VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ ĐẠI HÀNH
(Thích Minh Thịnh)
HOẠT ĐỘNG AN SINH XÃ HỘI
CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TỈNH BẾN TRE HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC
HÀ NỘI - 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ ĐẠI HÀNH
(Thích Minh Thịnh)
HOẠT ĐỘNG AN SINH XÃ HỘI
CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TỈNH BẾN TRE HIỆN NAY
Ngành: TÔN GIÁO HỌC
Mã số: 8.22.90.09
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN THỊ PHƢƠNG CHÂM
HÀ NỘI – 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Lê Đại Hành (Thích Minh Thịnh), người thực hiện luận văn này.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi, các số liệu
và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, chưa được ai công bố
trong bất cứ công trình nào khác. Những trích dẫn cần thiết trong luận văn và
nguồn gốc văn bia cùng các bản dịch văn bia được tôi chú thích rõ ràng và
trung thực.
Tác giả luận văn
Lê Đại Hành
ii
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là thành quả của quá trình học tập, nghiên cứu của học
viên tại Khoa Tôn giáo học - Học viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm Khoa
học xã hội Việt Nam.
Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Học viện Khoa học xã
hội, nhà trường đã tạo những điều kiện thuận lợi về mọi mặt để tôi học tập và
nghiên cứu tại đây.
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô giáo, những người
phụ trách khoa Tôn giáo học đã truyền đạt cho tôi những kiến thức và kinh
nghiệm quý báu trong suốt thời gian tôi học tập tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Phương Châm, người
đã tận tình chỉ dạy, truyền đạt cho tôi nhiều kiến thức, kinh nghiệm có giá trị,
giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến tất cả những bẹn bè, đồng nghiệp, những
người đã gắn bó và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như trong quá
trình thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng, tôi xin được cảm ơn gia đình tôi và những người thân đã tạo
điều kiện để tôi yên tâm học tập trong suốt thời gian qua.
Xin cảm ơn!
TP. Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 2018
Học viên
Lê Đại Hành
iii
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT
1
10
ĐỘNG AN SINH XÃ HỘI CỦA PHẬT GIÁO
1.1. Cơ sở lý thuyết
10
1.2. Khái quát chung về Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bến
29
Tre hiện nay
Tiểu kết chương 1
Chƣơng 2: HOẠT ĐỘNG AN SINH XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI
34
35
PHẬT GIÁO VIỆT NAM TỈNH BẾN TRE GIAI ĐOẠN
2012 - 2017
2.1. Thực trạng hoạt động an sinh xã hội của Giáo hội Phật giáo
35
Việt Nam ở tỉnh Bến Tre
2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động an sinh xã hội của
45
Phật giáo Việt Nam trên địa bàn tỉnh Bến Tre hiện nay
2.3. Nhận xét, đánh giá chung
Tiểu kết chương 2
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG, KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG
49
54
55
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG AN SINH XÃ HỘI CỦA
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM TỈNH BẾN TRE
HIỆN NAY
3.1. Định hướng hoạt động an sinh xã hội của Giáo hội Phật giáo
55
Việt Nam tỉnh Bến Tre trong thời gian tới
3.2. Khuyến nghị và giải pháp
56
KẾT LUẬN
69
PHỤ LỤC
75
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASXH
:
An sinh xã hội
BHXH
:
Bảo hiểm xã hội
TCXH
:
Trợ cấp xã hội
XĐGN :
Xóa đói giảm nghèo
GHPGVN:
Giáo hội Phật giáo Việt Nam
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo từ khi ra đời đã xây dựng được cho mình một hệ thống giáo
lý đạo đức khá hoàn chỉnh, với tinh thần luôn đề cao lòng từ bi, nhân ái. Từ
khi truyền vào Việt Nam, tinh thần cứu khổ, cứu nạn của giáo lý Phật giáo
luôn được phát huy rộng rãi, ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội.
Đây cũng là một nguyên nhân quan trọng giúp cho Phật giáo gắn chặt
và đồng hành cùng với dân tộc Việt Nam qua những chặng đường lịch sử.
Ngày nay, nhân loại đang phải đối mặt với các mối đe dọa có xu hướng
ngày càng gia tăng như: chiến tranh, ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt,
nghèo đói, bệnh dịch, tội phạm, tệ nạn xã hội… Việt Nam cũng không là một
ngoại lệ. Để giải quyết các vấn đề này, các nhà nước cần phải có sự chung tay
của cả cộng đồng và nhân loại.
Xuyên suốt lịch sử tồn tại và phát triển, các giá trị của Phật giáo luôn là
phương tiện hữu hiệu để các cá nhân và cộng đồng có thể đối mặt với bất an,
bất định của cuộc đời họ.
Ngay từ buổi đầu hình thành Phật giáo đã thể hiện tinh thần cứu khổ
cứu nạn cho chúng sanh trong giáo lý của đức Phật; tinh thần Lục độ (bố thí,
trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ) là con đường dẫn đến sự giác
ngộ, mà điều đầu tiên phải thực hiện được là thực hành bố thí.
Tất cả những lời Đức Phật dạy đều hướng tới mục đích tối hậu là giải
thoát khổ đau và đạt chân hạnh phúc; như Đức Phật khẳng định: “ví như nước
biển chỉ có một vị là vị mặn, cũng vậy, Pháp và Luật của ta chỉ có một vị là vị
giải thoát” [5].
Vì vậy, các hình thức hoằng pháp của Phật giáo không những làm cho
nhiều cuộc đời được giải thoát hay bớt đau khổ; mà còn góp phần làm cho các
nhà nước, xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Trong đó, nổi bật là các vấn đề về an
2
sinh xã hội, công bằng xã hội, nhất là, công tác từ thiện xã hội - điều mà Đức
Phật luôn đề cao và chú trọng.
Ở Việt Nam, truyền thừa tinh thần ấy, trong quá trình hoằng pháp,
GHPGVN và Ban trị sự các tỉnh thành (trong đó có Bến Tre) cũng luôn đề
cao công tác từ thiện, an sinh xã hội.
Trải qua các kỳ Đại hội, báo cáo về công tác từ thiện xã hội tại các tỉnh
thành luôn tăng trưởng vượt bậc. Điển hình tại Bến Tre, qua báo cáo tại Đại
Hội VI (2017 - 2022) công tác từ thiện xã hội lên đến 163 tỷ đồng, với nhiều
chương trình thực tiễn, gắn liền với chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống
của bà con [35]. Đặc biệt là các chương trình xây cầu nông thôn, nhà tình
thương, giúp đỡ trẻ em, người già có hoàn cảnh khó khăn được Ban từ thiện
Phật giáo hết sức chú trọng. Nguồn của các hoạt động an sinh xã hội này được
tạo dựng thông qua: bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội (còn gọi là cứu tế xã hội),
các chế độ trợ cấp từ quỹ công cộng, các chế độ trợ cấp gia đình, các quỹ dự
phòng, sự bảo vệ do người sử dụng lao động cung cấp...
Hoạt động an sinh xã hội của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bến
Tre đã góp phần quan trọng để xây dựng một xã hội hài hòa, văn minh với
việc gia tăng sự đoàn kết, chia sẻ và tương trợ cộng đồng trước các khó khăn,
rủi ro trong cuộc sống của mọi người.
Do vậy, hoạt động an sinh xã hội có tác dụng thúc đẩy sự đồng thuận,
gắn kết xã hội. Bên cạnh đó, hệ thống những hoạt động an sinh xã hội của Phật
giáo Bến Tre, thông qua các chính sách chăm sóc sức khỏe, từ thiện và các dịch
vụ xã hội đã góp phần nâng chất lượng sống cho người dân trong khu vực.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác an sinh xã hội
của Giáo hội Phật giáo tỉnh Bến Tre còn tồn tại không ít những khó khăn,
vướng mắc cần được giải quyết như: các chương trình hỗ trợ đời sống công
nhân ở các khu công nghiệp, người nghèo nhập cư, các gia đình sống trong
3
khu vực bị ô nhiễm nặng nề, khu vực bị giải tỏa, những hộ nông dân nghèo
khó tiếp cận các chính sách xã hội về sức khỏe, giáo dục, y tế…
Do vậy, rất cần thiết phải đi sâu nghiên cứu để làm rõ thực trạng hoạt
động an sinh xã hội của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bến Tre hiện nay;
trên cơ sở đó đề ra những giải pháp, khuyến nghị thích hợp nhằm nâng cao hiệu
quả của an sinh xã hội góp phần xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam
theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Với những lý do nêu trên, đề tài: “Hoạt động an sinh xã hội của Giáo
hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bến Tre hiện nay” sẽ là những đóng góp thiết
thực có ý nghĩa vào vấn đề nghiên cứu cần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực
tiễn để xây dựng và hoàn thiện chiến lược, chính sách an sinh xã hội của Phật
giáo tại Bến Tre trong điều kiện phát triển hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề
an sinh xã hội (ASXH), đáng quan tâm là những công trình sau:
- Hệ thống an sinh xã hội của EU và bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam” của Đinh Công Tuấn [4] đã phân tích tổng quan về hệ thống ASXH của
châu Âu cũng như làm rõ nhu cầu, thách thức trong việc cải cách hệ thống an
sinh xã hội của châu Âu, đồng thời, chỉ ra những thành công, hạn chế, những
kinh nghiệm trong đảm bảo ASXH thông qua: Hệ thống ASXH theo mô hình
“thị trường xã hội” của Đức; hệ thống an sinh xã hội theo mô hình “xã hội
dân chủ” của Thụy Điển; hệ thống an sinh xã hội theo mô hình “thị trường tự
do” của Anh. Từ đó, cung cấp nhiều luận cứ khoa học cho xây dựng và thực
hiện chính sách ASXH phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay.
- “Chính sách an sinh xã hội và vai trò của nhà nước trong việc thực hiện
chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam” của Nguyễn Văn Chiểu [26] đã đề cập
đến một số vấn đề lý luận cơ bản chính sách an sinh xã hội và kinh nghiệm một
4
số nước, thực trạng thực thi chính sách ASXH ở Việt Nam trong gần 30 năm
thực hiện đường lối đổi mới, vai trò của nhà nước trong việc thực hiện chính
sách ASXH ở Việt Nam hiện nay, phương hướng và những giải pháp chủ yếu
nâng cao vai trò của nhà nước trong việc thực hiện chính sách ASXH ở Việt
Nam.
- “Xây dựng và hoàn thiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam” của
Mai Ngọc Cường [15] đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của chính sách
ASXH trong nền kinh tế thị trường; thực trạng hệ thống chính sách ASXH ở
Việt Nam hiện nay; phương hướng, giải pháp xây dựng và hoàn thiện hệ
thống chính sách ASXH ở Việt Nam đến năm 2015. Cuốn sách đã chỉ rõ tác
động mặt trái của kinh tế thị trường: tình trạng phân hóa giàu nghèo, sự bất
bình đẳng trong thu nhập, nguy cơ thất nghiệp và bệnh tật, đói nghèo. Đồng
thời cũng nhấn mạnh vai trò của Đảng, Nhà nước trong việc ban hành và tổ
chức thực hiện các chủ trương, chính sách nhằm giải quyết các vấn đề xã hội
nói chung, ASXH nói riêng.
- “An sinh xã hội ở nước ta ở Việt Nam hướng tới năm 2020” của Vũ
Văn Phúc [42] đã đề cập đến những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm thế
giới về ASXH: quan điểm và cách tiếp cận về an sinh xã hội, xây dựng và
thực hiện hệ thống về ASXH ở nước ta trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng XHCN; những vấn đề thực tiễn về an sinh xã hội ở nước ta: xây dựng
và hoàn thiện hệ thống ASXH ở Việt Nam, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế,
ASXH cho cư dân vùng nông thôn, vùng nghèo, vùng khó khăn, vùng dân tộc
và miền núi, đào tạo nghề. Cuốn sách đã phác họa bức tranh tổng thể về cơ sở
lý luận và những vấn đề thực tiễn về ASXH ở nước ta. Tuy nhiên, các chuyên
đề, bài viết của chuyên gia chưa được tổng quan hóa nên tính logic của các
nội dung vẫn còn bất cập.
5
- “Chính sách an sinh xã hội - thực trạng và giải pháp” của Lê Quốc Lý
[13] đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về những trở ngại trong thực thi chính
sách ASXH; những trở ngại trong thực thi chính sách ASXH ở Việt nam gần đây
thông qua việc đánh giá nhóm cán bộ thực thi và đối tượng thụ hưởng chính sách;
trên cơ sở mục tiêu, quan điểm thực thi chính sách ASXH ở Việt Nam đến năm
2020. Cuốn sách đã nêu lên 5 nhóm giải pháp khắc phục những trở ngại trong
thực thi chính sách ASXH ở nước ta (thiết kế và thực thi chính sách ASXH, xây
dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, hoàn thiện bộ máy thực thi chính sách
ASXH, nâng cao nhận thức của đối tượng thụ hưởng về chính ASXH).
- Các bài nghiên cứu trên các tạp chí liên quan đến lĩnh vực an sinh xã
hội có thể kể đến là: “An sinh xã hội ở nước ta - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” của Vũ Văn Phúc [43]; “Hệ thống an sinh xã hội cho người nông dân
Việt Nam” của Nguyễn Danh Sơn [17]; "Tiếp tục thực hiện tốt chính sách ưu
đãi người có công, bảo đảm an sinh xã hội trong phát triển bền vững" của tác
giả Nguyễn Thị Kim Ngân [24]. Các bài viết nói trên đã đề cập đến những
vấn đề lý luận chung vấn đề thực tiễn về ASXH ở nước ta, xây dựng và hoàn
thiện hệ thống ASXH ở Việt Nam trên quan điểm các nghị quyết chuyên đề
của Đảng về ASXH.
Ngoài các ấn phẩm sách, tạp chí, các kỷ yếu của các cuộc hội thảo sau đây
cũng phần nào làm sáng tỏ các nội dung liên quan đến lĩnh vực ASXH: “Phát
huy vai trò Phật giáo tham gia xã hội hóa công tác xã hội, từ thiện” [12]; “An
sinh xã hội ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Ban Tuyên giáo
Trung ương, Tạp chí Cộng sản, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Hội đồng
khoa học các cơ quan Đảng Trung ương [1]... Qua các hội thảo này, cũng đã có
nhiều phát hiện và tiếp cận mới trong xây dựng và thực hiện chính sách ASXH
cũng như vai trò của nhà nước, Giáo hội Phật giáo trong thực hiện chính sách
ASXH, thực trạng và giải pháp thực thi chính sách ASXH ở Việt Nam.
6
Kết quả của các công trình nghiên cứu kể trên sẽ là những cứ liệu quan
trọng để tác giả kế thừa, phát triển trong đề tài nghiên cứu của bản luận văn này.
7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích
Phân tích thực trạng hoạt động an sinh xã hội của Phật giáo tỉnh Bến
Tre hiện nay. Trên cơ sở đó đề xuất phương thức thực hiện an sinh xã hội phù
hợp với chức năng của Phật giáo trong điều kiện hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Đề xuất cơ sở lý luận, thực tiễn: phân tích các Kinh Tạng nói về an
sinh xã hội.
+ Nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động an sinh xã hội của Phật
Giáo trên địa bàn tỉnh Bến Tre hiện nay.
+ Phân tích những yếu tố tác động đến hoạt động an sinh xã hội của
Phật Giáo trên địa bàn tỉnh Bến Tre, đồng thời đưa ra những nhận xét và kiến
nghị giải pháp phù hợp với xã hội hiện nay.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận
Trên cơ sở lý luận về hoạt động an sinh xã hội trong Phật giáo, từ đó
bàn đến thực tế hoạt động an sinh xã hội qua trường hợp cụ thể tại Giáo hội
Phật giáo Việt Nam tỉnh Bến Tre để thấy được các khía cạnh đa dạng của
hoạt động này cùng những vấn đề đặt ra, những yếu tố tác động và những
giải pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác này. Vấn đề nghiên cứu
này có đóng góp thiết thực cho chuyên ngành Tôn giáo học và cả các ngành
khoa học khác như văn hóa học, xã hội học.
- Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài này là tài liệu tham khảo có giá trị cho
công tác nghiên cứu về an sinh xã hội của Phật giáo và đóng góp nhất định
cho hoạt động an sinh xã hội của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bến Tre
ngày càng trở nên hiệu quả hơn.
8
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Những hoạt động an sinh xã hội của Giáo Hội
Phật giáo Việt Nam tỉnh Bến Tre.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn sẽ khảo sát các hoạt động an sinh xã
hội của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tỉnh Bến Tre trong giai đoạn từ 2012 2017 đến nay.
6. Lý thuyết và Phƣơng Pháp nghiên cứu
- Lý thuyết nghiên cứu: Luận văn vận dụng lý thuyết chức năng để
nghiên cứu.
Lý thuyết chức năng được ra đời khoảng cuối thế kỷ XIX, gắn liền với
tên tuổi nhà xã hội học danh tiếng người Pháp như E.Durkheim (1858 1917), lý thuyết này muốn kiểm chứng giá trị của bất kỳ một hành vi mang
tính ý thức bằng giá trị của nó cống hiến cho con người và xã hội.
E.Durkheim là nhà khoa học đầu tiên coi tôn giáo là một sự kiện xã hội,
cơ sở tình cảm tôn giáo bắt nguồn từ kinh nghiệm xã hội và những mạng lưới
quan hệ xã hội. Mỗi một tôn giáo gắn với một kiểu quan hệ xã hội nhất định.
Bản thân tôn giáo với các yếu tố như nghi lễ, cộng đồng và vật thiêng mang
tính xã hội, tạo ra sự cố kết xã hội mạnh mẽ.
Các nhà chức năng luận như: Radcliffe Brown, Kingsley Davis, Milton
Yinger đã tiếp tục vận dụng quan điểm này vào việc nghiên cứu tôn giáo. Các
ông chủ trương tìm hiểu chức năng quan trọng hơn việc tìm hiểu nguồn gốc
tôn giáo và niềm tin tôn giáo. Vì chỉ có thể hiểu được niềm tin tôn giáo thông
qua hành vi tôn giáo và chức năng tôn giáo. Ngoài chức năng cố kết xã hội,
các nhà chức năng luận còn cho rằng tôn giáo đem lại cho con người một sự
đền bù về mặt tâm lý nhờ niềm tin vào sự thưởng phạt của lực lượng siêu
nhiên. Nghi lễ tôn giáo thực hiện chức năng duy trì niềm tin vào thế giới hư
9
cấu ấy. Thậm chí vào những thời điểm khủng hoảng trong cuộc sống, tôn giáo
còn giúp con người lấy lại cân bằng [28,tr.20-23].
Các tác giả của thuyết chức năng đều nhấn mạnh tính liên kết chặt chẽ
của các bộ phận cấu thành nên một chỉnh thể mà từng bộ phận có chức năng
nhất định, góp phần đảm bảo sự tồn tại của chỉnh thể đó với tư cách là một
cấu trúc tương đối ổn định, bền vững.
Vận dụng quan điểm lý thuyết này vào nghiên cứu sự tồn tại của Phật
giáo trong xã hội chứng tỏ nó có vai trò và chức năng nhất định. Vì Phật giáo
góp phần duy trì sự thống nhất đạo đức trong xã hội, tạo ra sự gắn kết xã hội
giữa cá nhân dựa trên nền tảng niềm tin và thực hành niềm tin vào Tam tạng
Thánh điển Phật giáo, củng cố niềm tin và tăng cường gắn bó, quyết tâm của
các cá nhân trong xã hội.
Trong các hoạt động của Phật giáo như: hoằng pháp, từ thiện... mỗi một
hoạt động an sinh xã hội đều có vai trò quan trọng để góp phần vào việc duy
trì những giá trị tinh hoa của Phật giáo và đưa Phật giáo trở nên thiết thực với
sự phát triển của xã hội.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn áp dụng phương pháp liên ngành,
khảo sát định lượng, định tính và quan sát tham dự cụ thể.
Phương pháp khảo sát định lượng, định tính: Bảng hỏi gồm 19 câu
được thực hiện với số lượng 300 người, định lượng khảo sát hành vi dành cho
giới tín đồ Phật giáo trong nhận thức về thực tế hoạt động an sinh xã hội của
Phật giáo trên địa bàn tỉnh Bến Tre. Mẫu khảo sát được thu thập một cách
ngẫu nhiên, cách thức lấy mẫu tại những ngôi chùa khi những tín đồ đến chùa
tham dự các sinh hoạt Phật giáo.
Ngoài các phương pháp nêu trên luận văn còn sử dụng các phương pháp
như quan sát tham dự, việc thực hiện phương pháp này giúp cho tác giả thâm
nhập, trải nghiệm cuộc sống cùng với đối tượng nghiên cứu. Điều này đã mang
10
lại những kiến thức thực tiễn để luận giải các vấn đề đang nghiên cứu.
7. Bố cục Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
được chia thành 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý thuyết và thực tiễn về hoạt động an sinh xã hội của
Giáo hội Phật giáo.
Chương 2: Thực trạng hoạt động an sinh xã hội của Giáo hội Phật giáo
Việt Nam tỉnh Bến Tre giai đoạn 2012 - 2017.
Chương 3: Định hướng, kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động an sinh xã hội của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bến Tre hiện nay.
11
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG
AN SINH XÃ HỘI CỦA PHẬT GIÁO
1.1. Cơ sở lý thuyết
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Từ thiện xã hội
Lòng vị tha, yêu sự sống là tinh thần cao đẹp nhất mà hầu hết các tôn
giáo thường đề cập trong giáo điển của mình. Tinh thần vị tha theo đạo Phật
không dừng lại ở mức độ yêu thương con người mà mở rộng đến tất cả muôn
loài. Đạo Phật thường được gọi là “Đạo từ bi”, bởi lẽ giáo lý và hành động
thiết thực của nó mang đến sự an vui, an ổn cho hết thảy chúng sinh. Đạo Phật
lấy cuộc đời làm tâm điểm để tu tập và thăng hoa tâm linh. Giáo lý Từ bi bắt
mạch từ chính cuộc sống, nó được khai triển trong nhiều khía cạnh khác nhau
để cho con người có cái nhìn toàn bộ hơn và thương mến cuộc sống này hơn.
Theo nghĩa thông thường, Từ là hiền; Bi là thương xót. Từ tiếng Anh/
Pháp: Compassion, gốc từ tiếng Latin: Compassionem. Com: đến với,
passion: sự đau khổ; cảm thông sâu sắc, buồn thương những người rủi ro và
mong muốn làm dịu bớt nỗi khổ của họ.
Kinh Từ bi (Mette Sutra) và kinh Tập (Nipata Sutra) đều có bài kệ nói
về lòng từ vô lượng của một đệ tử của Đức Phật: “Mong sao tất cả chúng sinh
đều thấy an lạc! - Mong sao tất cả chúng sinh đều đạt niềm vui tự nội!”. Từ bi
là sự hiền hòa, thông cảm, là sự thôi thúc giúp đỡ người đang gặp khó khăn,
khổ cực. Lòng từ bi khiến xã hội trở nên thiện lành, an vui, bớt dần những
cảnh khổ, những chênh lệch về giàu nghèo, khác biệt về hoàn cảnh, là sự thôi
thúc làm việc thiện.
Thiện là điều tốt. Từ thiện theo nghĩa thông thường là lòng thương yêu,
muốn làm điều tốt cho người khác.
12
Từ thiện được chuyển theo nghĩa là sự giúp đỡ những người có hoàn
cảnh khó khăn, thường được hiểu là một hệ thống biếu tặng tiền bạc, thức ăn,
giúp đỡ những người đang cần giúp đỡ vì họ đang bệnh hoạn, nghèo khổ,
không nơi nương tựa… Trong ý nghĩa này, từ thiện là sự thể hiện của Từ bi.
Từ bi không chỉ có nghĩa là thương yêu chúng sinh mà còn có nghĩa là thể
hiện lòng thương yêu ấy bằng hành động, bằng việc làm cụ thể, tức là từ
thiện. Vậy từ thiện hay Thiện tâm xuất phát từ Từ bi, là tướng của cái thể Từ
bi; trong ý nghĩa sâu xa là Thiện tâm.
Hoạt động từ thiện xã hội góp phần tạo được hình ảnh Từ bi của Phật
giáo trong xã hội. Tinh thần từ bi cứu khổ của đức Phật được cụ thể hóa bằng
việc làm thiết thực như cứu trợ đồng bào bão lụt, bảo trợ bệnh nhân nghèo,
nuôi dưỡng người già, chăm sóc trẻ mồ côi, tặng học bổng cho học sinh
nghèo hiếu học, tặng nhà tình nghĩa, mở lớp học tình thương, tham gia
chương trình an sinh xã hội, góp phần đem lại lợi ích thiết thực cho các đối
tượng cần được quan tâm giúp đỡ trên phương diện vật chất và tinh thần.
Từ thiện xã hội là một hình thức, một đóng góp cho chính sách an sinh
xã hội.
1.1.1.2. An sinh xã hội
An sinh xã hội là một hệ thống bảo đảm mức độ hài lòng của xã hội.
Năm 1850, sau cuộc cách mạng công nghiệp làm cho đời sống của
công nhân gặp rất nhiều khó khăn nhất là khi ốm đau, bị mất việc hay tuổi
già, lần đầu tiên ở Đức, nhiều Bang đã thành lập quỹ ốm đau và yêu cầu công
nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh tật.
Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Đến cuối những năm
1880, an sinh xã hội đã có sự đóng góp bắt buộc của giới chủ và Nhà nước.
Mô hình này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ
Latinh, rồi đến Bắc Mỹ vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế
13
giới thứ hai, an sinh xã hội đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở
nhiều nơi trên thế giới.
Năm 1935 đạo luật đầu tiên về an sinh xã hội (Social Security) xuất hiện
ở Mỹ. Thuật ngữ an sinh xã hội được chính thức sử dụng. Đến năm 1941, trong
Hiến chương Đại Tây Dương và sau đó Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) chính
thức dùng thuật ngữ này trong các công ước quốc tế. An sinh xã hội đã được tất
cả các nước thừa nhận là một trong những quyền con người.
Nội dung của an sinh xã hội đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân
quyền do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948. Trong bản
Tuyên ngôn có viết: "Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có
quyền hưởng an sinh xã hội. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về
kinh tế, xã hội và văn hóa cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người...".
Theo Liên hiệp quốc, an sinh xã hội tiếp cận trên quyền của người dân
(Điều 25, Hiến chương Liên hiệp quốc năm 1948): “…Mọi người dân và hộ
gia đình đều có quyền có một mức tối thiểu về sức khỏe và các phúc lợi xã
hội bao gồm ăn, mặc, chăm sóc y tế (bao gồm cả thai sản), dịch vụ xã hội
thiết yếu và có quyền được an sinh khi có các biến cố về việc làm, ốm đau,
tàn tật, góa phụ, tuổi già… hoặc các trường hợp bất khả kháng khác…”.
Theo Ngân hàng thế giới (WB) “An sinh xã hội là những biện pháp
của chính phủ nhằm giúp cho các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng đương
đầu và kiềm chế được nguy cơ tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị
tổn thương và những bấp bênh thu nhập”.
Ở Việt Nam, thuật ngữ an sinh xã hội được tiếp cận dưới nhiều tên gọi
khác nhau như: bảo trợ xã hội, bảo tồn xã hội, bảo đảm xã hội, trật tự an toàn
xã hội. Có quan điểm cho rằng an sinh xã hội trước hết là sự bảo vệ của xã hội
đối với các thành viên của mình nhờ một loạt các biện pháp công cộng nhằm
giúp đỡ chống lại sự thiếu hụt về kinh tế mà họ có thể gặp phải do mất đi hoặc
14
bị giảm quá nhiều nguồn thu nhập bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. An sinh
xã hội còn thể hiện sự giúp đỡ, chăm sóc về văn hoá, y tế và trợ giúp cho các
gia đình góp phần ổn định và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Có thể nói, khái niệm an sinh xã hội hiểu một cách chung nhất đó là sự
bù đắp một phần thu nhập cho người lao động và gia đình khi họ bị ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất hoặc có những sự
kiện pháp lý khác, cho người có công với cách mạng; cho những người già cô
đơn không nơi nương tựa, cho trẻ em mồ côi, cho người tàn tật, cho những
người gặp hoàn cảnh khó khăn, gặp thiên tai, dịch bệnh và cho những người
nghèo đói trong xã hội.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về an sinh xã hội. Trong luận văn này,
chúng tôi sử dụng khái niệm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO): “An sinh xã
hội là một sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua
một số biện pháp được áp dụng rộng rãi để đương đầu với những khó khăn, các
cú sốc về kinh tế và xã hội làm mất hoặc suy giảm nghiêm trọng thu nhập do ốm
đau, thai sản, thương tật do lao động, mất sức lao động hoặc tử vong. Cung cấp
chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình nạn nhân có trẻ em” [44, tr.9]
An sinh xã hội gồm: Bảo hiểm xã hội, các dịch vụ do chính phủ cung cấp,
các an sinh cơ bản như thực phẩm, quần áo, nhà ở, giáo dục, tiền bạc, chăm sóc
y tế. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Việt Nam quản lý nhà nước về các
lĩnh vực việc làm, dạy nghề, lao động, tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội, an
toàn lao động, chăm sóc trẻ em, bình đẳng giới chống tệ nạn xã hội.
Hầu hết các tôn giáo, các tổ chức nhân đạo, các công ty, doanh nghiệp
đều tham gia hoạt động từ thiện, góp phần an sinh xã hội. Ví dụ: An sinh xã
hội tại Úc, Pháp, Hoa Kỳ, Thụy Điển, Phần Lan… Phúc lợi xã hội tại New
Zealand. Công giáo có tổ chức Từ thiện Caritas, Islam giáo Caliphate dưới
hình thức Zakat (Từ thiện) nhằm cung cấp các thứ cần thiết cho người nghèo,
- Xem thêm -