VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ PHÚC
(Thích Viên Hiếu)
HOẠT ĐỘNG HOẰNG PHÁP CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO
TỈNH HÀ NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC
HÀ NỘI - 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ PHÚC
(Thích Viên Hiếu)
HOẠT ĐỘNG HOẰNG PHÁP CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO
VIỆT NAM TỈNH HÀ NAM HIỆN NAY
Ngành: TÔN GIÁO HỌC
Mã số: 8.22.90.09
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN NGỌC QUỲNH
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học về “Hoạt động
hoằng pháp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Hà Nam hiện nay” là
công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của TS Nguyễn
Ngọc Quỳnh. Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung
thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Phúc
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Tôn giáo học
với đề tài “Hoạt động hoằng pháp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Hà
Nam hiện nay” ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi còn nhận được rất nhiều sự
giúp đỡ tận tình của thầy cô, chính quyền và người dân tỉnh Hà Nam, gia đình
và bạn bè.
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô, nhà khoa học đang
công tác tại Học viện Khoa học Xã hội đã tạo điều kiện về thời gian cũng như hỗ
trợ các tài liệu học tập cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới TS. Nguyễn Ngọc
Quỳnh, Ban Tôn giáo, Ủy Ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là
người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, truyền đạt cho tôi nhiều kiến thức, kinh
nghiệm có giá trị và giúp đỡ trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới UBND tỉnh Hà Nam, Ban Trị sự tỉnh Hà
Nam, cán bộ địa phương các cấp và người dân tỉnh Hà Nam đã tạo điều kiện
cho tôi tiến hành khảo sát, nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến các bạn đồng nghiệp đã nhiệt tình
hỗ trợ trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Dù đã có nhiều cố gắng, song chắc chắn không thể tránh khỏi thiếu sót.
Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy giáo, cô giáo, các
nhà khoa học để luận văn của tôi được hoàn chỉnh.
Hà Nội, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Phúc
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1: KHÁI LƢỢC CHUNG VỀ HÀ NAM VÀ QUÁ TRÌNH 19
PHÁT TRIỂN CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT
NAM TỈNH HÀ NAM
1.1. Điều kiện tự nhiên, văn hóa xã hội
19
1.2. Quá trình phát triển của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh 22
Hà Nam (từ năm 2005 đến nay)
1.3. Một số khái niệm
36
Chƣơng 2: CÁC HOẠT ĐỘNG HOẰNG PHÁP CỦA GIÁO HỘI 39
PHẬT GIÁO VIỆT NAM TỈNH HÀ NAM
2.1. Hoạt động giảng pháp
39
2.2. Hoạt động hoằng pháp với công tác xã hội
50
2.3. Hoạt động về nghi lễ
59
Chƣơng 3: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ 68
HOẠT ĐỘNG HOẰNG PHÁP CỦA GIÁO HỘI PHẬT
GIÁO VIỆT NAM TỈNH HÀ NAM
3.1. Một số vấn đề đặt ra
68
3.2. Kiến nghị, đề xuất
70
3.3. Giải pháp
73
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
77
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GHPGVN
Giáo hội Phật giáo Việt Nam
CT/TW
Chỉ thị trung ương
CP
Chính phủ
GĐPT
Gia đình Phật tử
HĐND
Hội đồng nhân dân
LĐTBXH
Lao động - Thương binh và Xã hội
NĐ
Nghị định
NXB
Nhà xuất bản
PL
Pháp lệnh
UBND
Ủy ban nhân dân
HĐTSGH
Hội đồng trị sự Giáo hội
CV
Công văn
TƯGH
Trung ương Giáo hội
TT
Thượng Tọa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi vào Việt Nam, Phật giáo đã nhanh chóng bén rễ, dung hòa, tiếp biến
với văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc, trở thành một phần không thể thiếu trong đời
sống người dân Việt. Thậm chí, ở những giai đoạn nhất định, Phật giáo còn trở thành
yếu tố ảnh hưởng đến đời sống xã hội của con người Việt Nam trên nhiều phương
diện từ vật chất đến tinh thần. Chính vì vậy, Phật giáo đã trở thành một tôn giáo gần
gũi với người Việt từ bao đời nay, dung hòa với tín ngưỡng dân gian, không bài trừ
những tôn giáo khác. Kể từ đó, theo dòng lịch sử khi thịnh, lúc suy dù ở giai đoạn nào
thì Phật giáo vẫn luôn đồng hành cùng dân tộc.
Với tinh thần “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên”, ở những thời điểm
khác nhau, những người con Phật luôn mang “Ánh đạo vàng” đi hoằng truyền
chánh pháp khắp muôn nơi bằng những phương tiện thiện xảo tùy xứ, tùy thời,
tùy cơ mà ứng biến.
Trên tinh thần ấy, cho đến ngày nay những tinh tuyền của Phật giáo vẫn là
phương tiện hóa giải nỗi đau khổ của chúng sinh và góp phần tịnh hóa nhân gian.
Vì vậy, trong ba pháp bảo của thế gian (Phật, Pháp, Tăng), tăng đoàn
luôn đóng vai trò trọng yếu trong công cuộc hoằng dương tán pháp. Ở bất kỳ
giai đoạn nào, hễ tăng bảo mạnh thì Phật pháp trường/còn. Tăng bảo suy thì
Phật pháp suy. Tăng bảo chính là những người duy trì mạng mạch Phật pháp
tại thế gian. Và sự hình thành, lớn mạnh của các tổ chức giáo hội Phật giáo
nhằm củng cố, phát triển và mở rộng vai trò của tăng đoàn trong sứ mạng
“Phật pháp vi gia vụ, lợi sinh vi sự nghiệp” cũng không ngoài ý nghĩa trên.
Giáo hội Phật giáo tỉnh Hà Nam ra đời, phát triển cũng nằm trong sứ mệnh
chung của Giáo hội Phật giáo Việt Nam: mang giáo lý và phương tiện thực hành
của Phật giáo nhằm hóa giải khổ đau cho chúng sinh, đem lại cho mọi người
cuộc sống an lạc, tự do và giải thoát.
1
Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Hà Nam ra đời trong bối cảnh xã hội
phát triển về mọi mặt, nhưng kéo theo là đời sống của các cá nhân và cộng đồng
ngày càng trở nên bất ổn, bất định và bất toàn.
Trong giai đoạn hội nhập và phát triển của nước ta hiện nay, các hoạt
động hoằng pháp của Phật giáo có ảnh hưởng như thế nào trong đời sống người
dân? Cần đánh giá những hoạt động đó theo chiều hướng nào? Chắc rằng mỗi
vấn đề đều có ưu điểm và hạn chế của nó. Từ đó vấn đề đặt ra là, những nhân tố
nào cần phát huy trong điều kiện xã hội ngày nay và những hoạt động để có thể
phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực phát sinh trong
các sinh hoạt của Phật giáo trong đời sống tinh thần của người Việt Nam.
Trong bối cảnh ấy, con người ngày càng có xu hướng tìm kiếm những
điểm tựa tâm linh, tinh thần hay những kiến giải về đời sống khổ đau, giả tạm
mà họ đang là, đang chịu.
Tuy nhiên, dường như ít ai trong số đó tìm thấy các phương án khả dĩ cho
vấn đề của họ. Nhận thức được điều này, Giáo hội PGVN nói chung, Giáo hội
Phật giáo Việt Nam tỉnh Hà Nam nói riêng đã cải tổ, mở rộng các phương tiện
hoằng pháp trong tình hình mới.
Song, ở một phương diện nhất định, thực trạng hoằng pháp hiện nay của
Giáo hội PGVN nói chung và Hà Nam nói riêng đang đặt ra cho tất cả các cấp,
ban, ngành cần vận dụng nhu nhuyễn hơn nữa tinh thần “tứ khế” (khế lý, khế cơ,
khế thời, khế xứ) của Phật giáo.
Đối với Giáo hội PGVN tỉnh Hà Nam, để có thể đem lại hiệu quả và nâng
cao chất lượng hoằng pháp trong thời kỳ này, đòi hỏi những khảo sát, đánh giá,
nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động hoằng pháp của Ban trị sự nhằm góp phần
đưa ra những kiến giải, đề xuất phương hướng hoạt động cho GHPGVN tỉnh Hà
Nam cũng như Giáo hội PGVN nói chung.
Tất cả các vấn đề trên đã thôi thúc những nhà nghiên cứu về tôn giáo,
cũng như các nhà quản lý tôn giáo, các cơ quan chức năng cần tìm hiểu, nghiên
2
cứu, nhằm có những đánh giá đúng về niềm tin, thực hành Phật giáo của người
dân tỉnh Hà Nam. Đây cũng là lý do để người viết chọn đề tài “Hoạt động hoằng
pháp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Hà Nam hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Cơ sở lý thuyết
Hoằng pháp của Phật giáo bao giờ cũng đặt nền tảng trên lời dạy của đức
Phật trong Tam tạng kinh điển: Kinh, Luật, Luận.
Sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, đức Phật liền muốn nhập Niết bàn, vì
Ngài thấy giáo pháp của mình quá cao siêu, chúng sinh khó bề tiếp nhận, rồi sinh
tâm xem thường mang tội huỷ báng chính pháp. Nhờ sự thỉnh cầu của Phạm
Thiên và căn cứ theo phương thức giáo hoá của bảy đời đức Phật trước, đức Phật
bèn nghĩ đến việc truyền bá chính pháp. Tức là sứ mạng hoằng pháp được đức
Phật bắt đầu từ đó. Đức Phật đã dạo khắp các vùng Ấn Độ dù là chốn đô hội thị
thành hay các miền thôn dã, tuỳ phương tiện mà hoá độ khắp tất cả chúng sinh
bình đẳng không phân biệt, dù cao sang quyền quí hay nghèo cùng khốn khổ.
Đây là điểm đặc thù nhất trong Phật giáo. Ý này được diễn tả trong kinh Pháp
Hoa phẩm Dược thảo dụ: “Giáo pháp của Ngài như trận mưa lớn, tất cả các
loại cỏ cây đều được thấm nhuần” [105, tr.289].
Người xuất gia, tại gia nói chung phải có bổn phận chuyển vận bánh xe
chánh pháp để hóa độ chúng sinh, kinh Tương Ưng tập I có nói: “Hỡi các Tỷ
kheo! Hãy đi vì lợi ích cho nhiều người, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng
thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc cho chư thiên và loài người” [24, tr.356].
Thời đức Phật ngoài giờ đi khất thực và thiền định, chư Tăng tỏa ra khắp nơi
để hoạt động hoằng pháp, đức Phật thường dạy các đệ tử: “hãy ra đi, các Tỷ kheo,
đem lại sự tốt đẹp cho nhiều người. Vì lòng từ bi hãy đem lại sự tốt đẹp, lợi ích và
hạnh phúc cho chư thiên và nhân loại. Mỗi người hãy đi một ngả. Này hởi các Tỷ
Kheo, hãy hoằng dương giáo pháp hoàn toàn ở đoạn đầu, toàn hỏa ở đoạn giữa,
toàn hỏa ở đoạn cuối, toàn hỏa cả hai, nghĩa lý và văn tự” [25, tr.574].
3
Cũng vậy, nói về hoạt động hoằng pháp, đức Phật đã nói thế nào là một vị
trưởng lão được ái mộ, ưa thích, tôn trọng, noi gương để hoằng pháp: “Đạt được
nghĩa vô ngại pháp, pháp vô ngại giải, đối với các sự việc, các vị đồng phạm hạnh
cần phải làm, hoặc lớn, hoặc nhỉ vị ấy thiện xảo, không có biến nhác, thành tựu trí
phương tiện, ở đây vừa đủ để làm để khiến người làm” [27, tr.148]. Vận dụng yếu tố
cơ bản trong việc hoằng pháp. Trong Kinh Pháp Hoa, đức Phật thị hiện vào đời là
nhằm “Khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật” [88, tr.7].
Tinh thần này cũng được minh họa cụ thể trong Kinh Tương Ưng, tập 4
chương 4, kinh vị thuyết pháp. Đề cập đến một du sĩ ngoại đạo về mục tiêu tinh thần
hoằng pháp: “Thưa hiền giả, những ai là những vị thuyết pháp ở đời? Những ai là
những vị khéo thực hành ở đời? những ai là những vị khéo đến ở đời?”.
Tôn giả Sàriputra (Xá lợi Phất) đáp lời Du sĩ ngoại đạo:
“Này Hiền giả, những ai thuyết pháp để đoạn tận Tham, những ai thuyết
pháp để đoạn tận Sân, những ai thuyết pháp để đoạn tận Si; những vị ấy là
những vị thuyết thuận pháp ở đời. “Này Hiền giả, những ai thực hành đoạn tận
tham, thực hành đoạn tận sân, thực hành đoạn tận si; những vị ấy khéo thực
hành ở đời.“Này Hiền giả, những ai đoạn tận Tham, Sân, Si cắt đứt tận gốc rễ,
làm cho như thân cây Sa La, làm cho không thể tái sanh, làm không thể sanh
khởi trong tương lai; những vị ấy là những vị Tỷ kheo đến ở đời” [28, tr.821].
Đây là giáo lý được xem như là một trong những phương pháp tối ưu
nhằm hoàn thiện những nhà hoằng pháp cả hai phương diện Phật học và thế học.
Bên cạnh đó giáo lý còn đề cao ba yếu tố quan trọng cho việc hoằng tuyền chánh
pháp: 1. Con người hoằng pháp, 2. Phương tiện hoằng pháp, 3. Nội dung hoằng
pháp. Bên cạnh Kinh, Luật nói về hoạt động hoằng pháp thì đã có những công
trình nói về hoằng pháp.
2.2. Các công trình nghiên cứu về Phật giáo
Sự hoằng pháp thời vua A Dục trong và ngoài Ấn Độ diễn ra trong
khoảng thời gian từ năm 325 đến năm 258 trước Công Nguyên, tương ứng với
4
thời Hùng Vương ở nước ta và trùng hợp với các sử liệu về Phật giáo ghi trong
Ngọc phả Hùng Vương, Chuyện Chử Đồng Tử, Giao Châu Ký của Lưu Hân Kỳ
và Thủy Kinh Chú của Lệ Đạo Nguyên. Theo đó, Phật giáo đã truyền vào nước
ta từ thời Hùng Vương [9, tr.30-31].
Lịch sử đức Phật Thích Ca của Thích Minh Châu (1989), Giáo hội Phật
giáo Việt Nam, Trường Cao cấp Phật học Việt Nam cơ sở II [23]. Khi giới thiệu
về quá trình hoằng pháp của Phật Thích Ca đã đề cập đến hệ thống đệ tử đầu tiên
của Phật và bài thuyết pháp đầu tiên. Lớp đệ tử đầu tiên là năm tu sĩ, bạn đồng tu
khổ hạnh với Thái Tử Tất Đạt Đa ở Uruvela, bài thuyết pháp đầu tiên là Tứ Diệu
Đế. Tiếp theo là thuyết pháp cho Yasa con trai một triệu phú, sách viết Yasa xin
Phật xuất gia và chứng quả A La Hán. Năm vị tu sĩ đắc quả A La Hán cùng với
Yasa, cha của Yasa nghe Phật thuyết pháp xin quy y và trở thành người Phật tử tại
gia đầu tiên trong cuộc hoằng pháp của Đức Phật. Sau này, hơn năm mươi người
bạn của Yasa xin xuất gia đắc quả vị A La Hán. Phật có sáu mươi A La Hán và
hình thành đoàn tăng sĩ thuyết pháp đầu tiên. Cuốn sách đã cho thấy, hoằng pháp
hình thành từ thời đức Phật với hai cấp độ tu sĩ xuất gia và Phật tử tại gia. Nội
dung của cuốn sách là nguồn tư liệu quý giá cho luận văn để làm sáng tỏ tiến trình
hình thành và phát triển của hoằng pháp.
Đức Phật và Phật Pháp của Narada (1994) (Phạm Kim Khách dịch Việt),
Thuận Hóa và Thành Hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh [70], là cuốn sách
viết về những giáo lý cơ bản của đạo Phật. Trong cuốn sách này, phần đầu, tác
giả có nói đến quá trình hoằng pháp truyền bá của đạo Phật thời kỳ đầu. Trong
cuốn sách này, tác giả dành một phần nói về đời sống hằng ngày của đức Phật.
Qua đây, chúng ta có thể nhận biết được cuộc sống xuất gia thời kỳ đầu và sinh
hoặt Tăng đoàn thời kỳ đầu. Đây có thể nói là một trong những cuốn sách mang
lại những tư liệu lịch sử quan trọng cần thiết cho luận văn. Qua cuốn sách, chúng
tôi hiểu được phương thức và mục đích hoạt động hoằng pháp của Tăng đoàn
giai đoạn đầu.
5
Thích Ca Mâu Ni của Tinh Vân Đại Sư (1993), Dương Thu Ái dịch, Nxb
Văn hóa, Hà Nội [79], là cuốn sách nói về cuộc đời của đức Phật Thích Ca Mâu
Ni và quá trình hoằng pháp của Đức Phật. Toàn bộ cuốn sách có 48 mục, trong
đó có nhiều mục nói về các đệ tử đầu tiên như mục 22 thành lập tập đoàn Giáo
hội sơ chuyển pháp luân, mục 23 cư sĩ và tín nữ đầu tiên. Cụ thể, tác giả đã trình
bày quá trình Phật truyền đạo cho năm đệ tử đầu tiên tại vườn Lộc Uyển ngay
sau khi Phật thành đạo. Sau khi nghe Phật thuyết pháp về giáo lý Tứ Đế, năm
ông đã tình nguyện xin quy y làm đệ tử Phật. Khi đó Phật nói: “Từ nay trở đi,
các con sẽ làm đệ tử của ta, gọi là Tỷ kheo Tăng”. Từ đó năm vị theo Phật đi
hoằng pháp. Đó được coi là những bước hoằng pháp truyền đạo đầu tiên của
Phật giáo. Nhìn chung, cuốn sách đem lại cho chúng ta những kiến thức cơ bản
về những bước chân hoằng pháp đầu tiên.
Quan điểm của tôi về cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni của Daisaku Ikeda,
(1996), Nguyễn Phương Đông dịch, Trần Quang Tuệ hiệu đính Nxb. Chính trị Quốc
gia Hà Nội [40], là cuốn sách nói về cuộc đời Thích Ca Mâu Ni. Sách chú trọng vào
khoảng thời gian tu hành đắc đạo và hoằng pháp của đức Phật. Thời kỳ này, số lượng
các Tỷ Kheo tăng nhiều và có nhiều trung tâm hoạt động Phật giáo được mở ra. Vấn
đề giới luật cũng đã được đề cập. Tuy nhiên, thời kỳ này giới luật bắt buộc của các
thành viên Tăng đoàn là bày tỏ sự kính trọng nhất cái được gọi là Tam Bảo tức là
Đức Phật, Pháp Phật và Tăng Già. Nói chung, đây là cuốn sách cần thiết để tìm hiểu
về tổ chức hoằng pháp trong giai đoạn đầu.
Một số tác phẩm trình bày những vấn đề cơ bản của Phật giáo cũng đề cập
tới những vấn đề hoằng pháp Phật giáo. Tiêu biểu Phật Pháp khái luận của Thích
Ấn Thuận (1992), Đại học và giáo dục chuyên nghiệp Hà Nội [106]. Cuốn sách
gồm 20 chương, trong đó có nhiều chương liên quan đến vấn đề hoằng pháp.
Chương I pháp với người giác ngộ đầu tiên và người phụng hành đã tổng kết công
cuộc hoằng pháp đối với Phật tử hình thành từ thời đức Phật. Đây cũng là một
6
trong những cuốn sách trình bày cụ thể mục đích hình thành Tăng đoàn, bản chất
và trách nhiệm hoằng pháp của tăng đoàn.
Cuốn sách đã dành một phần nói về mục đích xây dựng Tăng đoàn. Ý
nghĩa của việc thành lập tăng đoàn, hoằng truyền Phật pháp là để giữ vững Phật
pháp. Tác giả đưa ra 10 định chế giới luật của đức Thế Tôn mà tác giả cho rằng
việc hoằng pháp của Tăng đoàn dựa trên cơ sở những định chế giới luật này.
Việc đầu tiên hoằng pháp tăng đoàn phải lấy sự hòa hợp với tư tưởng lục hòa
làm cơ sở. Tư tưởng lục hòa mà cuốn sách có đề cập trong việc hoằng pháp của
Tăng đoàn cũng chính là tư tưởng đã được Ban Hoằng pháp Giáo hội Phật giáo
Việt Nam tiếp thu khi thành lập tổ chức này.
Ngoài ra các chương XV, XVI, XII của cuốn sách còn trình bày những vấn đề
cụ thể về tín đồ như phân loại tín đồ để hoằng pháp cho phù hợp, cách thức tu hành
của tín đồ. Tuy không nói về mô hình hoằng pháp nhưng đây là cuốn sách quan trọng
để nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển hoạt động hoằng pháp Phật giáo
trong lịch sử qua đó làm rõ mô hình hoằng pháp Phật giáo ngày nay.
Lịch sử Phật giáo tỉnh Nam Định (2012) của Ban trị sự Phật giáo tỉnh Nam
Định, Thế Tâm - Đồng Ngọc Hoa, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội [85] và Lịch sử Phật
giáo Ninh Bình (2017) của Nguyễn Đại Đồng - Nguyễn Hồng Dương - Nguyễn
Phú Lợi, Nxb Tôn giáo, Hà Nội [87]. Đây là hai công trình được trình bày khá
tổng hợp và nêu được những nét khái quát nhất của Phật giáo Nam Định và Phật
giáo Ninh Bình trong tiến trình phát triển của lịch sử tỉnh Nam Định và Ninh
Bình. Hai tác phẩm này, phần trình bày chính yếu, là thành công của tác giả, viết
về lịch sử Phật giáo Nam Định và Ninh Bình khá chi tiết, đặc biệt, từ thời kỳ du
nhập cho đến nay. Trong tác phẩm Phật giáo Ninh Bình có đề cập đến Đại hội
Phật giáo Hà Nam Ninh lần thứ nhất nhiệm kỳ (1981 - 1987), Đại hội đại biểu
Phật giáo Hà Nam Ninh lần thứ hai nhiệm kỳ (1987- 1992). Người viết tiếp cận
tác phẩm này dưới góc độ nghiên cứu lịch sử để đưa ra những ảnh hưởng đến Phật
giáo Hà Nam trước và sau khi tách tỉnh.
7
2.3. Các bài viết về Hoằng pháp
Đã có nhiều công trình tìm hiểu về Phật giáo và ảnh hưởng của Phật giáo nói
chung, các hoạt động hoằng pháp Phật giáo nói riêng, những công trình này đã đạt
được những thành quả đáng trân trọng. Có thể chia thành một số vấn đề: Về Phật
giáo Việt Nam, và về ảnh hưởng của Phật giáo Việt nam đối với xã hội, các kỷ yếu
hội thảo Hoằng pháp để đề ra các phương hướng hoạt động hoằng pháp.
Bài suy nghĩ về quan hệ quốc tế của GHPGVN của Thích Gia Quang
(2001), Kỷ yếu hội thảo: Giáo hội Phật giáo Việt Nam 7-11-1981- 7-11-2001,
Nxb Tôn giáo Hà Nội [76], tuy là một bài viết bàn về vấn đề quan hệ giao lưu
quốc tế của Giáo hội từ khi thành lập. Không chỉ có tổng kết lại những thành quả
đã đạt được, tác giả còn đưa ra những kiến nghị để thúc đẩy hoạt động này phát
triển hơn nữa trong thời gian tới. Theo chúng tôi, những kiến nghị bài viết tác
giả đưa ra là hoàn toàn xác đáng với hoạt động hoằng pháp. Những kiến nghị đó
gồm: Thứ nhất, GHPGVN phải có kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trong
việc hợp tác với các tổ các tổ chức Phật giáo tại nhiều nước. Thứ hai, đào tạo những
Tăng Ni trẻ đủ trình độ Phật học và ngoại ngữ để gánh vác những công việc hợp tác
quốc tế mà Giáo hội giao phó. Thứ ba, đẩy mạnh việc mở rộng internet để phổ biến
PGVN ra nước ngoài nhằm thúc đẩy mối quan hệ giao lưu quốc tế. Bài viết này đã bổ
sung thêm các cách thức và mô hình hoằng pháp cho luận văn.
Chú trọng vào việc đào tạo Tăng, Ni trẻ kế thừa, (2002), của HT. Thích
Trí Quảng, kỷ yếu hội thảo: Giáo hội Phật giáo Việt Nam 7/11/1981 - 7/11/2001,
Nxb. Tôn giáo, Hà Nội [78]. Là một bài viết nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập
GHPGVN. Trong bài viết này, tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của hoạt động
hoằng pháp, công tác Phật sự quan trọng vì “bổn phận của GHPGVN là phải vận
dụng cho được những tinh hoa Phật pháp, xây dựng mô hình thực tiễn phù hợp
với thực tế cuộc sống”. Tiêu đề bài viết của tác giả là chú trọng đào tạo Tăng, Ni
trẻ kế thừa và đề cập đến vai trò hoằng pháp. Chúng tôi sử dụng tài liệu này để đi
sâu vào vấn đề có liên quan trong luận văn của mình.
8
Bài Giáo hội Phật giáo Việt Nam cần phát huy những thành tựu đã đạt
được và tiếp tục củng cố để không ngừng phát triển của Thích Viên Thành,
(2002), kỷ yếu hội thảo: Giáo hội Phật giáo Việt Nam 7/11/1981 - 7/11/2001,
Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội [103], đã tập trung nêu lên những khó khăn,
những điểm còn chưa làm được của GHPGVN trong thời gian qua. Bài viết có
nêu khía cạnh về vấn đề hoằng pháp là: Đề nghị Giáo hội có chính sách giúp đỡ
Tăng Ni các tỉnh miền núi, vùng sâu vùng xa còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn
về vật chất, tài liệu, kinh điển. Cần đào tạo khẩn trương và phân bổ giảng sư tới
các địa bàn còn thiếu giảng sư. Bài viết có những góp ý để luận văn có thể hoàn
thành trong phần kiến nghị và đề xuất.
Bài Vai trò hoằng pháp hiện nay, của Thích Thiện Bảo, (2002), kỷ yếu hội
thảo: Giáo hội Phật giáo Việt Nam 7/11/1981 - 7/11/2001, Nhà xuất bản Tôn giáo,
Hà Nội [8], đã bàn cụ thể vào một vấn đề quan trọng của Giáo hội hiện nay cũng như
đề tài luận văn, vấn đề hoằng pháp. Đức Phật ra đời là để hoằng pháp. Theo chân đức
Phật, nhiệm vụ chính của những người con Phật là đem giáo pháp của Đức Phật
truyền bá rộng khắp. Đó cũng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của PGVN nói chung
hay GHPGVN nói riêng. Bài viết trước tiên đã tổng kết lại những thành tựu đã đạt
được kể từ khi thành lập và đưa ra một số kiến nghị. Kiến nghị xoay quanh hai vấn đề
chính: Một là, tạo dựng đội ngũ lãnh đạo Giáo hội, đội ngũ giảng sư trẻ có năng
khiếu, có trình độ chuyên môn cao, đồng thời nên mở một số lớp chính thức dành cho
Phật tử đào tạo theo cấp và giáo trình thống nhất của Giáo hội. Hai là, thúc đẩy công
tác hoằng pháp tại vùng sâu, vùng xa.
Bài Về đường hướng phát triển PGVN trong thế kỷ XXI của Thích Thiện
Hữu (2002), kỷ yếu hội thảo: Giáo hội Phật giáo Việt Nam 7/11/1981 7/11/2001, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội [51], là một trong số ít bài viết đề cập
đến những vấn đề GHPGVN cần thực hiện trong sự nghiệp hoằng pháp và phát
triển Giáo hội trong thế kỷ XXI. Tác giả xoay quanh những vấn đề: cần có
chương trình dài hạn giáo dục đào tạo Tăng Ni, đối với Phật tử cũng nên có
9
những chương trình đào tạo dài hạn, mở rộng mạng lưới Phật pháp và PGVN
trên siêu xa lộ thông tin; thành lập thêm các tờ báo Phật giáo; mở rộng phạm vi
xã hội của đạo Phật; truyền bá Phật giáo vào các vùng sâu, vùng xa và cuối cùng
là phát động mộ đạo Phật xanh.
Cùng chủ đề bàn về hướng đi của GHPGVN trong thế kỷ XXI, Thích Nữ
Tịnh Thường (2002), với bài viết Phát triển GHPGVN trong thế kỷ XXI, kỷ yếu
hội thảo: Giáo hội Phật giáo Việt Nam 7/11/1981 - 7/11/2001, Nxb. Tôn giáo,
Hà Nội [104], lại nhấn mạnh vào công tác đào tạo tăng tài, giáo dục Tăng Ni và
cách sử dụng những Tăng Ni được đào tạo căn bản như thế nào để có thể phát
huy được hoạt động hoằng pháp thiết thực của GHPGVN. Tác giả cho rằng, đào
tạo Tăng Ni tài đức, đáp ứng được lợi ích thiết thực của quần chúng, tạo được
lòng tin yêu mến đến mọi người, là sức mạnh đầu tiên của GHPGVN và tạo tiền
đề cho tương lai Giáo hội xán lạn hơn.
Nguyễn Quốc Tuấn, Đặc điểm và vai trò Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX,
(2005), Thư Viện Nghiên cứu Tôn giáo [97], đã đề cập đến nhiều vấn đề liên quan
đến hoằng pháp về nhập thế tích cực. Tác giả đưa ra các đặc điểm: tính bình dân - đại
chúng (hay lối sống Phật giáo) và vùng- tộc ít người; tính phức hợp và thống nhất.
Tác giả cũng đã dành một chương nói về vai trò của PGVN trong thế kỷ XX, đó là:
Tham gia kháng chiến chống ngoại xâm và hoàn thành công cuộc thống nhất Tổ
quốc; tham gia kiến quốc, cải biến xã hội và xác lập một lối sống Phật giáo hiện đại;
tham gia hiện đại hóa đất nước trên tư cách một động lực của phát triển và hoàn thiện
nhân cách con người.
Luận án tiến sĩ của Lê Văn Đính, (2003), Gia đình Phật tử và vấn đề đoàn
kết, tập hợp thanh thiếu niên tín đồ Phật giáo ở nước ta hiện nay (qua khảo sát
một số tỉnh miền Trung), Đại học Quốc gia, Hà Nội [39], đã đề cập đến một vấn
đề không thể thiếu trong hoạt động hoằng pháp Phật giáo là Gia đình Phật tử.
Chúng tôi thấy rằng, luận án trình bày dưới góc độ khoa học chính trị, đi sâu vào
công tác đoàn kết, tập hợp thanh thiếu niên Phật tử là điều rất cần thiết trong
10
hoạt động hoằng pháp hiện nay. Luận án đã phân tích bản chất, đặc điểm và
phương thức hoạt động của Gia đình Phật tử qua đó xem xét ảnh hưởng của nó
đối với thanh thiếu niên tín đồ Phật giáo.
Kỷ yếu hội thảo hoằng pháp toàn quốc: Sứ mạng hoằng pháp hội nhập và
phát triển, Ban hoằng pháp T.Ư tổ chức tại Bà Rịa - vũng Tàu, năm 2015. Tổ chức
Phật giáo của GHPGVN ở vùng núi phía Bắc nước ta hiện nay: Thích Gia Quang,
(2016), Nxb Khoa học xã hội Hà Nội [75]. Bài viết đã tập trung nêu lên những khó
khăn, những điểm còn chưa làm được của Ban Hoằng pháp GHPGVN trong thời
gian qua. Bài viết tập trung vào các vấn đề: thành lập Ban Hoằng pháp tại các cơ sở
địa phương hiện chưa có. Đề nghị Ban Hoằng pháp tập trung đến các vùng sâu, vùng
xa, cần đào tạo khẩn trương và phân bố giảng sư tới các địa bàn còn thiếu giảng sư.
Bài viết cũng đã đóng góp ý cho hoạt động hoằng pháp, đồng thời cũng chỉ ra những
kết quả trước đây chưa làm được thì nay Ban Hoằng pháp GHPGVN đã khắc phục
được. Bài viết đã cung cấp một cách nhìn sâu sắc hơn về vai trò của Ban Hoằng pháp
GHPGVN trong sự nghiệp phát triển.
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau
của chủ đề này, cung cấp nhiều ý kiến có thể tham khảo. Tất cả các công trình
nghiên cứu trên là cơ sở, là nền tảng giúp cho việc triển khai nghiên cứu đề tài
luận văn được thuận lợi. Ngoài ra, còn có những nội dung nghiên cứu liên quan
đến các hoạt động hoằng pháp cũng được thực hiện trong một số sách, tạp chí,
kỷ yếu hội thảo, luận án khác.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng những tư liệu của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo Hà Nam liên quan
đến hoạt động hoằng pháp của Phật giáo Hà Nam. Đó là các kỷ yếu Đại hội đại
biểu Phật giáo Việt Nam toàn quốc trong các nhiệm kỳ: Nhiệm kỳ V (20022007), Nhiệm kỳ VI (2007 - 2012), Nhiệm kỳ VII (2012 - 2017), Nhiệm kỳ VIII
(2017 - 2022). Trong các văn kiện này đều có báo cáo chung về tình hình Phật
giáo cả nước, những thành tựu và tồn tại được tổng hợp từ thực trạng Phật giáo
11
các tỉnh thành qua các nhiệm kỳ, trong đó Phật giáo Hà Nam, đặc biệt là một số
kỷ yếu có bài tham luận của Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo Hà Nam.
Trong kỷ yếu hội thảo kỷ niệm 30 năm (1981 - 2011) thành lập Giáo hội Phật
giáo Việt Nam và hội thảo Tăng sự toàn quốc (2015), do Hội đồng trị sự Giáo hội
Phật giáo Việt Nam tổ chức có những báo cáo tổng kết về sự phát triển của Giáo hội
về mọi mặt trong những năm qua: tăng sự, giáo dục Tăng, Ni, nghi lễ, hoằng pháp, từ
thiện xã hội… Các báo cáo này có những con số cụ thể, những đánh giá xác đáng về
Phật giáo Việt Nam hiện nay, được tổng hợp trên cơ sở số liệu báo cáo tổng quan của
Phật giáo các địa phương, trong đó có Phật giáo tỉnh Hà Nam.
Qua một số công trình nghiên cứu trên, hoạt động hoằng pháp mà người viết
hướng đến ở đây được hiểu là một hệ thống bao gồm các lời dạy của đức Phật, tập
hợp trong Kinh, Luật, Luận, cụ thể qua 03 vấn đề: 1) trách nhiệm và kỹ năng truyền
bá lời Phật dạy, 2) các phương tiện hoằng pháp hướng dẫn con người một cách đúng
chính pháp để chuyển hóa thân và tâm, 3) trở thành những phạm hạnh, chuẩn mực để
áp dụng vào cộng đồng tu sĩ, cư sĩ và xã hội.
Những công trình nghiên cứu trên đều thống nhất ở một số điểm: Phật
giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống người Việt từ triết lý, tư tưởng đạo đức,
văn học, nghệ thuật, cho đến phong tục tập quán, nếp sống, nếp nghĩ… Từ nhân
sinh quan, thế giới quan, đạo lý, thẩm mỹ cho đến lời nói, ứng xử của đại đa số
quần chúng. Những triết lý đầy tính nhân sinh của Phật giáo kết hợp với văn hóa
truyền thống đã tạo nên sự phong phú trong đời sống tinh thần của người Việt
Nam. Phật giáo đã thích ứng với mọi hoàn cảnh lịch sử và văn hóa của dân tộc,
hòa nhập cùng dân tộc để trở thành một tôn giáo rất gần gũi, thân thương với dân
tộc và con người Việt Nam. Những công trình nghiên cứu nói trên, trực tiếp hoặc
gián tiếp, ở các mức độ và khía cạnh khác nhau, đã thể hiện những giá trị của
Phật giáo, cũng như các hoạt động hoằng pháp và ảnh hưởng của nó đối với đời
sống xã hội Việt Nam.
12
Bên cạnh những thuận lợi từ việc kế thừa các công trình nghiên cứu trước
đây, chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn trong việc hoàn thành nghiên cứu luận văn
này, bởi tỉnh Hà Nam là một tỉnh mới được tách ra, điều kiện đời sống kinh tế, văn
hóa, xã hội còn nhiều khó khăn, nên hoạt động tôn giáo của tỉnh từ trước đến nay
ít được quan tâm. Các công trình nghiên cứu nêu trong lịch sử vấn đề cũng chưa đi
sâu vào tìm hiểu các hoạt động hoằng pháp của Phật giáo Hà Nam. Vì vậy, chúng
tôi gặp khó khăn trong việc sưu tầm tài liệu liên quan đến lịch sử Phật giáo trên
địa bàn này. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng tiếp thu, kế thừa có chọn
lọc các tài liệu liên quan đến luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về thực trạng hoạt động hoằng pháp của GHPGVN tỉnh
Hà Nam từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động hoằng
pháp tại đây.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Chỉ ra những nét chung nhất về Hà Nam và Giáo hội PGVN tỉnh Hà
Nam;
- Thông qua khảo sát, thống kê và phân tích, làm rõ một số hoạt động
hoằng pháp cơ bản của Giáo hội PGVN tỉnh Hà Nam;
- Rút ra một số nhận xét, đề xuất và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
hoằng pháp của Giáo hội PGVN tỉnh Hà Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Hoạt động hoằng pháp của GHPGVN tỉnh Hà Nam trong đời sống tâm linh
người dân tín, đồ Phật tử trong cơ cấu tổ chức, hoạt động của GHPG Việt Nam và
trong các hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
13
Luận văn tập trung nghiên cứu một số hoạt động hoằng pháp Phật giáo cụ
thể như: hoạt động giảng pháp, hoạt động từ thiện xã hội, hoạt động nghi lễ,
trong địa bàn tỉnh Hà Nam từ giai đoạn từ năm 2005 đến nay.
Chọn thời điểm 2005 vì đây là thời gian Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo
được thực thi, nên sẽ giúp cho việc khảo sát có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hơn về
công tác hoằng pháp của GHPG Việt Nam tỉnh Hà Nam trong công tác quản lý tôn
giáo sau 12 năm thực hiện Pháp lệnh và hiện nay là triển khai Luật tín ngưỡng, tôn
giáo cũng như Nghị định 162/NĐ-CP, ngày 30/12/2017 Quy định chi tiết một số điều
và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng tôn giáo trên địa bàn tỉnh.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
của tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo; quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước về Tôn giáo. Đồng thời chúng tôi cũng tiếp cận khung lý
thuyết về chức năng của tôn giáo, khung lý thuyết về thực thể tôn giáo, về giao
lưu và tiếp biến để có hướng tiếp cận nghiên cứu một cách sâu nhất.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
* Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp nghiên cứu và phân tích tài liệu: Phương pháp nghiên cứu
và phân tích tài liệu là phương pháp sử dụng các kỹ thuật chuyên môn nhằm thu
thập thông tin, số liệu, nội dung từ các nguồn tài liệu đã được công bố hoặc kết
luận rút ra từ các nguồn tài liệu, những thông tin cần thiết trong quá trình nghiên
cứu của bản thân.
- Phương pháp điều tra, điền dã thu thập tài liệu thực địa tỉnh Hà Nam
cùng các tỉnh lân cận: Chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu so sánh, so
sánh hoạt động hoằng pháp giữa các tỉnh để tìm ra sự tương đồng và khác biệt
nhau căn bản để đưa ra những giải pháp cho hoạt động Phật giáo tỉnh Hà Nam.
14
- Xem thêm -