Lời mở đầu:
Trong quá trình phân tích hiệu quả tài chính của một dự án
đầu tư, một nội dung quan trọng trong công tác thẩm định mang tính
quyết định là công tác thẩm định dòng tiền và suất chiết khấu. Để
làm rõ nội dung, nhóm chúng em xin trình bày đề tài " Hoạt động
thẩm định dòng tiền và suất chiết khấu".
Chương 1: Lý thuyết về dòng tiền và suất chiết khấu
1.1. Dòng Tiền:
1.1.1 Khái niệm:
Quá trình thực hiện dự án thường kéo dài trong rất nhiều năm, trong
những năm đó thường phát sinh các khoản thu và chi. Những khoản
thu và chi đó đã tạo ra dòng tiền thu và chi của dự án. Dòng tiền
ròng của dự án là khoản chênh lệch giữa các khoản thu và khoản chi
trong từng năm hoạt động của dự án. Dòng tiền được sử dụng chủ
yếu để tính toán là dòng tiền sau thuế.
Dòng tiền sau thuế được xác định = Dòng tiền ròng – dòng thuế.
1.1.1.1 Các loại dòng tiền:
Dòng tiền đều là các khoản tiền bằng nhau, xảy ra qua một thời kỳ
nhất đinh.
Dòng tiền không đều là các khoản tiền khác nhau xảy ra trong một
thời kỳ nhất định
1.1.1.2 Dòng các khoản thu chi trong dự án dùng để tính dòng tiền
- Dòng chi phí đầu tư ban đầu: Là toàn bộ chi phí bỏ ra cho việc xấy
dựng công trình và tạo ra tài sản lưu động.
- Giá trị bổ sung tài sản: Gồm có chi phí đầu tư thay mới và bổ sung
tài sản cũng như mở rộng sản xuất.
1
- Chi phí vận hành hàng năm: Chi phí vận hành hàng năm của dự án
bao gồm: chi phí nguyên, nhiên vật liệu, năng lượng, tiền lương, chi
phí bảo dưỡng máy móc thiết bị….
- Dòng thu của dự án: gồm có doanh thu và các khoản thu khác
( thanh lý tài sản cố đinh và thu hồi vồn lưu động).
1.1.1.3 Tác dụng của việc tính dòng tiền:
Dòng tiền dung để tính giá trị hiện tại ròng (NPV) và giá trị tương
lai
ròng
(NFV)
sau khi đã chiết khấu và tương lai hóa.
Sơ đồ triết khấu dòng tiền:
0
1
CF0
CF1
2
CF2
3
n
CF3
CFn
Sơ đồ hiện tại hóa dòng tiền:
0
CF0
CFn
1
CF1
2
n-1
CF2
n
CFn-1
2
CFn-1(1+k)
1.1.2. Các quan điểm về dòng tiền
Đứng trên các chủ thể khác nhau của nền kinh tế thì có những quan
điểm khác nhau về dòng tiền. Hiện nay việc xác lập dòng tiền dự
kiến có thể được xem xét trên 2 góc độ : Góc độ “tổng vốn đầu tư”
và góc độ “chủ đầu tư”. Đối với các chủ thể là tổ chức tài trợ vốn ,
ngân hàng, chính phủ thì thường quan tâm tới dòng tiền được lập
trên góc độ tổng vốn đầu tư bởi lẽ nó thể hiện được tiềm lưc tài
chính và hiệu quả của toàn bộ dự án . Còn đối với chủ đầu tư họ lại
ưa thích việc xác lập dòng tiền trên góc độ chủ đầu tư do nó cho
thấy được phần vốn mà chủ đầu tư thực sự bỏ ra để thực hiện dự án
và những gì họ thu được thêm so với khi không có, qua đó sẽ giúp
chủ đầu tư thấy được lợi ích thực sự mình có được từ dự án và có
những quyết định đầu tư đúng đắn nhất. Để thấy được sự khác nhau
giữa hai quan điểm nhìn nhận về việc xác lập dòng tiền này , sau
đây chúng ta sẽ đi sâu phân tích nội dung của từng quan điểm
Quan điểm xác lập dòng tiền trên góc độ “ Tổng vốn đầu tư” cho
biết tổng vốn đầu tư của dự án là bao nhiêu, các khoản thu và các
khoản chi của toàn bộ dự án, đối với các khoản vốn vay từ các tổ
chức tài chính thì được tính vào tổng vốn đầu tư là khoản tiền chi để
thực hiện dự án . Khác với góc độ “tổng vốn đầu tư”, góc độ “chủ
đầu tư”lại coi vốn vay các tổ chức tài chính là dòng tiền vào hay
khoản thu và khoản trả nợ gốc và lãi là dòng tiền ra hay khoản chi.
3
Với các dự án mà chủ đầu tư bỏ hoàn toàn vốn thì dòng tiền được
xác lập trên góc độ “chủ đầu tư” với dòng tiền xác lập trên góc độ
“tổng vốn đầu tư” là một. Trong báo cáo dòng tiền của dự án được
lập trên góc độ “chủ đầu tư” thì các chi phí tận dụng những tài sản
sẵn có không được tính vào vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư còn
góc độ “tổng vốn đầu tư “ thì được tính vào. Ví dụ như , một dự án
mở rộng quy mô sản xuất , Với điều kiện hiện có máy móc thiết bị
cũ chỉ sản xuất được 50% công suất , nếu dự án được thực hiện việc
tận dụng máy móc thiết bị cũ này lại mang lại cho doanh nghiệp đạt
được 80% công suất . Tuy nhiên giá trị của thiết bị cũ này lại không
được phân bổ cho dự án đầu tư mở rộng khi thiết lập dòng tiền theo
góc độ “chủ đầu tư” nhưng được tính vào tổng vốn đầu tư khi xem
xét từ góc độ “tổng vốn đầu tư”. Ngoại lệ đối với dự án thành phần
tức là các máy móc thiết bị sản xuất sản phẩm dư thừa là có chủ ý
của chủ đầu tư để phục vụ cho các dự án tiếp theo thì những thiết bị
này được tính vào chi phí của dự án đầu tư mới và khi đó phải xem
xét hiệu quả tài chính trên dự án đầu tư tổng thể chứ không chỉ chú
trọng vào các dự án thành phần.
Để hiểu rõ hơn về cách xác lập dòng tiền trên hai góc độ, bài viết
xin đưa ra một ví dụ cụ thể để tính toán như sau
Giả sử một dự án xây dựng nhà máy sản xuất nước đóng chai với
tổng mức vốn đầu tư là 100 trong đó vốn tự có của nhà máy là 60,
vốn vay ngân hàng là 40 với lãi suất là 10%/ năm, để dễ phân tích
giả định nhà máy này hoạt động trong 1 năm , khấu hao bằng với
vốn đầu tư ban đầu, Lãi vay và nợ gốc trả hết vào cuối năm 1 và giả
sử là không có giá trị thanh lý. Dự án tạo ra doanh thu năm thứ 1 là
160, khoản chi phí (bao gồm nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ,
năng lượng, tiền lương và các khoản có liên quan tới lương, chi phí
quản lý nhưng chưa kể chi phí khấu hao và lãi vay) là 20 với giả
định doanh thu và chi phí được thanh toán ngay . Thuế thu nhập
doanh nghiệp là 25 %. Khi đó ta có:
Đứng trên góc độ” tổng vốn đầu tư “ thì dòng tiền năm 1 được xác
định như sau:
4
Năm
1.Tổng vốn đầu tư
2. Doanh thu
3. Chi phí( Không có khấu hao, lãi
vay)
4. Khấu hao
5. Lãi vay
6. Thu nhập chịu thuế
7. Thuế
h8. Thu nhập sau thuế
Dòng tiền
0
100
1
160
20
-100
100
4
36
9
27
131
Đứng trên góc độ” chủ đầu tư“ thì dòng tiền năm 1 được xác định
như sau:
Năm
1.Tổng vốn đầu tư
2. Doanh thu
3. Chi phí( Không có khấu hao, lãi vay)
4. Khấu hao
5. Lãi vay
6. Thu nhập chịu thuế
7. Thuế
8. Thu nhập sau thuế
Dòng tiền
0
60
-60
1
160
60(=20+40)
60
4
36
9
27
91
Từ 2 bảng dòng tiền trên ta thấy rằng khi đứng trên góc độ “chủ
đầu tư” nếu không vay vốn ngân hàng thì tại thời điểm 0 chủ đầu
tư bỏ toàn bộ vốn là -100 và thu được 131 vào thời điểm 1. Nếu chủ
đầu tư vay vốn ngân hàng thì dòng tiền ở thời điểm 0 là -60 và ở
thời điểm 1 là 91. Điều này cho thấy , việc đi vay vốn sẽ mang lại
lợi ích cho chủ đầu tư nhiều hơn là trường hợp tự bỏ vốn. Tương tự
xét đối với các dự án mở rộng sản xuất , tận dụng được máy móc
thiết bị cũ hiện có thì lợi ích mang lại cho chủ đầu tư cũng lớn hơn
trường hợp phải tự bỏ vốn mà không có sẵn máy móc thiết bị cho
nên việc các chủ đầu tư tận dụng được những tài sản hiện có, dư
5
thừa mà không thu hồi được sẽ mang lại cho chủ đầu tư hiệu quả tài
chính cao hơn.Từ đây ta có thể thấy được đối với các dự án tài trợ
bằng vốn vay và có thể tận dụng được những tài sản sãn có sẽ mang
lại cho chủ đầu tư khả năng sinh lợi cao hơn các dự án mà chủ đầu
tư tài trợ hoàn toàn
Hiện nay, trong hầu hết các báo cáo nghiên cứu khả thi chỉ mới xây
dựng dòng tiền trên góc độ “tổng vốn đầu tư” mà chưa đứng trên
góc độ “chủ đầu tư”. Do đó, dòng tiền trên góc độ “tổng vốn đầu tư”
chỉ thể hiện sức mạnh tài chính của tổng thể của dự án mà chưa nhìn
thấy một cách rõ ràng hiệu quả tài chính mang lại cho chủ đầu tư.
Đối với chủ đầu tư, dòng tiền được thiết lập trên góc độ “chủ đầu
tư” cho thấy khoản chi phí phải bỏ ra và lợi ích thực sự thu được khi
tiến hành dự án. Bởi vậy mà, chủ đầu tư biết được hiệu quả tài chính
mang lại cho họ, từ đó đưa ra quyết định đầu tư đúng. Quyết định
thực hiện dự án của chủ đầu tư là điều kiện cần; quyết định của các
nhà tài trợ vốn cho dự án và của cơ quan thẩm định và cho phép dự
án đi vào hoạt động là điều kiện đủ để dự án có thể được triển khai.
Do đó, người lập dự án nên xây dựng dòng tiền trên góc độ “chủ
đầu tư” bên cạnh việc xây dựng dòng tiền trên góc độ “tổng vốn đầu
tư”, tuy không cần trình bày trong báo cáo nghiên cứu khả thi, để
giúp chủ đầu tư hiểu rõ những lợi ích, chi phí và hiệu quả tài chính
mang lại cho chủ ðầu tý khi có dự án so với khi không có dự án.
Trong thời gian tới, các cõ quan quản lý cần yêu cầu chủ đầu tư
thiết lập báo cáo dòng tiền dự kiến theo góc độ “chủ đầu tư” trong
phân tích tài chính dự án đầu tư. Nhờ đó, các cơ quan thẩm định dự
án có thể thấy rõ những lợi ích và chi phí mà chủ đầu tư và các bên
liên quan (các bên góp vốn, ngân hàng, các tổ chức tài chính...)
được hưởng và phải bỏ ra khi thực hiện dự án
1.1.3. Căn cứ và phương pháp xác định dòng tiền
Dòng tiền sau thuế = Dòng tiền ròng – Dòng thuế
Dòng các khoản thu và chi của dự án bao gồm:
6
- Dòng chi phí vốn đầu tư ban đầu của dự án: gồm vốn cố định và
vốn lưu động. Dòng chi phí này phát sinh trong quá trình thi công
xây dựng công trình và những năm của tài sản lưu động ban đầu.
- Giá trị đầu tư bổ sung tài sản: khoản chi phí này phát sinh nếu tuổi
thọ kinh tế của dự án lớn hơn tuổi thọ kỹ thuật của tài sản cố định
hoặc dự án có nhu cầu mở rộng quy mô hoạt động, thay đổi lượng
sản xuất…..
- Dòng chi phí vận hành hàng năm: bao gồm các khoản chi phí xảy
ra trong những năm vận hành khai thác. Dòng chi phí này không
bao gồm khấu hao và lãi vay.
- Dòng thu của dự án: Dòng thu được thể hiện ở các khoản doanh
thu trong từng năm hoạt động của dự án.
Việc xác định dòng tiền sau thuế được thể hiện qua bảng sau:
Bảng xác định dòng tiền:
0
1
1. Doanh thu
2. Thu khác
3. VĐT
4. Chi phí vận hành hàng
năm(không KH và lãi vay)
5. Khấu hao
6. Lãi vay
7. Thu nhập chịu thuế
(7=1-4-5-6)
8. Thuế thu nhập doanh
nghiệp
7
2
…
n
9. Thu nhập sau thuế(9=78)
10. Chi phí bổ sung tài cố
định
11. Dòng tiền
-I
11=9+5+6
-10+2
Có hai cách xác định dòng tiền sau thuế:
Theo phương pháp trực tiếp, người lập dự án liệt kê các khoản
thu, chi bằng tiền dự kiến sẽ phát sinh trong từng giai đoạn để tính
được dòng tiền ròng trong suốt chu kỳ của dự án đầu tư. Theo đó:
11= (1+2) – (3+4+8+10)
Theo phương pháp gián tiếp, dòng tiền sau thuế được tính bằng
cách lấy thu nhập ròng sau thuế cộng lại khấu hao, và điều chỉnh
tăng (giảm) tài sản và các khoản phải trả đầu kỳ với cuối kỳ.
11= 9+ 5+ 6- 10+ Thu hồi vốn lưu động
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới dòng tiền
-Chi phí đất đai:
Đây là chi phí ban đầu để hình thành vốn cố định cho các dự án đầu
tư. Đối với chi phí đất đai trong cách xác lập dòng tiền thì có 2 loại:
Thứ nhất là chi phí mua đất , do chi phí mua đất là một khoản đầu
tư riêng trong dài hạn và đất đai là tài sản cố định của doanh nghiệp
cho nên trong quá trình tính toán không đưa chi phí này vào dòng
tiền của dự án . Để tránh những sai sót trong quá trình các tổ chức
thẩm định dòng tiền của dự án thì đòi hỏi loại chi phí này cần có xác
nhận của các cơ quan có thẩm quyền và có văn bản cụ thể đúng theo
quy định của bộ tài chính
8
Thứ hai là các chi phí khác có liên quan tới đất đai những chi phí
này lại được tính vào dòng tiền của dự án bởi vì nó phục vụ cho quá
trình vận hành hoạt động của dự án. Ví dụ như:
- Chi phí cải thiện, san lấp, tái định cư,giải phóng mặt bằng cho dự
án đầu tư: Đây là chi phí cần thiết để luôn được đòi hỏi để nhằm
giúp các dự án diễn ra một cách có hiệu quả và khi xác lập dòng tiền
thì nó thường được đưa vào khoản mục tổng mức đầu tư của dự án
- Chi phí cơ hội của việc sử dụng đất: Là khoản chi phí cơ hội so
sánh của doanh nghiệp hy sinh đất đai để thực hiện dự án đó , nó
cũng là một khoản mục được tính vào tổng mức đầu tư khi xây
dựng dòng tiền
- Chi phí thuê đất hàng năm : Đối với các dự án dùng đất thuê để
thực hiện thì cần phải đươc tính vào khoản mục dòng tiền ra như là
một khoản chi phí hằng năm
-Chi phí chìm:
Là khoản chi phí là những chi phí đã phát sinh trước khi có quyết
định thực hiện dự án, vì vậy dù dự án có được thực hiện hay không
thì chi phí này cũng xảy ra rồi . Do đó, chi phí chìm không được
tính vào ngân lưu của dự án
-Chi phí gián tiếp
Chi phí gián tiếp là tất cả các chi phí khác ngoài chi phí trực tiếp (–
là các chi phí có thể xác định được với một sản phẩm, một dịch vụ
hay một hoạt động nhất định) mà bạn cần để tiến hành hoạt động
kinh doanh của mình. Các chi phí gián tiếp không liên quan trực
tiếp tới một sản phẩm hay dịch vụ cụ thể nào,đó là các chi phí
chung cho toàn bộ hoạt động kinh doanh.Chi phí gián tiếp được
xem như sự tăng thêm trong vốn luân chuyển , sự tăng thêm trong
hàng tồn kho, khoản phải trích như khấu hao, lãi vay …mà ta phải
bỏ ra khi thực hiện dự án so với khi ta không thực hiện dự án . Do
đó cần phải được tính chi phí này khi xác định dòng tiền và cần phải
có biện pháp giảm thiểu tối đa loại chi phí này bởi đối với nhà đầu
9
tư thì chi phí sản xuất, doanh thu và lợi nhuận là mối quan tâm hàng
đầu. Chi phí thấp, phù hợp, tỉ lệ giữa chi phí và doanh thu, tỉ lệ giữa
chi phí và lợi nhuận càng thấp thì nhà đầu tư càng có lợi
-Chi phí cơ hội:
Chi phí cơ hội là những khoản thu nhập mà công ty phải mất đi do
sử dụng nguồn lực của công ty vào dự án. Chi phí cơ hội không phải
là một khoản thực chi nhưng vẫn được tính vào dòng ngân lưu vì đó
là một khoản thu nhập mà công ty phải mất đi khi thực hiện dự án
Chi phí lịch sử: Là chi phí cho những tài sản sẵn có của công ty,
được sử dụng cho dự án. Chi phí này có được tính vào ngân lưu của
dự án hay không là tùy theo chi phí cơ hội của tài sản, nếu chi phí
cơ hội của tài sản bằng không thì không tính, nhưng nếu tài sản có
chi phí cơ hội thì sẽ được tính vào ngân lưu dự án như trường hợp
chi phí cơ hội
-Chi phí giao hàng và lắp đặt:
Chi phí giao hàng và lắp đặt xảy ra khi công ty mua sắm
TSCĐ phục vụ cho dự án phải được kể đến khi xác định dòng tiền
tăng thêm
Khi công ty muốn mua sắm tài sản cố định phục vụ cho dự án thì sẽ
phải mất chi phí vận chuyển từ nhà cung cấp đến nhà xưởng của
công ty và chi phí để lắp đặt những tài sản đó cũng sẽ đều bị tính
vào nguyên giá của tài sản đó ,vì vậy nó tác động làm tăng dòng
tiền chi ra của công ty. Cho nên để làm tăng giá trị dòng tiền tăng
thêm thì cần giảm khoản chi ra. Điều này đòi hỏi các công ty phải
có kế hoạch quản lý nhằm giảm thiểu tối đa lượng chi phí giao
hàng và lắp đặt
-Thuế thu nhập doanh nghiệp:
Trong phương pháp xác định dòng tiền thì ta có thể thấy rằng dòng
tiền được xác định bằng công thức: Thu nhập sau thuế + khấu hao+
lãi vay- Giá trị đầu tư bổ sung+ Thu hồi vốn lưu động. Do đó thuế
10
thu nhập doanh nghiệp có tác động tới sự biến động của dòng tiền.
Nếu thuế thu nhập càng cao thì thu nhập sau thuế thấp và dẫn đến
dòng tiền của dự án thấp : Ngược lại nếu thuế thu nhập thấp thì làm
cho thu nhập sau thuế cao từ đó làm tăng dòng tiền của dự án . Do
đó đối với cơ quan quản lý nhà nước cần có những biện pháp giảm
thuế thu nhập doanh nghiệp để khuyến khích đẩy nhanh các hoạt
động đầu tư vào quốc gia, bởi lúc này các nhà đầu tư sẽ kì vọng thu
được lợi nhuận cao trong tương lai
- Vốn lưu động ròng tăng thêm:
Là chênh lệch giữa phần gia tăng tài sản lưu động và phần gia tăng
nợ ngắn hạn phải trả tương ứng
Δ nhu cầu VLĐ = Δ TSLĐ – Δ Khoản phải trả
Sự ảnh hưởng của vốn lưu động ròng tăng thêm đến dòng tiền
theo góc độ của chủ đầu tư: chủ đầu tư luôn quan tâm tới phần vốn
mà chủ đầu tư thực sự bỏ ra để thực hiện dự án và những gì họ thu
được thêm so với khi không có dự án. Chủ đầu tư coi vốn vay các tổ
chức tài chính là dòng tiền vào hay khoản thu và khoản trả nợ gốc
và lãi là dòng tiền ra hay khoản chi.
Đối với chủ đầu tư, dòng tiền được thiết lập trên góc độ “chủ
đầu tư” cho thấy khoản chi phí phải bỏ ra và lợi ích thực sự thu
được khi tiến hành dự án. Do đó, chủ đầu tư biết được hiệu quả tài
chính mang lại cho chủ đầu tư, từ đó đưa ra quyết định đầu tư đúng.
Nếu thấy dự án có lợi, chủ đầu tư mới thuyết phục các nhà tài trợ
góp vốn cho dự án. Quyết định thực hiện dự án của chủ đầu tư là
điều kiện cần; quyết định của các nhà tài trợ vốn cho dự án và của
cơ quan thẩm định và cho phép dự án đi vào hoạt động là điều kiện
đủ để dự án có thể được triển khai.
Vốn lưu động ròng tăng thêm về tài sản lưu động : chủ đầu tư
đã đầu tư thêm về tài sản lưu động như Vật tư, nguyên, nhiên liệu
(chủng loại, số lượng, giá trị)… vào dự án đầu tư là dòng tiền chảy
vào nhiều hõn. Ðầu tý nhiều tài sản lýu ðộng vào dự án làm cho dự
11
án mang tính khả thi, tiến hành nhanh chóng và hiệu quả hõn khi có
vốn và kỹ thuật. Ðiều kiền cần và ðủ ðể tiến hành 1 dự án.
Vốn lýu ðộng ròng tăng thêm do giảm các khoản phải trả như
nợ ngắn hạn, lãi vay… Dòng tiền để đầu tư vào dự án sẽ nhiều hơn
và sử dụng có hiệu quả hơn. Tránh được các khoản chi phí không
cần thiết, không liên quan đến dự án
-Tác động của dự án đến các bộ phân khác của công ty:
Một số công ty , tập đoàn lớn có thể cùng một lúc thực hiện
nhiều dự án , hoạt động với số lượng vốn lớn và chúng có thể có
ảnh hưởng đến nhau theo chiều hướng tốt hoặc xấu. Tùy thuộc vào
mục đích mà các dự án có ảnh hưởng khác nhau tới hoạt động kinh
doanh của công ty, do đó sẽ tác động đến doanh thu, chi phí bỏ ra
đối với dự án đó . Hay nói cách khác là nó sẽ làm thay đổi dòng tiền
của công ty. Do đó để hạn chế ảnh hưởng xấu và phát huy tác động
tích cực của dự án đối với dòng tiền cũng như hiệu quả hoạt động
của công ty thì cần phải làm gì? Điều này cần được công ty cân
nhắc kĩ lưỡng. Một dự án đươc tiến hành mà làm cho tổng lợi nhuận
của công ty bị giảm xuống trong một thời gian dài thì không nên
tiếp tục. Hay một dự án có khả năng hỗ trợ, làm tăng lợi nhuận của
toàn công ty thì nên được tiếp tục phát triển.
1.2. Suất chiết khấu
1.2.1. Khái niệm suất chiết khấu:
Tỷ suất “r” được sử dụng trong việc tính chuyển các khoản tiền phát
sinh trong kì phân tích về cùng một mặt bằng thời gian hiện tại hoặc
tương lai, đồng thời nó được dùng làm độ đo thời hạn để đánh giá
hiệu quả các dự án đầu tư. Xác định tỉ suất “r” có ý nghĩa rất quan
trọng tới việc đánh giá tính thành bại của dự án.
Để xác định được chính xác lãi xuất r dựa trên cơ sở là lãi suất thực
thì chúng ta trước hết phải phân biệt rõ lãi suất thực và lãi suất danh
nghĩa:
12
- Lãi suất danh nghĩa là lãi suất mà thời đoạn phát biểu mứa lãi suất
không trùng với thời đoạn ghép lãi.
- Lãi suất thực là lãi suất mà thời đoạn phát triển mức lãi trùng với
thời đoạn ghép lãi.
Đối với tỷ suất r thì việc xác định cũng dựa vào nguồn vốn. vốn chủ
yếu từ 2 nguồn đó là: vốn chủ sở hữu và vồn vay.
Đối với nguồn vốn vay thì tỷ suất r dựa vào lãi suất thực tế trên thị
trường. lãi suất này được ngân hàng nhà nước công bố, và phụ thuộc
chủ yếu vào các yếu tố như: cung cầu tiền tệ, lạm phát, ổn định kinh
tế, các chính sách của nhà nước…
Đối với nguồn vồn chủ sở hữu thì tỷ suất này được xác định bởi
chính chi phí cơ hội cao nhất của khoản tiền bỏ ra có thể sử dụng
vào việc khác. Vấn đề xác định chính xác tỷ suất này cũng có ảnh
hưởng rất lớn tới suất chiết khấu chung của toàn bộ dự án. Cũng
như khâu thẩm định tỉ suất chiết khấu và thẩm định khía cạnh tài
chính dự án.
1.2.2. Các quan điểm lựa chọn tỷ suất chiết khấu:
Tỷ suất chiết khấu đóng vai trò quan trọng trong việc xác định các
chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án, ảnh hưởng đến tính
khả thi của dự án. Do vậy việc xác định tỷ suất chiết khấu một cách
chính xác là một điều vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, đứng ở mỗi góc
độ khác nhau thì cách nhìn nhận và xác định tỷ suất này lại có
những điểm khác nhau. Dưới đây là 3 góc độ được đưa ra xem xét,
đó là: quan điểm của chủ đầu tư, quan điểm của Nhà nước và quan
điểm của các tổ chức tín dụng (Ngân hàng)
1.2.2.1. Quan điểm của chủ đầu tư:
Quan điểm chủ đầu tư, còn gọi là quan điểm chủ sở hữu hay quan
điểm cổ đông, mục đích nhằm xem xét giá trị thu nhập ròng còn lại
của dự án so với những gì họ có được trong trường hợp không thực
hiện dự án. Khác với quan điểm nhà cho vay, chủ sở hữu khi tính
13
toán dòng tiền phải cộng vốn vay ngân hàng vào dòng tiền vào và
trừ khoản trả lãi vay và nợ gốc ở dòng tiền ra.
Nói cách khác, chủ đầu tư (chủ sở hữu) quan tâm đến dòng tiền
ròng còn lại cho mình sau khi đã thanh toán nợ vay.
Suất chiết khấu sử dụng để tính NPV theo quan điểm chủ sở hữu là
chi phí sử dụng vốn (suất sinh lời đòi hỏi) của chủ sở hữu, vì chỉ
tính trên dòng tiền của chủ sở hữu.
Lưu ý:
Dòng tiền của chủ sở hữu bằng (=) dòng tiền tổng đầu tư trừ (-)
dòng tiền vay và trả nợ.
14
Ví dụ: Có số liệu của một dự án đơn giản như sau:
- Vòng đời dự án: 2 năm
- Tổng vốn đầu tư (đầu năm 1, tức cuối năm 0): 1000 (đơn vị tiền);
trong đó, vốn đi vay: 400, lãi suất 8%, trả đều (vốn và lãi) trong 2
năm.
- Tổng dòng tiền ròng của dự án (chưa tính tiền vay và trả nợ): năm
thứ 1: 800, năm thứ 2: 600 (đơn vị tiền).
- Suất sinh lời đòi hỏi của vốn chủ sở hữu: 20%; thuế suất bằng
không.
Hãy thẩm định dự án theo hai quan điểm: nhà cho vay và chủ đầu
tư.
Trước hết, ta tính dòng tiền trả nợ hằng năm
Năm
DNĐK
Lãi phát sinh
Trả nợ (đều)
1
2
400
208
32
17
224
224
192
208
- Nợ gốc
32
17
- Lãi vay
400
208
0
DNCK
(i) Báo cáo tiền theo quan điểm chủ đầu tư (chủ sở hữu)
Năm
0
0
1
2
-1000
800
600
Tiền vay và trả nợ
400
-224
-224
Tiền vốn chủ sở hữu
-600
576
376
Tổng tiền ròng
NPV với re=20% : 141
IRR 41%
Vốn chủ sở hữu chỉ chi đầu tư năm 0 là: 600, dòng thu (ròng) của
chủ sở hữu trong năm 1 là: 576 và năm 2 là: 376. Đó là tiền của chủ
15
sở hữu, chỉ quan tâm đến dòng tiền còn lại cho mình, sau khi trừ (-)
dòng
chi
trả
nợ.
Một lưu ý đặc biệt là, giá trị NPV chênh lệch không nhiều giữa hai
quan điểm nhưng đối với IRR thì chênh lệch khá lớn (41%>>27%).
Nếu giả định dự án sử dụng 100% vốn chủ sở hữu mà không huy
động nợ vay, dòng tiền chủ sở hữu bằng với tổng tiền ròng thì IRR
theo quan điểm chủ sở hữu cũng bằng với IRR theo quan điểm tổng
đầu tư, tức chỉ bằng 27%
1.2.2.2. Quan điểm của các tổ chức tín dụng (Quan điểm tổng đầu
tư):
Nhà cho vay thẩm định dự án dựa trên dòng tiền của tổng vốn
đầu tư, tức xem xét tới tổng dòng tiền chi cho dự án (kể cả phần
đóng thuế) và tổng dòng tiền thu về (kể cả phần trợ cấp, trợ giá).
Quan điểm nhà cho vay còn được gọi là quan điểm tổng đầu tư.
Theo đó, các ngân hàng cho vay sẽ xác định được tính khả thi về
mặt tài chính của dự án, nhu cầu cần vay vốn cũng như khả năng trả
nợ gốc và lãi vay của dự án. Mục đích xem xét dự án là nhằm đánh
giá sự an toàn của số vốn cho vay. Nhưng tại sao nhà cho vay lại
chỉ cần quan tâm đến dòng tiền của tổng đầu tư? Đơn giản vì nhà
cho vay được ưu tiên nhận trước dòng thu của dự án mà không có
nghĩa vụ phải “chia sẻ” với chủ sở hữu. Ngay cả khi dự án gặp rủi
ro thị trường , tổng dòng thu của dự án chỉ vừa bằng với số tiền cần
trả (nợ gốc và lãi vay), nhà cho vay vẫn thu đủ phần mình, mọi rủi
ro “dồn hết” lên vai chủ sở hữu.
Suất chiết khấu sử dụng để tính NPV theo quan điểm nhà cho vay là
chi phí sử dụng vốn bình quân (WACC), vì tổng dòng tiền bao gồm
hai nguồn vốn : nợ vay và vốn chủ sở hữu.
Suất chiết khấu được lựa chọn thường căn cứ vào :
- Chi phí cơ hội của vốn
- Tỷ lệ lạm phát
- Tỷ lệ rủi ro của các dự án
16
Chi phí sử dụng vốn bình quân gia quyền (WACC) sẽ được tính
theo công thức sau :
WACC = E% x re + D% x rd
Trong đó:
- D% = D/(D+E) và
E% = E/(D+E)
- E: Vốn chủ sở hữu trong tổng vốn đầu tư
- D: Vốn vay trong tổng vốn đầu tư
- re: lãi suất sinh lời mong muốn của chủ đầu tư
- rd: lãi suất vay vốn
Ví dụ (tiếp theo vi dụ của phần 1.2.4.1)
(ii) Báo cáo tiền theo quan điểm tổng đầu tư (nhà cho vay)
Năm
0
1
2
Tổng tiền ròng
-1000
800
600
WACC=15.2%
NPV = 147
IRR = 27%
Dự án có tổng dòng chi đầu tư năm 0 là: 1000, tổng dòng thu
(ròng) năm 1 là: 800 và năm 2 là: 600. Đó là tiền của tổng đầu tư,
không quan tâm đến cơ cấu nguồn vốn.
1.2.2.3. Quan điểm của Nhà nước:
Nhà nước đứng trên góc độ của toàn bộ nền kinh tế, xã hội để cân
nhắc các lợi ích và chi phí. Do đó, việc lựa chọn tỷ suất chiết khấu
theo quan điểm của Nhà nước chính là tỷ suất chiết khấu xã hôi (r s),
phản ánh chi phí xã hội của việc sử dụng vốn. Đây được xem như là
một trong những công cụ điều tiết vĩ mô hoạt động đầu tư.
17
Tỷ suất chiết khấu xã hội do các cơ quan hoạch định chính sách
đưa ra dựa trên các căn cứ:
- Tỷ lệ lãi suất vay tại các thị trường vốn trong nước và nước ngoài.
- Lãi suất này được điều chỉnh thông qua việc tính đến các điều kiện
hiện tại của một quốc gia. Việc điều chỉnh này được thực hiện như
sau:
+ Đối với nước cho vay vốn: rs nhỏ hơn tỷ lệ lãi suất thực tế trren
thị trường vốn quốc tế.
+ Đối với nước đi vay vốn: r s lớn hơn hoặc bằng tỷ lệ lãi suất thực
tế trên thị trường vốn quốc tế.
1.2.3. Căn cứ và phương pháp xác định suất chiết khấu
Để xác định tỷ suất “ r ” phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của
từng dự án. Phải xác định được cơ cấu các nguồn vốn huy động.
Đối với trường hợp dự án đi vay vốn thì tỉ suất r được xác định:
+ Nếu phân tích dự án trước thuế thì tỉ suất r= rvay
+ Nếu phân tích dự án sau thuế thì tỉ suất r của dự án được xác định
bằng công thức:
r = rvay * ( 1- T )
T là thuế suất
Đối với trường hợp dự án đi vay vốn từ nhiều nguồn khác nhau
thì tỉ suất r của dự án được xác định bằng bình quân gia quyền lãi
suất từ các nguồn huy động.
Trong trường hợp này nếu các nguồn vay ở các thời điểm khác nhau
thì phải tính chuyển về cùng một mặt bằng thời gian, sau đó tình tỉ
suất của dự án theo công thức trên.
18
Đối với trường hợp dự án đi vay vốn từ nhiều nguồn với mức kỳ
hạn khác nhau thì phải đưa về cùng một mức kỳ hạn, thường thì kỳ
hạn năm sau đó đưa về cùng một mặt bằng thời gian nếu vay ở các
thời điểm khác nhau, sau đó tính r theo công thức (*).
Công thức chuyển kỳ hạn:
là lãi suất kỳ hạn năm
là lãi suất kỳ hạn t
m là số kỳ hạn t trong một năm
Đối với các nguồn vốn góp thì tỉ suất r theo thỏa thuận của các
bên góp vốn
Đối với nguồn vốn huy động từ phát hành cổ phiếu thì tỉ suất r
được xác định là mức lãi cổ phần hay cổ tức.
Nếu nguồn vốn là vốn tự có thì tỉ suất r được xác định phải bao
hàm lạm phát và chi phí cơ hội. Trong đó chi phí cơ hội được xác
định là tỉ suất lợi nhuận của nền kinh tế hoặc của hoạt động kinh
doanh mà chủ đầu tư thực hiện trước đó.
r= ( r cơ hội + 1)(1+f) – 1
r cơ hội : chi phí cơ hội
f : tỉ lệ lạm phát
Xác định tỷ suất r của dự án có ý nghĩa rất quan trọng đối với
việc đánh giá dự án đầu tư, nó được sử dụng để tính chuyển các
khoản thu chi về cùng mặt bằng thời gian và được sử dụng làm độ
đo giới hạn để đánh giá hiệu quả dự án đầu tư. Vì vậy cần phải dựa
vài từng trường hợp cụ thể để xác định chính xác tỷ suất r, giúp cho
việc đánh giá hiệu quả của dự án được chính xác hơn.
19
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới suất chiết khấu
- Cơ cấu các nguồn vốn huy động:
Nguồn vốn của mỗi dự án thường được huy động từ nhiều nguồn
khác nhau. Mỗi nguồn vốn lại có một mức lãi khác nhau. Từ công
thức xác định suất chiết khấu, ta có thể thấy cơ cấu nguồn vốn (các
nguồn vốn được huy động, tỷ trọng từng nguồn) có ảnh hưởng trực
tiếp đến suất chiết khấu.
Ví dụ: khi dự án được tài trợ hoàn toàn bằng vốn chủ sở hữu thì
chính chi phí cơ hội tốt nhất của vốn chủ sở hữu (thu nhập tốt nhất
trong số các cơ hội đầu tư bỏ qua để thực hiện dự án) có thể được
lựa chọn làm lãi suất chiết khấu. Thu nhập bỏ qua ở đây chính là thu
nhập kỳ vọng.
Khi nguồn vốn tài trợ cho dự án là nguồn vốn vay thì mức lãi suất
thỏa thuận giữa các bên cho vay và đi vay có thể trở thành lãi suất
chiết khấu.
Còn trong trường hợp nguồn vốn hỗn hợp, mức lãi suất chiết khấu
được tính như công thức ở trên, tức là phụ thuộc vào lãi suất của
từng nguồn vốn cũng như tỷ trọng của từng nguồn.
- Tính chất của dự án:
+ Lĩnh vực hoạt động: điều này quyết định đến sự ưu đãi của các tổ
chức tài trợ, ngân hàng đối với khoản vay của dự án. Nếu lĩnh vực
của dự án thuộc vào lĩnh vực được khuyến khích thực hiện, thì dự
án có thể được hưởng một số ưu đãi như mức lãi vay thấp hơn, điều
này dẫn đến mức lãi suất chiết khấu cũng thấp hơn so với các dự án
khác.
+ Mức độ rủi ro: ảnh hưởng đến tâm lý của chủ sở hữu nguồn vốn
được huy động. Một dự án có độ rủi ro lớn thì khi đầu tư vào dự án,
chủ đầu tư kỳ vọng lợi nhuận thu được lớn tức là mức lãi suất mà
chủ sở hữu nguồn vốn đưa ra sẽ cao hơn. Điều này khiến cho mức
lãi suất chiết khấu tăng lên.
20
- Xem thêm -