Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông...

Tài liệu Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông

.PDF
197
67
135

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN   ĐOÀN NGỌC MINH HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI Y HỌC CỔ TRUYỀN PHƯƠNG ĐÔNG LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN   ĐOÀN NGỌC MINH HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI Y HỌC CỔ TRUYỀN PHƯƠNG ĐÔNG LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Chuyên ngành : LỊCH SỬ TRIẾT HỌC Mã số : 62.22.80.01 Người hướng dẫn khoa học : HD1: PGS.TS. NGUYỄN THẾ NGHĨA HD2: PGS.TS. LÝ VĂN XUÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2013 1 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu là trung thực và chưa được ai công bố. Đoàn Ngọc Minh 2 MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………. 4 1. Tính cấp thiết của đề tài .…………………………... 4 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài ……….. 9 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài ……... 15 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài ……… 15 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài …………..….. 17 6. Đóng góp mới của đề tài ………………………………. 17 7. Kết cấu của luận án ………..…...……………........................... 18 CHƯƠNG 1: NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH ..…. 1.1. Nguồn gốc hình thành học thuyết Ngũ hành …….……….. 19 19 1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa của Trung Quốc cổ đại .. 19 1.1.2. Nhu cầu tìm hiểu, giải thích thế giới của người Trung Quốc cổ đại với sự hình thành học thuyết Ngũ hành …..………. 35 1.2. Quá trình hình thành và phát triển của học thuyết Ngũ hành…….. 41 1.2.1. Sự hình thành của học thuyết Ngũ hành từ thời cổ đại đến đời nhà Hán …………………………………………….. 41 1.2.2. Sự phát triển của học thuyết Ngũ hành thời Hậu Hán …… 65 1.3. Sự phát triển của học thuyết Ngũ hành vào Việt Nam …………. 83 Kết luận chương 1 … …………………………………………... 91 CHƯƠNG 2 : NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH TRONG TỰ NHIÊN, XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI ……………. 2.1. Nội dung cơ bản của học thuyết Ngũ hành .…….. 2.1.1. Những yếu tố cơ bản tạo nên Ngũ hành .……………..... 94 94 94 2.1.2. Sự biểu hiện của Ngũ hành trong tự nhiên, xã hội và con người …………………………………………….104 2.1.3. Những quy luật cơ bản của Ngũ hành …………….… 119 2.2. Cách giải thích mới về thế giới của học thuyết Ngũ hành…….. 129 3 2.2.1. Quan điểm duy vật chất phác trong học thuyết Ngũ hành về sự nhận thức và giải thích thế giới ……………….. 129 2.2.2. Học thuyết Ngũ hành với quan điểm biện chứng sơ khai… 132 Kết luận chương 2 ………………………………………………... 134 CHƯƠNG 3 : Ý NGHĨA CỦA HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH VỚI Y HỌC CỔ TRUYỀN PHƯƠNG ĐÔNG ………….. 136 3.1. Khái quát về y học cổ truyền phương Đông và ý nghĩa việc vận dụng học thuyết Ngũ hành đối với y học cổ truyền phương Đông ………………………………………………… 136 3.2. Những biểu hiện của học thuyết Ngũ hành trong bệnh lý người ………………………………….. ……… 3.2.1. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng thận ……... 142 143 3.2.2. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng tâm ……… ……... 144 3.2.3. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng can … …………... 145 3.2.4. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng phế ....................... 146 3.2.5. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng tỳ …………… 147 3.3. Học thuyết Ngũ hành với phương pháp dưỡng sinh, chẩn bệnh và chữa bệnh …………………………………… 148 3.3.1. Học thuyết Ngũ hành với phương pháp dưỡng sinh …. 148 3.3.2. Chẩn bệnh theo học thuyết Ngũ hành ………………… 153 3.3.3. Chữa bệnh theo học thuyết Ngũ hành ………………… 161 3.3.4. Kết quả khảo sát 504 bệnh án tại Bệnh viện Khoa Y học cổ truyền thuộc bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh từ 2008 đến 2010 và giá trị Tỳ Thổ của học thuyết Ngũ hành đối với sức khỏe con người …………….…………………………………... 167 Kết luận chương 3…………………………………………... 180 KẾT LUẬN CHUNG ……………………………………… 182 TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………… 186 4 MỞ ĐẦU 1. TÌNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Suốt mấy nghìn năm qua, kể từ thời thượng cổ, học thuyết Ngũ hành là một trong những học thuyết quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến triết học Trung Quốc nói riêng, triết học và văn hóa phương Đông nói chung. Không bao lâu sau khi ra đời, nó đã chiếm vị trí nổi bật, chứng tỏ đó là một học thuyết nhất quán, hoàn chỉnh không chỉ giải thích nguồn gốc và cơ cấu của vũ trụ, mà còn góp phần vào giải thích những hiện tượng trong cuộc sống của con người. Là một học thuyết phát triển mạnh ở phương Đông và tồn tại hàng nghìn năm trong lịch sử, học thuyết Ngũ hành phát triển vượt ra ngoài phạm vi triết học và đặt dấu ấn đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Các nguyên lý cơ bản của Ngũ hành đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các lĩnh vực của đời sống xã hội ở Trung Quốc và ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ xung quanh như: Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore... Trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hoá, hôn nhân, gia đình, âm nhạc, hội hoạ, kiến trúc, quân sự, y học cổ truyền, v.v..). Ngũ hành là biểu tượng của một trong hai nền văn minh Trung Hoa xưa. Từ thời thượng cổ đến thời Xuân Thu (thế kỉ thứ VIII, trước công nguyên), đất Trung Hoa chia làm hai miền khác nhau về phương diện chủng tộc và văn hoá: lưu vực sông Hoàng Hà và lưu vực sông Dương Tử. Hoa tộc miền Bắc đã tổ chức thành một liên bang phong kiến rộng lớn, gồm hàng trăm chư hầu, dọc theo bờ sông Hoàng Hà; trong khi dân tộc lưu vực sông Dương Tử thì sống rời rạc, chia thành nhiều tiểu quốc độc lập. Nhà Trung Hoa học người Pháp, Marcel Granet (1884-1940), cho rằng, rất có thể nguyên nhân của sự phát triển văn minh chính thức Trung Hoa là sự tiếp xúc của hai nền văn minh chính yếu, một bên là văn minh vùng cao ráo của lúa kê, một bên là văn minh vùng đồng thấp của lúa gạo. Học thuyết Ngũ hành - tinh hoa của văn 5 minh Hoa tộc miền Bắc, được làm giàu, phong phú thêm bởi sự dung hoà với văn minh ma phương hay Lạc Thư của Tam Miêu hình thành Hà Đồ; Hà Đồ ghép với Âm Dương của Việt tộc miền Nam với Bát quái và Kinh Dịch làm thành nền tảng văn hoá Trung Hoa, để rồi trên mảnh đất ấy mọc lên nhiều cổ thụ triết lý đặc sắc và sum suê. Nghiên cứu học thuyết Ngũ hành để không chỉ khám phá một lý luận độc đáo khi luận bàn về bản nguyên và cấu trúc của vũ trụ, mà còn thấy được tính ứng dụng cao của nó trong nhiều lĩnh vực xã hội, thậm chí có lĩnh vực trừu tượng, huyền bí như: thiên văn, lịch số, phong thuỷ…trong đó đặc sắc và hữu dụng nhất, phải kể đến y học cổ truyền phương Đông vốn đã tồn tại hàng nghìn năm nay. Trong lĩnh vực y học, các quy luật của Ngũ hành đã đặt dấu ấn ở phương pháp quan sát, quy nạp, tìm sự tương quan của hoạt động sinh lý, bệnh lý các tạng phủ để chẩn đoán bệnh tật, tìm tính năng, tác dụng của thuốc và tiến hành hoạt động bào chế thuốc. Kể từ khi xuất hiện Hoàng đế Nội kinh tố vấn và với ảnh hưởng mạnh mẽ của tác phẩm này, nền y học Trung Quốc và nhiều nước phương Đông khác có những bước tiến đáng khâm phục. Học thuyết Ngũ hành vào Việt Nam từ rất sớm. Các nhà tư tưởng Việt Nam tích cực tiếp nhận và nỗ lực vận dụng học thuyết này một cách sáng tạo trong nhiều lĩnh vực, nhất là phát triển nền y học dân tộc cổ truyền cả trên phương diện lý luận và thực tiễn lâm sàng. Một trong những tấm gương tiêu biểu là đại danh y, nhà lý luận y học Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác với tác phẩm y học đồ sộ Hải Thượng Lãn Ông Y tông tâm lĩnh. Y học cổ truyền Việt Nam được hình thành ngay từ buổi đầu dựng nước và ngày càng phát triển trong cuộc đấu tranh chống bệnh tật, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ con người. Cũng như y học cổ truyền Trung Quốc, cơ sở để xây dựng lý luận y học cổ truyền Việt Nam không tách rời học thuyết Ngũ hành. 6 Trong khi người ta đang tiếp tục nâng cao tính ứng dụng của Ngũ hành vào các lĩnh vực đời sống thì một lần nữa, nó lại chạm vào những vấn đề vi mô của khoa học hiện đại. Đầu thế kỉ XX, với những phát minh, đặc biệt là cơ học lượng tử cho thấy trong thế giới vi mô định luật ngẫu nhiên có tính quyết định. Đây là thế kỷ của những sự kiện vĩ đại: Sự ra đời của thuyết Tương đối, thuyết Giãn nở của vũ trụ, Bức xạ tàn dư; thuyết Big Bang và sự thoát thai của vũ trụ, v.v.. Từ đây con người có tham vọng truy tìm tận căn nguyên của thế giới vi mô; muốn tìm ra viên gạch cơ bản cuối cùng, quy luật cơ bản cuối cùng của vật lý, nhưng đến nay vẫn chưa ai thực hiện được điều ấy. Cho tới những năm cuối của thế kỷ XX, về mặt xã hội, những chủ thuyết lớn nếu không vận dụng sáng tạo sẽ tất dẫn đến đổ vỡ; về tự nhiên, các nhà khoa học từ những nghiên cứu công phu, nhận ra cái giới hạn của nhận thức. Sự đổ vỡ của những thể chế quan liêu, giáo điều, sự trừng phạt của thiên nhiên chống lại sự cải tạo của con người, chạy đua vũ trang, chiến tranh, khủng bố, phân biệt chủng tộc, bất bình đẳng giới, chênh lệch giàu nghèo… cùng với sự phát minh ra lý thuyết hỗn độn, hiệu ứng cánh bướm, hình học fractal, những hệ phi tuyến… là cơ sở sâu xa cho sự xuất hiện tinh thần hậu hiện đại. Đối với hậu hiện đại, mọi sự thật thường hằng sẽ biến mất, thay vào đó là những biểu hiện của những bề mặt không bản chất. Trong thời hậu hiện đại, những lý thuyết có từ thời Ánh sáng đều đã bị đổ vỡ (Lyotard). Trong bối cảnh ấy, với sự thôi thúc của nền khoa học hậu hiện đại, người ta lại nghĩ đến, nói đến tư tưởng của triết học phương Đông, trong đó có học thuyết Ngũ hành với niềm tin vào một lý thuyết về sự thống nhất, góp phần lắp vào khe hở của lý thuyết đương đại về thế giới. Kể từ khi hai nền văn hoá Đông - Tây giao lưu và tiếp biến, thế giới lại một lần nữa nhận thấy rằng: Ngũ hành là một cơ sở quan trọng tạo nên một cái nhìn mới về sự huyền vĩ của văn hoá phương Đông. Khi bắt đầu tìm hiểu khái niệm, nguyên lý của học thuyết này, ai cũng cảm thấy dường như mình 7 hiểu được nó, nhưng khi đi sâu khám phá bản chất và thực tại khách quan mà nó phản ánh thì người ta lại bế tắc, cảm nhận rất rõ về tính chưa thuyết phục của các ý kiến đã nêu. Biết bao luận bàn của hậu thế về diễn biến lịch sử, nội dung và bản chất của học thuyết Ngũ hành đang tiếp tục bỏ ngỏ. Chính cái huyền vĩ của nó đã là một hấp dẫn. Nhưng, đó cũng chính là điểm tựa cho những suy ngẫm khi tri kiến về những vấn đề của khoa học hiện đại. Trong hơn bốn thập kỷ qua, khoa học lí thuyết của thế giới gần như bị chững lại, khoa học thế giới đang lâm vào tình trạng thoái trào giống như đầu thế kỉ XX. Những tiến bộ của công nghệ đang là nỗ lực cuối cùng để lấp kín những khe hở của khoa học lí thuyết. Tương lai không sáng sủa của khoa học duy lý, cho thấy rằng nhân loại đang tiến dần vào chặng đường khó khăn của khoa học. Trong bối cảnh đó, nhà vật lí học nổi tiếng Stephen Hawking, sinh năm 1942, đã nói về một lí thuyết thống nhất, mà nếu phát kiến được lý thuyết đó thì “tất cả chúng ta, các nhà khoa học, các triết gia và cả mọi người bình thường sẽ hiểu được và tham gia thảo luận câu hỏi vì sao vũ trụ và chúng ta tồn tại” (Lược sử thời gian, S.Hawking). Nhưng theo ông, tri thức của khoa học hiện đại chưa đủ nhân duyên để tự thân nó minh chứng cho sự tồn tại của lý thuyết này, mà nó chỉ có thể được nhận dạng qua những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học và những điểm tương đồng với nó. Theo Steven Weinberg - nhà vật lý người Mỹ, được tặng giải Nobel vì có công thống nhất tương tác điện từ và tương tác yếu - thì một mục tiêu cơ bản của vật lý là bằng cái nhìn thống nhất quan sát sự đa dạng của tự nhiên. Những thành tựu từ thế kỉ XVII đến những năm 20 của thế kỷ XX là một sự minh chứng cho một lý thuyết thống nhất: Từ sự thống nhất giữa cơ học thiên thể và cơ học (trên) Trái đất của Newton thế kỷ XVII, giữa quang học và và lý thuyết điện và từ của Maxwell ở thế kỷ XIX, thống nhất hình học không thời gian và lý thuyết hấp dẫn bởi Einstein năm 1905 và 1916, đến thống nhất giữa hoá học và vật lý nguyên tử thông qua cơ học lượng tử ở thập kỷ 20 thế 8 kỷ XX. Và nay là thuyết thống nhất - một nỗ lực không thể một sớm một chiều để hoàn thành. Mặc dù chính Stephen Hawking, vào năm 2002, công bố bài giảng Gödel & sự kết thúc của vật lý (Gödel & The End of Physics), thể hiện một sự thay đổi mang tính cách mạng trong nhận thức của ông về Lý thuyết Cuối cùng (Final Theory) của vật lý học, khác xa với những gì ông đã phát biểu trong Lược sử thời gian 11 năm trước, khi cho rằng: Tri thức khoa học hiện đại không thể nào tìm ra được lý thuyết thống nhất và việc tìm ra lý thuyết thống nhất là vô vọng, chỉ đơn giản là “Chính lý thuyết đó đã quyết định như vậy”. Nhưng tiêu chí cho một lý thuyết thống nhất khoa học thực sự đã tồn tại. Chính từ cơ sở này sẽ quyết định một lý thuyết khoa học nào đó xuất phát từ nền tảng tri thức của nền văn minh nhân loại, một khi thoả mãn các tiêu chí của một lý thuyết thống nhất thì điều đó có nghĩa là nó sẽ chính là lý thuyết thống nhất. Và lí thuyết mà các nhà khoa học hàng đầu hiện nay mong đợi có thể thấy được những gợi mở từ trong học thuyết Ngũ hành. Mặc dù có không ít quan niệm khác nhau, thậm chí phủ định nó, nhưng dần dà người ta nhận ra tính minh triết và đặt vấn đề về tính khoa học của nó. Bởi lẽ, “Ngũ hành là chỉ vào thế lực tự nhiên, vì luôn luôn động nên gọi là Hành và phản chiếu vào tinh thần người ta thành ra có những biến thái, động tác tâm lý, sinh lý” (Nguyễn Đăng Thục), nó đã giải thích từ sự hình thành vũ trụ đến những vấn đề liên quan tới con người. Thiên Hồng Phạm đã mở đầu: Sơ nhất viết Ngũ hành. Thứ nhị viết kính dụng Ngũ sự để khẳng định một nguyên lý căn bản: Ở vũ trụ chỉ có Ngũ hành, ở con người chỉ có Ngũ sự; Ngũ sự hoà với Ngũ hành, tức Thiên - Nhân hợp nhất. Đấy là quan điểm Vạn vật nhất thể. Tư tưởng này đã tồn tại mấy nghìn năm và học thuyết Ngũ hành vẫn thể hiện bằng sự hiệu quả thiết thực và hữu dụng trong thực tiễn đời sống xã hội, nhất là phương Đông từ xưa đến nay. 9 Hơn nữa, ở Việt Nam việc chữa bệnh bằng y học cổ truyền đã có hiệu quả rõ rệt và được nhân dân ngày càng tin dùng. Xuất phát từ nhu cầu thực tế đó, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất mạnh vai trò của việc kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại. Có thể nói đó là một trong những quan điểm cơ bản về y tế của Đảng. Tuy nhiên, ở Việt Nam vẫn còn một số nhận thức sai lệch khi cho rằng, y học cổ truyền chỉ là tập hợp những kinh nghiệm dân dã về một số bài thuốc và vị thuốc thông thường; rằng y học này chưa có cơ sở lý luận rõ ràng, vì vậy hiệu quả chữa bệnh còn hạn chế; hoặc là quan niệm thổi phồng vai trò của Ngũ hành và y học cổ truyền, cho rằng với sự chỉ dẫn của Ngũ hành, y học cổ truyền có thể “chữa bách bệnh”. Rõ ràng là, quan điểm kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại của Đảng và Nhà nước ta chưa được nhận thức đầy đủ, chưa được vận dụng một cách nhuần nhuyễn và có hiệu quả. Để thực hiện chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đáp ứng nhu cầu của nhân dân về chữa bệnh bằng y học cổ truyền, đồng thời góp phần khẳng định y học cổ truyền là một khoa học với các phương pháp phòng và chữa bệnh có hiệu quả, thì việc nghiên cứu cơ sở triết học của nó, mà trước hết là nghiên cứu học thuyết Âm dương - Ngũ hành, là rất cần thiết. Vì chính học thuyết Âm dương - Ngũ hành là cơ sở lý luận để giải thích nguyên nhân, cơ chế phát sinh bệnh học, điều trị học và phòng bệnh của y học cổ truyền. Đề tài luận án Học thuyết Ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương Đông góp phần nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện học thuyết Ngũ hành và vai trò của nó đối với y học cổ truyền phương Đông, qua đó làm sáng tỏ mối quan hệ hữu cơ giữa việc bảo tồn và phát triển bằng cách ứng dụng các tri thức y học cổ truyền trong việc phòng bệnh, chữa bệnh. 2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Từ thời cổ đại đến nay, với ý nghĩa thực tiễn khá sâu sắc của học thuyết Ngũ hành và sự vận chuyển của nó để giải thích những hiện tượng tự nhiên, xã hội và con người đã được nhiều nhà nghiên cứu phương Đông – trong đó có Trung Quốc và Việt Nam quan tâm; và đã thu được những kết quả to lớn 10 cho cuộc sống, đặc biệt là những kết quả nghiên cứu về học thuyết Âm dương – Ngũ hành với y học cổ truyền phương Đông. Nội dung trên đã được thể hiện trong khối lượng tài liệu to lớn của nhiều tác giả theo hai hướng: hướng triết học và hướng y học. Một là, hướng thứ nhất, có các công trình tiêu biểu: Đại cương triết học Trung Quốc; Lịch sử triết học Trung Quốc của Hồng Tiềm - Nhiệm Hoa Uông Tử Tung (Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1957); Đạo của Trương Lập Văn chủ biên, Hồ Châu - Tạ Phúc Chinh - Nguyễn Văn Đức dịch (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998). Triết giáo Đông phương của Dương Ngọc Dũng - Lê Anh Minh (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2003); Lịch sử triết học Trung Quốc của Phùng Hữu Lan, Lê Anh Minh dịch (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2006); Trung Quốc triết học sử đại cương của Hồ Thích, Huỳnh Minh Đức dịch (Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2004). Khi trình bày nội dung nghiên cứu này, các tác giả kể trên đều khẳng định Âm dương và Ngũ hành là những phạm trù triết học quan trọng trong thế giới quan của người Trung Quốc. Đó là những khái niệm trừu tượng đầu tiên của người xưa đối với sự sản sinh và biến hóa của vũ trụ, là cội nguồn của các quan điểm duy vật và biện chứng trong các tư tưởng triết học mang màu sắc Trung Quốc. Chẳng hạn tác giả Ngô Vinh Chính đánh giá: “Việc sử dụng các phạm trù Âm dương và Ngũ hành đánh dấu bước tư duy khoa học đầu tiên nhằm thoát khỏi sự khống chế về tư tưởng của các khái niệm thượng đế, quỷ thần truyền thống. Đó là cội nguồn duy vật và biện chứng trong tư tưởng triết học của người Trung Quốc”[17, tr.43]. Ngược dòng lịch sử quá trình nghiên cứu, chúng ta thấy việc đánh giá và vận dụng học thuyết Âm dương – Ngũ hành đã từng được đề cập rộng rãi trong các tác phẩm của người Trung Quốc cổ xưa. Từ đời Hán trở đi, nhiều tác giả như Lưu Biểu, Quảng Lô, Vương Bật, Phí Trực (đời Hán); Trịnh Huyền (đời Hán); Chu Đôn Di, Thiệu Ung, Trình Hạo, Trình Di (đời Tống); 11 Hoàng Tôn Hy, Tôn Viêm, Mao Kỳ Linh, Hồ Vi, Huệ Đống, Trương Huệ Ngôn, Lý Quang Địa (đời Thanh)… đều khẳng định tư tưởng chủ đạo trong Kinh Dịch là tư tưởng về mối quan hệ giữa âm và dương. Trong những năm gần đây một loạt các công trình nghiên cứu xuất bản ở Hồng Kông và Đài Bắc (Đài Loan) như Chu Dịch tân giải của Tào Thăng; Chu Dịch cổ kinh kim chú của Cao Hanh; Dịch học tân luận của Nghiêm Linh Phong… đều bàn về lẽ biến hóa của Âm dương trong Kinh Dịch. Kinh Dịch là sách nói về Âm dương, còn Kinh Thư là tác phẩm đầu tiên của người Trung Quốc cổ đại đề cập tới khái niệm Ngũ hành, nghiên cứu và dịch thuật về Kinh Thư ở Việt Nam đã được Thẩm Quỳnh biên dịch từ năm 1965 và là cơ sở cho nhiều tác giả Việt Nam tiếp tục nghiên cứu và bàn luận về thuyết Âm dương – Ngũ hành. Bên cạnh việc tập trung nghiên cứu riêng rẽ về các tác phẩm của người Trung Quốc cổ đại xưa, khi đề cập về thuyết Âm dương – Ngũ hành như Kinh Thư, Kinh Dịch các tác giả Việt Nam cũng đề cập về thuyết Âm dương – Ngũ hành từ góc độ nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc và phương Đông nói chung. Có thể kể ra một số tác giả và công trình nghiên cứu tiêu biểu những năm gần đây như: Nguyễn Đăng Thục với Lịch sử triết học phương Đông (Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn 1961); Nguyễn Tài Thư (chủ biên) với Lịch sử tư tưởng Việt Nam (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993); Cao Xuân Huy với Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu (Nhà xuất bản Văn học – Hà Nội, 1995); Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc do Doãn Chính (chủ biên) (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997); Triết lý phương Đông - Giá trị và bài học lịch sử của Doãn Chính (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006); Lịch sử triết học Trung Quốc của Hà Thúc Minh (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, tập 1; 1999 tập 2)[67]; Từ điển triết học Trung Quốc của Doãn Chính (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009),v.v.. Trong những tác phẩm kể trên, các tác giả đánh 12 giá cao vai trò và ý nghĩa của học thuyết Âm dương – Ngũ hành trong lịch sử phát triển các tư tưởng triết học phương Đông, đồng thời coi nó là một trong các dòng triết học quan trọng có từ thời kỳ “Bách gia chư tử”. Hai là, hướng thứ hai, có những công trình nghiên cứu đề cập học thuyết Âm dương – Ngũ hành trong mối quan hệ gắn bó với sự phát triển của các khoa học và đời sống xã hội và con người như thiên văn học, dự đoán học, nông học v.v… Trong lĩnh vực y học, học thuyết Âm dương - Ngũ hành đã được các nhà tư tưởng và danh y nghiên cứu xưa nay đề cập hết sức rộng rãi và sâu sắc. Từ đời Hán, ở Trung Quốc đã xuất hiện các bộ sách nổi tiếng như Hoàng đế Nội kinh (chưa rõ tác giả); Thương hàn tạp bệnh luận; Kim Quỹ yếu lược (của Trương Trọng Cảnh); Nạn kinh (của Tần Việt Nhận). Đây là những tác phẩm lý luận y học đầu tiên của nền y học Trung Quốc cổ đại đã biết lấy lý luận duy vật thô sơ là học thuyết Âm dương - Ngũ hành làm hệ thống lý luận của y học. Dùng lý thuyết ấy để giải thích về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, quan hệ lẫn nhau giữa các tạng phủ trong thân thể và theo nguyên tắc của quan niệm chỉnh thể đã phát minh được những vấn đề có quan hệ đến y học như bệnh lý, chẩn đoán, phòng bệnh, chữa bệnh v.v… Ở Việt Nam, những công trình vận dụng học thuyết Âm dương - Ngũ hành vào y học đã xuất hiện ngay từ thời Trần. Các tác phẩm và tác giả tiêu biểu phải kể tới Chu An với Y học giản yếu, Tuệ Tĩnh với Nam dược thần hiệu và Hồng nghĩa giác tư y thư. Đến thế kỷ XVIII, xuất hiện nhà tư tưởng, nhà y học nổi tiếng Lê Hữu Trác, với bộ sách Hải Thượng Lãn Ông Y tông tâm lĩnh nổi tiếng (Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 1993), trong đó ông đã vận dụng học thuyết Âm dương - Ngũ hành để giải thích đời sống xã hội, và phương pháp bảo vệ sức khỏe cho con người. Sang nửa cuối thế kỷ XIX, nhà tư tưởng cũng đồng thời là nhà y học Nguyễn Đình Chiểu cũng đã vận dụng học thuyết Âm dương – Ngũ hành để diễn giải các vấn đề về lý luận y học trong tác phẩm Ngư tiều y thuật vấn đáp. 13 Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã có nhiều tác giả, nhiều công trình nghiên cứu về học thuyết Âm dương - Ngũ hành trong lý luận y học cổ truyền phương Đông. Chẳng hạn, Lê Trần Đức với các công trình nghiên cứu về Tuệ Tĩnh, Lê Hữu Trác, Nguyễn Đình Chiểu… Hoàng Tuất [117-118] với các công trình Học thuyết Âm dương và phương dược cổ truyền; Học thuyết Tâm - Thận trong y học cổ truyền; Phó Đức Thảo [106] với Học thuyết Thủy hỏa và mệnh môn trong y học cổ truyền; Lê Khánh Trai với Khảo cứu về tiền đề Âm dương - Ngũ hành từ Kinh Dịch và mô hình kinh mạch trong cơ thể người; Hoàng Phương [74] với Tích hợp đa văn hóa Đông Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai; Trần Thúy [98] với Nội kinh v.v.. Tất cả các tác giả này đều khẳng định Âm dương – Ngũ hành là lý luận không thể thiếu đối với y học cổ truyền. Những năm gần đây, một số tác giả và các công trình nghiên cứu có xu hướng đi sâu nghiên cứu tác phẩm của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, và những bình luận, đánh giá học thuyết Âm dương – Ngũ hành dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong đó, đáng chú ý là các công trình nghiên cứu của Nguyễn Tài Thư với Lê Hữu Trác, nhà tư tưởng lớn trưởng thành từ nghiệp y (in trong cuốn: Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993); Nguyễn Đức Sự với Cơ sở triết học của bộ Lãn Ông tâm lĩnh và hiện thực lịch sử nước ta thế kỷ XVIII (Tạp chí Triết học số 1-1974) và Bước đầu tìm hiểu y lý của Hải Thượng Lãn Ông qua tập: “Ngoại cảm thông trị” (Tạp chí Đông y, số 110 -111, 1970); Trần Sĩ Nghi với Học thuyết thủy hỏa của Đại y tôn Hải Thượng Lãn Ông (Tạp chí Đông y số 1, năm 1971); Nguyễn Văn Thọ với Quan niệm về thận của Hải Thượng Lãn Ông đối chiếu với Tây y (Tạp chí Phương Đông, số 17, năm 1952); Trần Văn Giàu với Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng 8 (Tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1973); Nguyễn Đình Phủ với các công trình: Tìm hiểu và ứng dụng triết lý Âm dương, Nxb. VHDT, Hà Nội, 1998, và Tìm hiểu và ứng dụng học thuyết Ngũ hành, Nxb. VHDT, Hà Nội, 2001 v.v.. Trong các 14 tác phẩm và các công trình nghiên cứu kể trên, các tác giả đã đề cập đến học thuyết Âm dương – Ngũ hành và đều cho rằng: học thuyết Âm dương – Ngũ hành là một trong những cơ sở triết học quan trọng để hình thành thế giới quan duy vật phương Đông, đồng thời cũng là cơ sở triết học chủ yếu để xây dựng lý luận y học cổ truyền phương Đông. Chẳng hạn, Trần Văn Giàu viết: “Nước ta ở thế kỷ XIX từ triều đình cho tới thứ dân, qua các tầng lớp Nho sĩ, từ trong sách vở cho tới những phong tục tập quán, đâu đấu cũng thấy dấu vết ảnh hưởng của thuyết Âm dương – Ngũ hành”[ 34, tr.212], hoặc Đỗ Tất Lợi viết: “Nghề làm thuốc không thể vượt ra ngoài nguyên lý Âm dương – Ngũ hành… Việc điều trị bệnh tật là sự lặp lại cân bằng Âm dương trong con người, giữa con người với trời đất” [54, tr.16]; Trần Văn Thụy trong bộ Hải Thượng Y tông tâm lĩnh với sự vận dụng những tư tưởng triết học thời cổ (Luận án Tiến sĩ Triết học, 1996) đã đề cập tới học thuyết Âm dương – Ngũ hành và coi đó là một trong những tư tưởng triết học quan trọng của bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh; Phạm Công Nhất trong Tư tưởng triết học về con người qua tác phẩm y học của Hải Thượng Lãn Ông (Luận án Tiến sĩ triết học, 2001); Trần Thị Huyên với Thuyết âm dương – ngũ hành với tác phẩm Hoàng đế Nội kinh và Hải Thượng Y tông tâm lĩnh (Luận án Tiến sĩ, 2002); Nguyễn Thị Hồng Mai với Tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác trong tác phẩm Hải Thượng Y tông tâm lĩnh (Luận án Tiến sĩ, 2012). Với sự vận dụng học thuyết Âm dương - Ngũ hành vào y học cổ truyền Việt Nam, đặc biệt học thuyết Thủy hỏa của danh y Lê Hữu Trác trong tác phẩm Hải Thượng Lãn Ông Y tông tâm lĩnh. Nhìn chung, các tác giả và công trình nghiên cứu nói trên đều nói lên mối quan hệ giữa Âm dương - Ngũ hành với các hoạt động sống của con người và khẳng định lý thuyết này là cơ sở triết học chủ yếu cho việc hình thành và phát triển lý luận và thực tiễn của nền y học cổ truyền phương Đông từ xưa tới nay. Tuy vậy, các quan niệm trên còn rời rạc, tản mạn, chưa thành hệ thống nhất quán. Có thể nói, cho đến nay, chưa có tác phẩm nào nghiên 15 cứu một cách tập trung và có hệ thống về sự hình thành và phát triển học thuyết Ngũ hành trong y học cổ truyền phương Đông, đề tài “Học thuyết Ngũ hành với ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương Đông” góp phần làm sáng tỏ những vấn đề trên. 3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu của luận án là làm rõ lịch sử phát triển, nội dung cơ bản của học thuyết Ngũ hành và ý nghĩa của chúng đối với sự phát triển y học cổ truyền của phương Đông. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Để đạt được mục đích trên, luận án triển khai thực hiện các nhiệm vụ như sau: Một là, phân tích nguồn gốc và lịch sử hình thành của học thuyết Ngũ hành và những nội dung cơ bản của học thuyết Ngũ hành; Hai là, trình bày và phân tích ý nghĩa, phương pháp luận việc vận dụng học thuyết Ngũ hành vào các chức năng sinh lý của các tạng cơ thể người; Ba là, phân tích, rút ra ý nghĩa của học thuyết Ngũ hành trong lịch sử và trong quá trình phát triển của y học cổ truyền phương Đông. 3.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Phạm vi nghiên cứu của luận án là nguồn gốc và nội dung cơ bản của thuyết Ngũ hành; sự vận dụng học thuyết Ngũ hành vào y học cổ truyền Trung Quốc và Việt Nam; không đi sâu nghiên cứu Ngũ hành với Thiên can, Địa chi, tức ngũ vận lục khí và những lĩnh vực khác. 4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 4.1. Cơ sở lý luận của đề tài Luận án được thực hiện dựa trên thế giới quan và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là những nguyên lý về lịch sử Triết học, về phép biện chứng duy vật; đồng thời sử dụng lý luận Triết học phương Đông 16 về Ngũ hành và lý luận y học cổ truyền phương Đông để hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ của luận án. 4.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Phương pháp luận chung Vấn đề học thuyết Ngũ hành và sự ứng dụng nó trong y học cổ truyền phương Đông được nghiên cứu theo phương pháp triết học lịch sử. Các nguyên tắc phương pháp luận được quán triệt là quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể và phát triển. Với phương pháp luận này cho phép nắm bắt và nhận thức các khái niệm, phạm trù của học thuyết Ngũ hành được trình bày tương đối toàn diện, chuẩn xác, như nó vốn có; việc khai thác tài liệu, thông tin phải thực hiện phân tích phê phán một cách biện chứng, thấy được sự thống nhất và khác biệt của luận đề mà các nhà triết học thời cổ đại Trung Quốc đặt ra và điều chỉnh, bổ sung trong suốt quá trình phát triển của xã hội Trung Quốc; thấy được tính không đồng nhất về giá trị của học thuyết đó trong những những lĩnh vực khác nhau. Các phương pháp cụ thể Vấn đề nghiên cứu được tiếp cận và phân tích trên cơ sở phương pháp lôgic và lịch sử kết hợp với phân tích và tổng hợp, khái quát hoá và hệ thống hoá để thấy được nguyên lý Ngũ hành và những vấn đề y học cổ truyền có liên quan và mang tính độc lập tương đối trong sự phát triển, có lôgic nội tại và được hình thành, phát triển từ những điều kiện lịch sử nhất định của xã hội Trung Quốc từ thời thượng cổ. Việc thu thập và xử lí thông tin được thực hiện thông qua phương pháp nghiên cứu lí thuyết nhằm làm rõ một số khái niệm, phạm trù có liên quan và nghiên cứu, khai thác tư liệu, văn bản; phương pháp so sánh cho thấy được sự tương đồng và khác biệt khi trình bày sự biến đổi của Ngũ hành qua các thời kỳ lịch sử; phương pháp thống kê số liệu thực tiễn từ 500 bệnh án góp phần thực hiện những yêu cầu của nhiệm vụ luận án. 17 5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI Nội dung và bản chất của học thuyết Ngũ hành được phân tích qua các đặc điểm, sự biến hoá của năm hành chất và quy luật vận động của chúng; tương quan Ngũ hành với những biểu hiện của tạng tượng trong cơ thể sinh lý con người. Kết quả nghiên cứu của luận án có nhiều ý nghĩa: Ý nghĩa khoa học: Luận án đưa đến một cách tiếp cận và phương pháp nhận thức mới về các nguyên lý của học thuyết Ngũ hành, về đặc điểm các hành chất cơ bản của Ngũ hành trong triết học phương Đông biểu hiện ra các mặt tự nhiên, xã hội và con người, nơi tạng tượng, nơi sinh lý cơ thể người. Luận án còn đem đến một hiểu biết tương đối có hệ thống về mối quan hệ giữa một vấn đề triết học với một vấn đề thuộc về khoa học lý luận và thực hành y học cổ truyền phương Đông trong lịch sử và hiện nay. Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả của luận án đem đến cơ sở y học cổ truyền một tài liệu không chỉ có giá trị về lý luận mà còn cả thực tiễn để góp phần bảo vệ và phát huy giá trị y học cổ truyển của dân tộc, trong đó có di sản y văn của các danh y Việt Nam từ việc tiếp thu Ngũ hành đã xây dựng bộ sách quý báu về y thuật; đề xuất phương pháp dưỡng sinh theo Ngũ hành, chẩn đoán và điều trị bệnh cho con người theo Ngũ hành. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy môn lịch sử triết học phương Đông, môn y đức và đặc biệt là việc chẩn đoán và hướng điều trị cũng như phòng bệnh, nâng cao sức khỏe con người. 6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI Luận án có luận giải mới về nội dung học thuyết Ngũ hành ở hai mặt: thứ nhất là tư tưởng duy vật chất phác về nhận thức thế giới; thứ hai là tư tưởng biện chứng thô sơ. 18 Luận án đã nêu lên ý nghĩa việc vận dụng học thuyết Ngũ hành vào y học cổ truyền phương Đông như: phép dưỡng sinh, phương pháp chẩn đoán cũng như phép điều trị cho y học cổ truyền phương Đông. Cụ thể, luận án có cuộc điều tra 504 bệnh án tại Khoa Y học cổ truyền Bệnh viện Đại học Y dược Thành phồ Hồ Chí Minh để đề cao vai trò quan trọng của sự tiêu hóa (ăn uống) có ảnh hưởng quan trọng đến vấn đề sức khỏe con người. 7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục (đóng riêng), luận án có 3 chương, 8 tiết.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất