xã hội. Từ góc độ triết học, có rất nhiều công trình, sách, bài báo nghiên cứu về văn hóa với tư cách là phương thức hoạt động sáng tạo của con người. Nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Hoàng đã công bố một số bài tạp chí bàn về bản chất văn hóa, tiêu biểu phải kể đến cuốn sách “Tiếp cận hoạt động của Mác - Cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu và phát triển văn hóa con người ngày nay”. Tác giả Lê Ngọc Anh có bài viết đăng trên tạp chí Triết học “Văn hóa với tư cách là phương thức hoạt động của con người”... Ở đây tác giả trình bày phương thức hoạt động của con người như một sự nhận thức, một tổ chức và cách thức lao động, sản xuất, hoạt động sống - chúng thể hiện văn hóa của cộng đồng người. Trong bài viết “Văn hóa với tiềm năng hoạt động sáng tạo của con người”, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huyên đã phân tích sâu sắc bản chất của văn hóa. Theo ông, văn hóa là “bản tính thứ hai” của loài người, nơi chứa đựng toàn bộ tinh hoa trí tuệ, phẩm chất, năng lực, ý chí, khát vọng và niềm tin của con người; nói tổng quát là toàn bộ sức mạnh bản chất Người. Quá trình tạo ra “thiên nhiên thứ hai” thực chất cũng là quá trình loài người không ngừng tự nâng cao và hoàn thiện chính mình trong suốt chiều dài lịch sử. Văn hóa luôn hiện thân trong mọi lĩnh vực hoạt động sống của xã hội; nó quy định phong cách tư duy, phương thức hành động, lối sống; nó cũng quy định hiệu quả và chất lượng hoạt động sáng tạo của mỗi cá nhân. Sức mạnh quy định đó nằm trong nhân lõi tinh túy được kết tụ thành tiềm năng sáng tạo to lớn của văn hóa. Trong cuốn “Tìm hiểu về văn hóa và văn minh”, tác giả Hồ Sĩ Quý cho rằng: “Văn hóa là biểu hiện của phương thức sống của con người, là tổng hòa mọi giá trị người”, do đó, ông cũng cho rằng, bản chất của văn hóa nằm 12 ở thái độ và cách thức hoạt động của con người trong việc duy trì và thực hiện cuộc sống của mình. Các nhà nghiên cứu kể trên có quan niệm chung về bản chất của văn hóa ở khía cạnh coi văn hóa là sản phẩm của con người, kết tinh của các giá trị vật chất và tinh thần, do con người sáng tạo ra. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, để tồn tại và phát triển, hoạt động sản xuất cơ bản đầu tiên mà con người tiến hành là hoạt động sản xuất vật chất. Đó là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, tạo ra sản phẩm để thỏa mãn các nhu cầu cho con người. Khi sản xuất vật chất, con người đã thiết lập quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ giữa người với người. Sản xuất vật chất là hoạt động nền tảng cơ bản mà trên đó mọi lĩnh vực của đời sống xã hội được hình thành: lối sống, phong tục, tập quán, đạo đức, pháp luật, nghệ thuật, chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo, khoa học, nghệ thuật, thẩm mỹ,... Khi các mặt cơ bản của đời sống được hình thành thì cũng tức là văn hóa được hình thành. Như vậy, văn hóa đã xuất hiện với tư cách là sản phẩm của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ giữa con người với con người trong sản xuất và sinh hoạt. Văn hóa được hình thành, tồn tại và phát triển từ mọi mặt, mọi yếu tố trong đời sống xã hội. Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo ra nhưng không phải cái gì do con người sáng tạo ra cũng là văn hóa. Những giá trị nào được đúc kết từ trong lao động sản xuất và sinh hoạt xã hội, có vai trò quy định, điều chỉnh suy nghĩ, hành vi, ứng xử của con người, hướng con người đến với những lý tưởng tốt đẹp, góp phần hoàn thiện nhân cách con người, phát triển con người và xã hội thì mới được coi là văn hóa. Vậy thì, văn hóa còn là cái để phân biệt con người với động vật. Con người là loài động vật tiến hóa cao cấp nhất của giới tự nhiên, là thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội (C.Mác). Cái cơ bản để con người tách 13 mình ra khỏi loài vật và phát triển cho đến ngày ngày nay nằm ở bản chất xã hội của con người, đó chính là văn hóa. 1.1.3. Những nghiên cứu về cấu trúc và vai trò của văn hóa trong phát triển xã hội Dưới các góc độ tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu có các quan niệm khác nhau về cấu trúc của văn hóa. Song, dù khác nhau thì trong các định nghĩa của các nhà nghiên cứu đều chứa đựng hai lĩnh vực sản phẩm, hai lĩnh vực giá trị chung. Thông thường, văn hóa có cấu trúc gồm hai phần: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Văn hóa vật chất là những sản phẩm, những hiện vật, những công trình, nói chung là những sáng tạo của con người mà chúng ta có thể cảm nhận được thông qua các giác quan, với những kích thước, trọng lượng, hình dáng, màu sắc, mùi vị, âm thanh nhất định. Văn hóa tinh thần cũng là những sản phẩm do con người sáng tạo ra nhưng đó là những sáng tạo thuộc lĩnh vực tri thức, tâm linh, hiểu biết, tình cảm, suy tư... của con người. Văn hóa tinh thần thuộc về lĩnh vực tư duy trừu tượng mà chúng ta không thể dùng các khí quan để cầm, nắm, quan sát nó, chỉ có thể nhận biết thông qua suy nghĩ, cảm nhận và liên tưởng. Tương tự cách phân chia trên, nhưng cách sử dụng từ ngữ khác nhau, UNESCO đưa ra khái niệm cấu trúc văn hóa bao gồm hai thành tố: văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể, tức là tổng thể văn hóa được phân định một cách tương đối - một phần là những giá trị văn hóa được thể hiện ở các dạng vật thể - được cảm nhận bằng hình khối, kích thước khá cụ thể; một phần là những giá trị văn hóa có tính trừu tượng thuộc tinh thần, những gì thuộc phi vật thể. Có thể thấy, việc xác định cấu trúc của văn hóa là một vấn đề phức tạp vì bản thân văn hóa là mang tính muôn vẻ do các yếu tố môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, điều kiện địa lý - lịch sử và tâm lý con người chi phối. Khái niệm văn hóa đa dạng như thế nào thì cấu trúc văn hóa cũng đa dạng như vậy. Bên cạnh việc phân chia văn hóa thành văn hóa vật chất và tinh thần, 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan