Lời mở đầu
Tự do hoá thương mại đã kích thích sự phát triển thương mại
quốc tế, tạo ra môi trường kinh doanh toàn cầu, làm cho người tiêu
dùng ở bất cứ đâu cũng có thể lựa chọn được hàng hóa và dịch vụ theo
khả năng và nhu cầu.
Các doanh nghiệp ngày nay tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc
đáp ứng nhu cầu của khách hàng quốc tế và phục vụ con người ở mọi
nơi trên hành tinh này. Nhưng mặt trái của nó cũng không kém phần
nghiệt ngã, kể cả sự lừa đảo. Để giảm thiểu những rủi ro và quản lý
được chúng, đảm bảo độ an toàn cao khoản lợi nhuận mà mình theo
đuổi, đòi hỏi các doanh nghiệp tham gia kinh doanh quốc tế phải hoàn
thiện hơn nữa năng lực kinh doanh, ngoài những năng lực về quản trị,
còn phải hoàn thiện các kỹ thuật nghiệp vụ thương mại quốc tế, đặc
biệt là hoàn thiện công tác ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán
ngoại thương. Nó đòi hỏi các nhà kinh doanh phải có đầy đủ những
hiểu biết về chính trị, xã hội, luật pháp ở phạm vi toàn cầu.
Ngày nay cùng với sự hỗ trợ của khoa học, kỹ thuật đã tạo nhiều
thuận lợi hơn cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán ngoại
thương. Các phương tiện thông tin liên lạc, Internet giúp cho việc giao
dich ngoại thương được nhanh chóng hơn. Thế nhưng không vì thế mà
vai trò lịch sử của hợp đồng bị lu mờ, nó vẫn là cơ sở pháp lý cho mọi
cuộc giao dịch ngoại thương trên thế giới và là công cụ đảm bảo an
toàn trong kinh doanh của các doanh nghiệp.
Hoàn thiện hơn nữa việc ký kết và thực hiện hợp đồng là một đòi
hỏi mang tính cấp bách và cần thiết đối với các doanh nghiệp ngoại
thương của Việt Nam hiện nay. Khi mà trình độ, kinh nghiệm của các
cán bộ nghiệp vụ ngoại thương của ta còn yếu kém, số vụ lừa đảo,
tranh chấp có liên quan đến hợp đồng mua bán ngoại thương còn phổ
biến, gây thiệt hại nhiều cho phía Việt Nam. Đi sâu vào nghiên cứu
công tác ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương nhằm
giúp cho cán bộ nghiệp vụ xuất nhập khẩu có được một cái nhìn toàn
diện hơn trong trình ký kết, thực hiện hợp đồng sao cho đạt hiệu quả
cao nhất.
Xuất phát từ những suy nghĩ đó, cùng với sự giúp đỡ của thầy cô
giáo, trong thời gian thực tập tại công ty dược phẩm Trung ương I, tôi
đã chọn đề tài: “Hoàn thiện việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập
khẩu tại công ty Dược phẩm Trung ương I,, làm đề tài luận văn tốt
nghiệp.
Nội dung luận văn được chia làm ba phần:
Phần I: Hợp đồng mua bán ngoại thương - những lý luận cơ
bản.
Phần II: Thực trạng hoạt động ký kết và thực hiện hợp đồng
nhập khẩu tại công ty Dược phẩm Trung ương I.
Phần III: Giải pháp và những kiến nghị nhằm hoàn thiện
công tác ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu của công ty Dược
phẩm trung ương I.
Trong qúa trình nghiên cứu đề tài này không tránh khỏi những
thiếu sót, mong thầy cô giáo và bạn đọc thông cảm và đóng góp ý kiến
để hoàn thiện hơn. Đề tài này được sự giúp đỡ của cô giáo Lê Thị
Thuần và các cán bộ, nhân viên công ty Dược phẩm Trung ương I, đặc
biệt là phòng xuất nhập khẩu.
Phần I
Hợp đồng mua bán ngoại thương những lý luận cơ bản
I Khái niệm chung về hợp đồng mua bán ngoại thương
1. Khái niệm
Hợp đồng mua bán ngoại thương ra đời cùng với sự hình thành
và phát triển của thương mại quốc tế. Bản chất cuả nó là hợp đồng
mua bán nói chung, nhưng được diễn ra trên một phạm vi địa lý rộng
lớn
Để đưa ra một hợp đồng mua bán ngoại thương trước hết ta cần
đưa ra một số khái niệm sau :
Mua bán hàng hoá là hành vi thương mại, theo đó người bán có
nghĩa vụ giao hàng , chuyển quyền sở hữu cho người mua và nhận
tiền,người mua có nghiã vụ trả tiền và nhận hàng theo thoả thận của
hai bên, cơ sở của việc mua bán hàng hoá đó là hợp đồng mua bán
hàng hoá
-Khi hợp đồng mua bán hàng hoá diễn ra trong phạm vi quốc gia, các
bên tham gia có trụ sở thương mại ở cùng quốc gia và có cùng quốc
tịch thì được gọi là hợp đồng mua bán trong nước.
-Cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế, quan hệ mua bán
vượt ra ngoài danh giới một quốc gia, nó làm phát sinh hợp đồng mua
bán ngoại thương.
Vậy hợp đồng mua bán ngoại thương trước hết là một hợp
đồng mua bán hàng hoá có nhân tố nước ngoài.
Theo công ước Viên1980 thi hợp đồng mua bán ngoại thương còn gọi
là hợp đồng xuất nhập khẩu, hợp đồng mua bán quốc tế là sự thoả
thuận giữa các đương sự có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau,
theo đó một bên gọi là bên xuất khẩu ( bên bán) có nghĩa vụ chuyển
vào quyền sở hữu của một bên khác gọi là bên nhập khẩu ( bên mua ).
Một tài sản nhất định, gọi là hàng hoá; bên nhập khẩu có nghĩa vụ
nhận hàng và trả tiền .
Như vậy có thể hiểu hợp đồng mua bán ngoại thương là sự thống
nhất về ý trí giữa các bên trong quan hệ mua bán hàng hoá có nhân tố
nước ngoài mà thông qua đó , thiết lập thay đổi hoặc chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên với nhau.
Như vậy, một hợp đồng ra đời với nhiều tên gọi như hợp đồng
mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài, hợp đồng mua bán
ngoại thương hợp đồng mua bán quốt tế hay hợp đồng xuất nhập khẩu.
Song dù được gọi theo cách nào thì một hợp đồng sau khi được ký kết
hợp pháp sẽ có hiệu lực bắt buộc đối với các bên. Nói cách khác, cá
bên phải thực hiện mọi cam kết để thực hiện trong hợp đồng. Nếu bên
nào không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, không đúng thì sẽ
phải gánh chịu hậu quả pháp lý theo quy định của pháp luật. Nhà nước
sẽ bảo hộ các quyền lợi hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng.
Theo nghĩa như vậy, hợp đồng vừa có thể coi như “luật “ đối với các
bên tham gia hợp đồng, vừa là cơ sở pháp lý để tổ chức các quan hệ
trao đổi hàng hoá trong nền kinh tế thị trường.
2. Phân loại hợp đồng ngoại thương .
Hợp đồng mua bán ngoại thương được phân làm hai loaị là hợp
đồng xuất khẩu và hợp đồng nhập khẩu.
2.1 Hợp đồng xuất khẩu .
* Loại hợp đồng này có thể là hợp đồng một chiều hoặc hai chiều
Hợp đồng một chiều là hợp đồng mà doanh nghiệp ngoại thương
chỉ có mua và trả tiền.
Hợp đồng hai chiều là hợp đồng mà doanh nghiêp ngoại thương
vưà mua, vừa kèm theo bán hàng, hay còn gọi là hợp đồng mua bán
đối ứng.
* Phânloại:
- Hợp đồng xuất khẩu trực tiếp doanh nghiệp ngoại thương sẽ trực kết
ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài ,tự tổ chức thu gom nguồn
hàng để xuất khẩu chịu mọi chi phí và với danh nghĩa của chính
mình.
- Hợp đồng uỷ thác xuất khẩu : theo hợp đồng này các đơn vị uỷ thác
cho đơn vị ngoại thương xuất khẩu hàng hoá nhất định, với danh
nghĩa của doanh nghiệp ngoại thương nhưng chi phí là của nhà sản
xuất.
- Hợp đồng gia công hàng xuất khẩu : doanh nghiệp ngoại thương
giao nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm cho các đơn vị nhận gia
công nước ngoài, và thoả thuận với họ về sản xuất gia công chế biến
thành phẩm theo những yêu cầu như: kỹ thuật, mẫu mã, kích cỡ ,
chất lượng được quy định trước. Sau khi doanh nghiệp ngoại
thương nhận hàng để xuất khẩu thì phải trả tiền cho đơn vị nhận gia
công nước ngoài.
- Hợp đồng liên kết xuất khẩu: Doanh nghiệp ngoại thương và một
doanh nghiệp nước ngoài cùng bỏ vốn cùng các nguồn lực khác , cùng
chịu những phí tổn và rủi ro để sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu .
2.2 Hợp đồng nhập khẩu.
Được phân làm hai loại sau:
- Hợp đồng nhập khẩu trực tiếp : theo hợp đồng này doanh nghiệp
kinh doanh xuất nhập khẩu đứng ra ký kết hợp đồng nhập khẩu một
loại hàng hoá nhất định nào đó , để đáp ứng nhu cầu kinh doanh sản
xuất của doanh nghiệp đó . Mọi chi phí do doanh nghiệp chịu.
- Hợp đồng nhập khâủ uỷ thác doanh nghiệp ngoại thương dưới danh
nghĩa của mình ký kết hợp đồng nhập khẩu với nhà cung cấp nước
ngoài mua một hoặc một số hàng hoá nhất định những hàng hoá này
không phải nhập về để sản xuất kinh doanh cho công ty, mà là cho một
đơn vị đặt hàng nào khác nhờ nhập khẩu hộ chi phí cho quá trình nhập
khẩu này sẽ do bên đặt uỷ thác chịu, đơn vị nhập khẩu chỉ nhận được
thù lao gọi là hoa hồng do bên đặt uỷ thác trả.
3.Tính chất ,đặc điểm và nội dung hợp đồng mua bán ngoại
thương.
3.1 Tính chất.
Khác với hợp đồng mua bán trong nước, hợp đồng mua bán
ngoại thương có tính chất quốc tế. Tuy nhiên, tính chất này lại được
luật pháp các nước cũng như các điều ước quốc tế quy định một cách
khác nhau .
Theo công ước Lahaye 1964 về mua bán quốc tế động sản hữu
hình thì hợp đồng ngọai thương được ký kết giữa các bên có trụ sở
thương mại ở các nước khác, và hàng hoá được chuyển từ nước này
sang nước khác hoặc là việc trao đổi ý trí để ký kết hợp đông giữa các
bên được lập ở giữa các nước khác nhau.
Như vậy,tính quốc tế của công ước này được thể hiện là :
- Chủ thể thâm gia ký kết hợp đồng là các bên có trụ sở thương mại ở
các nước khác nhau vấn đề quốc tịch của chủ thể không được công
ước đề cập và không coi là yếu tố xác định tính quốc tế của hợp
đồng .
- -Đối tượng của hợp đồng là hàng hoá được di chuyển từ nước này
qua nước khác.
- Chào hàng và chấp nhận chào hàng có thể lập ở các nước khác nhau
theo công ước Viên 1980; điều1 quy định “hợp đồng mua bán ngoại
thương là các bên ký kết hợp đồng có trụ sở thương mại ở các nước
khác nhau”.
4Như vậy công ước Viên đã đơn giản hoá những yếu tố quốc tế của
hợp đồng mua bán ngoại thương, ngoại trừ những điểm bất đồng trong
luật quốc gia các nước làm giảm bớt các khó khăn trở ngại trong đàm
phán ký kết hợp đồng Việc có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau
dẫn đến có thể áp dụng nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, nhưng
trong trường hợp căn cứ vào quốc tịch thì nếu hai chủ thể có quốc tịch
khác nhau lại có trụ sở thương mại trên cùng lãnh thổ một quốc gia thì
việc giải thích yếu tố quốc tế này của hợp đồng ngoại thương là bế tắc.
Do vậy, quan điểm về tính quốc tế của hợp đồng mua bán ngoại
thương trong công ước Viên 1980 mang tính bao quát chung và phù
hợp với thực tế hiện nay .
Theo quan điểm của Việt nam, điều 80 luật thương mại “ hợp
đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài là hợp đồng mua
bán được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam và một bên là
thương nhân nước ngoài “ .
Tại điều 5 khoản 6 cũng quy định : thương nhân được hiểu là các
cá nhân ,pháp nhân, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động
thương mại một cách độc lập và thường xuyên “
Như vậy để xác định là một hợp đồng mua bán ngoại thương thì
chỉ có một quy định là hợp đồng được ký kết với thương nhân nước
ngoài . Vấn đề đặt ra là phải xác định thương nhân nước ngoài như thế
nào ? theo điều 81 khoản 1 (luật thương mại ):chủ thể nước ngoài là
thương nhân và có tư cách pháp lý được xác định theo căn cứ pháp luật
mà thương nhân đó mang quốc tịch.
3.2 Đặc điểm của hợp đồng mua bán ngoại thương.
Có ba đặc điểm cơ bản của hợp đồng mua bán ngoại thương là:
*Về chủ thể: chủ thể của các hợp đồng mua bán ngoại thương là
các thương nhân ở các quốc gia có trụ sở thương mại ở các nước khác
nhau .Chủ thể về phía Việt nam của hợp đồng mua bán ngoại thương
là các doanh nghiêp có giấy phép kinh doanh do bộ thương mại cấp.
*Đối tượng của hợp đồng : hàng hoá đối tượng cuả hợp đồng xuất
nhập khẩu hàng hoá không thuộc danh mục hàng cấm nhập khẩu của
chính phủ , nếu hàng hoá thuộc danh mục quản lý bằng hạn ngạch của
chính phủ thì phải có phiếu hạn ngạch trừ những mặt hàng bị cấm nhập
theo quy định của chính phủ.
*Hình thức của hợp đồng: theo luật Việt Nam, hợp đồng mua bán
ngoại thương phải được lập bằng văn bản mới có hiệu lực: thư từ, điện
tín cũng được coi là văn bản mọi hình thức thoả thuận bằng miệng đều
không có giá trị, mọi sửa đổi bổ xung cũng phải được làm bằng văn
bản .
Đặc điểm (2)có thể có mà cũng có thể không : ví dụ hợp đồng mua
bán ký kết giữa một doanh nghiệp trong khu chế xuất với một
doanh nghiệp ngoài khu chế xuất, được luật pháp coi là hợp đồng
mua bán ngoại thương hàng hoá thộc hợp đồng đó không duy
chuyển ra khỏi biên giới quốc gia .
Đặc điểm (3) cũng không phải là điểm tất yếu : ví dụ một doanh
nghiệp Việt Nam mua hàng hoá của một doanh nghiệp Nhật Bản,
tiền hàng thanh toán bằng đồng yên, đồng tiền này là ngoại tệ với
Việt Nam nhưng không phải là ngoại tệ đối với Nhật Bản .
Vì vậy đặc trưng cơ bản nhất của yếu tố quốc tế ở đây là các bên có
trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau .
3.3 Nội dung chủ yếu của hợp đồng mua bán ngoại thương .
Tuỳ thuộc vào tính chất, đặc điểm của hàng hoá , Hoặc tùy thuộc
vào tập quán buôn bán giữa các bên, mà nội dung của hợp đồng có thể
khác nhau. Có những hợp đồng đưa ra rất nhiều những điều khoản,
điều kiện hết sức chặt chẽ và chi tiết, nhưng có những hợp đồng lại chỉ
đưa ra những điều khoản cơ bản nhất và hết sức đơn giản . Nhưng
thông thường một hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thường gồm hai
phần là: những điều trình bầy (representations) và các điều khoản, điều
kiện (terms and conditions).
Trong những phần trình bầy người ta ghi:
(1)số hợp đồng (contract no)
(2) địa điểm và ngày tháng ký hợp đồng
(3)tên và địa chỉ của các đương sự
(4)những định nghĩa dùng trong hợp đồng
(5) cơ sở pháp lý để ký kết hợp đồng (đây có thể là hiệp định
chính phủ, nghị định thư, chí ít người ta cũng đưa ra sự tự
nguyện của hai bên khi tham gia kí kết hợp đồng )
Ví dụ: buyer agrees to buy and the seller agrees to sell the following
commodity under the term and conditions stipulated below :
* Trong phần các điều khoản và điều kiện của hợp đồng bao gồm ba
loại điều khoản: điều khoản thường lệ, điều khoản chủ yếu và điều
khoản tuỳ nghi.
- Điều khoản thường lệ : là những điều khoản mà nội dung của nó đã
được ghi trong luật, các bên có thể đưa vào trong hợp đồng hay
không nhưng mặc nhiên phải chấp nhận .
- Điều khoản tuỳ nghi là những điều khoản mà các bên đưa vào hợp
đồng, có căn cứ vào sự thoả thuận giữa các bên và trên cở sở khả
năng nhu câù của mỗi bên .
- Điều khoản chủ yếu là những điều khoản bắt buộc phải có trong
hợp đồng . Đối với hợp đồng mua bán ngoại thương điều khoản này
gồm có :
I) Điều khoản về tên hàng :
Xuất phát từ hợp đồng mua bán có nhân tố nước ngoài, nên tên
gọi hàng hoá rất đa dạng, nó tuỳ thuộc vào ngôn ngữ và thói quen.
Trong thực tiễn ký kết hợp đồng cần phải đưa vào tên hàng về mô tả
hàng hoá như ghi tên thương mại, tên khoa học,và tên thông dụng của
hàng hoá sản xuất , kèm theo địa điểm sản xuất, tên hãng sản xuất hoặc
kèm theo công dụng của chúng
Ví dụ như than Quảng Ninh, ti vi màu Daewoo, thuốc tiffy trị cảm
cúm....
II) Điêù khoản về số lượng:
Điều khoản về số lượng cần ghi chính xác số lượng hàng hoá , hoặc
có thể ghi số lượng hàng hoá kèm dung sai. Do tính chất phức tạp của
hệ thống đo lường được áp dụng trong thương mại quốc tế , các bên ký
kết cần phải thoả thuận chọn và áp dụng tên những đơn vị phổ biến và
dễ hiểu để tránh những hiểu lầm đáng tiếc xẩy ra trong giao dịch của
mình .
Đối với đơn vị dùng tính số lượng thì tuỳ vào từng loại sản phẩm và
tuỳ thuộc vào tập quán khác nhau ,ví dụ đối với sản phẩm đơn vị dùng
để tính là viên , vỉ , lọ hộp , chai, mét tấn ...
Phương pháp quy định trọng lượng gồm: trọng lượng cả bì ,trọng
lượng tịnh , trọng lượng thương mại và trọng lượng lý thuyết .
III) Điều khoản về quy cách phẩm chất .
Các bên quan hệ của hợp đồng có thể thoả thuận lựa chọn việc xác
định quy cách phẩm chất của hàng hoá theo một trong các cách thức
sau đây :
- Mua bán hàng hoá theo phẩm cấp hoặc tiêu chuẩn ví dụ ISO 9000
TCVN ... là cơ sở để xác định hàng hoá chất lượng .
- Mua bán hàng hoá theo catalogue do đặc thù cuả loại hàng hoá mà
các bên có thể trọn cách thức mua bán theo catalog , và catalog này
được giữa làm cơ sở để so sánh với chất lượng hàng hoá được giao.
- Mua bán hàng hoá theo mẫu người bán phải có nghĩa vụ giao hàng
cho người mua theo đúng mẫu. Mẫu hàng hoá sẽ là cơ sở để làm đối
chứng với hàng hoá được giao , nếu các bên thoả thuận áp dụng
cách thức này thì mẫu sẽ phải bảo quản lưu giữ theo nguyên tắc
chọn 3 mẫu như nhau cho bên bán, bên mua và bên thứ 3 cất giữ ,
tất cả các mẫu hàng đó đều phải có xác nhận của các bên, được
niêm phong và bảo quản đúng yêu câù kỹ thuật đối với mẫu.
IV)Điều khoản giá cả
Các bên có thể xác định cụ thể trong hợp đồng giá cả của hàng
hoá hoặc quy định cách xác định giá cả . Giá cả trong hợp đồng phải
được biểu thị rõ về đơn giá ,tổng giá , đồng tiền tính giá và đồng tiền
thanh toán, điều khoản bảo lưu về giá cả đề phòng rủi ro tăng gía kể từ
khi hợp đồng được xác lập cho đến khi các bên thực hiện hợp đồng.
+Về đồng tiền tính giá : giá cả trong buôn bán quốc tế có thể được thể
hiện bằng đồng tiền của bên xuất khẩu , nước nhập khẩu hoặc nước
thứ 3 .
+Mức giá giá cả trong hợp đồng mua bán ngoại thương là giá quốc tế
việc xuất khẩu thấp hơn giá quốc tế và nhập khẩu cao hơn giá quốc tế
làm tổn hại đến doanh nghiệp và lơi ích quốc gia. Vì vậy trước khi ký
kết hợp đồng các bên phải xác định theo các nguyên tắc định giá quốc
tế.
+ Khi giá quốc tế là giá CIF, nhưng hai bên lại mua bán theo giá
FOB người ta quy dẫn như sau;
FOB= CIF -I - F = CIF -R. CIF (1+ N) - F
I; là bảo hiểm
F; là cước phí vận tải
R; là suất phí bảo hiểm
N; là % lãi dự tính
+ Khi giá quốc tế là giá FOB, quy dẫn về giá CIF như sau;
CIF = C +I + R = C +R. CIF. (1+N ) +F
CIF - R. CIF (1+N) = C + F
CIF = C+F/ (1- R(1+N))
C ; là giá vốn hàng hoá
Có 4 phương pháp quy định giá như sau:
(1)giá cố định fixed prices ; giá cả được ký kết vào lúc ký kết hợp
đồng và không được sửa đổi nếu không có sự thoả thuận khác
(2)giá quy định sau ; giá cả không được quy định ngay sau khi ký kết
hợp đồng mua bán mà được xác định trong quá trình thực hiện hợp
đồng
(3)giá cả được xét lại ( revisabale prices) ; giá đã được xác định trong
lúc ký kết hợp đồng, nhưng có thể được xem xét lại nếu sau naỳ
vào lúc giao hàng giá cả của hàng hoá đó giao động tới một mức
nhất định
(4)Giá di động ( sliding scale prices ) ; là giá cả được tính toán dứt
khoát vào lúc thực hiện hợp đồng trên cơ sở giá cả quy định ban
đầucó đề cập đến những biến động về chi phisanr xuất trong thời kỳ
thực hiện hợp đồng
V) Điều khoản về thanh toán
Đây là điều khoản cơ bản mà bất kỳ hợp đồng mua bán nào cũng
đều phải có, nó thường tiêu tốn mất nhiều thời gian công sức của các
nhà thương lượng đàm phán và thường gây ra nhưỡng vấn đề về tranh
chấp giữa các bên.
Trong điều khoản này cần phải nêu được 3 nội dung sau ;
* Đồng tiền thanh toán ; có thể là của bên xuất khẩu, bên nhập khẩu,
hoặc nước thứ 3 . Đồng tiền thanh toán có thể không trùng với đồng
tiền tính giá và lúc đó phải quy định mức tỷ giá thay đổi . ví dụ trong
hợp đồng xuất khẩu gaọ cho Nhật Bản giá ghi trong hợp đồng là 2000
yên/ tấn , nhưng trong điều khoản thanh toán hợp đồng lại quy dịnh
trả tiền bằng USD, tỷ gía theo quy định của ngân hàng nhà nước Việt
nam vào thời điểm giao hàng .
* Thời hạn thanh toán; là thời hạn thoả thuận để trả tiền trước, ngay
hoặc sau khi giao hàng
* Phương thức trả tiền : xuất phát từ việc bảo vệ quyền lợi của mình,
các bên có thể sử dụng một trong các phương thức sau ;
- phương thức thanh toán nhờ thu ( collection )
- phương thức trrả tiền mặt (cash payment )
- phương thức chuyển tiền ( TTR , M/T , D/T )
- phương thức tín dụng chứng từ
VI) Điều khoản về giao hàng
Nội dung của điều khoản này bao gồm ; thời hạn giao hàng, thời
hạn giao hàng, địa điểm phương thức và những quy định giao hàng.
* Thời hạn giao hàng là thời hạn mà bên bán phải hoàn thành nghĩa
vụ giao hàng cho bên mua . Nếu các bên không có thoả thuận gì thì
thời hạn này cũng là lúc di chuyển rủi ro và tổn thất ( nếu có) của hàng
hoá từ người bán sang người mua.
* Điạ điểm gao hàng: Địa điểm này luôn gắn chặt với phương thức
chuyên trở hàng hoá và điều kiện cơ sở giao hàng ( được qui định
trong Intercoms 90), ví dụ: Trong hợp đồng qui định CIF Hải Phòng,
điều này cũng đồng nghĩa với việc giao nhận hàng sẽ diễn ra tại cửa
khẩu cảng biển Hải Phòng.
* Phương thức giao hàng: Gồm các bước sau
- Giao hàng sơ bộ: Là bước đầu xem sét, xác định ngay tai địa điểm
sản xuất hoặc nơi gửi hàng, sự phù hợp về chất lượng, số lượng
hàng hoá so với hợp đồng.
- Giao nhận về số lượng chất lượng.
- Giao nhận cuối cùng: Là sự xác nhận rằng người bán đã hoàn thành
nghĩa vụ giao hàng.
Có những qui định thường không được đưa vào nội dung của hợp đồng
nhưng nó đã trở thành điều khoản thông lệ, buộc các bên phải thực
hiện như: Việc thông báo giao hàng, trứơc khi giao hàng, người bán
thông báo là hàng đã sẵn sàng để giao hoặc đã đem ra cảng để giao.
Người mua thông báo cho người bán những điều cần thiết để gửi hàng
hoặc chi tiết của tàu đến nhận hàng. Sau khi giao hàng, người bán vẫn
phaỉ tiếp tục thông báo về tình hình hàng đã giao.
VII). Điều khoản về bao bì, kí mã hiệu:
Điều khoản bao bì bao gồm các vấn đề như: Chất lượng bao bì,
phương pháp cung cấp bao bì và giá cả bao bì nhằm bảo đảm cho lộ
trình vận chuyển và bảo quản hàng, đồng thời nâng cao tín hấp dẫn
cho sản phẩm.
Chất luợng bao bì có qui định chung như: Bao bì cho vận tải
đường biển, đường không, đường sắt và qui định cụ thể về vật liệu,
hình thức, kích thước...
Phương pháp cung cấp bao bì phổ biến mhất hiện nay là: Bên
bán cung cấp bao bì cùng với việc giao hàng cho bên mua, hoặc bên
bán ứng trước bao bì để đóng gói hàng hoá, sau khi nhận hàng bên
mua phải trả lại bao bì (áp dụng với bao bì hàng hoá có gía trị )
Quy định về ký mã hiệu hàng hoá đây là điều khoản nhằm tạo
điều kiện cho việc giao nhận hàng hoá, bốc dỡ hàng hoá được thuận
tiện.
VIII) Các điều khoản khác
Tuỳ vào tập quán, mối quan hệ và đối tượng mua bán mà các bên
có thể thoả thuận đưa thêm vào hợp đồng những điều khoản cần thiết.
Đó là những điều khoản có tính chất thành”luật” và các bên có thể tự
ngầm định với nhau hay cũng có thể là các điều khoản hoàn toàn dựa
trên sự tự nguyện của các bên đưa vào.
Các điều khoản đó có thể là:
- Điều khoản về bảo hành ( việc đưa các điều khoản này vào thường
là trong các hợp đồng mua bán máy móc , thiết bị kỹ thuật )
- điều khoản về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
- điều khoản về khiếu nại và trọng tài do vi phạm hợp đồng
- điều khoản về trường hợp miễn trách
- Điêu kiện có hiệu lực và thời hạn có hiệu lực của hợp đồng
4. Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán ngoại thương .
Hợp đồng mua bán ngoại thương là một hình thức pháp lý của
quan hệ mua bán quốc tế , nó chịu sự điều chỉnh của các nguồn luật
thương mại quốc tế như các điều ước về mua bán hàng hoá quốc tế,
các tập quán quốc tế vế thương mại và luật quốc gia.
4.1 Điều ước quốc tế
Them điều II , pháp lệnh về thự hiện các điều ước quốc tế ngay
24/8/98 thì điều ước quốc tế là thoả thuận bằng văn bản được kí kết
giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với một hoặc nhiều
quốc gia, tổ chức quốc tế hoặc nhiều chủ thể khác của luật quốc tế,
không thuộc vào tên gọi như hiệp ước, công ước , định ước nghị định
thư , công hàm trao đổi ...
Vậy, điều ước quốc tế về thương mại là sự thoả thuận bằng văn
bản giữa các quốc gia ký kết trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, nhằm
ấn định thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ đối với nhau trong
quan hệ thương mại quốc tế .
Xét về chủ thể kí kết, điều ước quốc tế thương mại có thể phân
thành hai loại, điều ước quốc tế song phương và điều ước quốc tế đa
phương trong lĩnh vực mua bán hàng hoá quốc tế , có một số điều ước
tiêu biểu như :
*Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hoá quốc tế: được ký kết
ngày 1/1/1980 công ước Viên là kết quả của việc thống nhất hoá luật
về mua bán hàng hoá quốc tế của Liên hợp quốc, nhằm loại bỏ những
trở ngại do những quy định khác nhau trong hệ thống pháp luật quốc
gia về thủ tục ký kết và thực hiện hợp đồng giữa các bên
*Hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam – EU là hiệp định
thương mại chứa đựng nhiều điều khoản liên qua đến xuất sứ hàng
hoá, điều khoản liên quan đến hạn ngạch hiệp định này trực tiếp điều
chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu hàng dệt may của các doanh nghịêp
nước ta với các thương nhân trong khối EU.
4.2 Tập quán thương mại quốc tế .
Các tập quán được hình thành lâu đời trong các quan hệ thương
mại quốc tế , khi được các chủ thể ký kết hợp đồng mua bán quốc tế
chấp nhận sễ trở thành nguồn luật điều chỉnh đối với các hợp đồng
giữa các chủ thể kinh tế đó với nhau .
Các tập quán thương mại , khi được dẫn chiếu vào hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế , sẽ có hiệu lực bắt buộc áp dụng đối với các chủ
thể kí kết . Một tập quán thông dụng trong buôn bán quốc tế được
Phòng thương mại và công nghiệp quốc tế soạn thảo và ban hành là
Incoterms. Sở dĩ Incoterms được thừa nhận như một nguyên tắc mặc
nhiên phải tuân thủ trong thương maị quốc tế, là do nó giúp người bán
chào giá trong đó có sự phân bổ rõ ràng về chi phí và rủi ro trong
chuyên trở quốc tế giữa người bán và người mua, trách nhiệm bảo
hiểm và thủ tục hải quan cũng được nêu trong Incoterms.
4.3 Tiền lệ án về thương mại
Các quy tắc pháp luật hình thành từ thực tiễn xét xử của tòa án
được gọi là tiền lệ pháp. Tại các nước theo hệ thống luật Anh- Mỹ, các
toà án thường sử dụng một số phán quyết cuả các án lệ, đang có xu
hướng tăng nên tại các nước có hệ thống luật pháp khác nhau .
4.4 Luật quốc gia :
Trong thực tiễn kí kết và thực hiện hợp đồng mua bán ngoại
thương bên cạnh các điều ước quốc tế, tập quán và lệ án, luật quốc gia
có vai trò quan trọng và trong nhiều trường hợp là ngồn luật điều chỉnh
các quan hệ hợp đồng mua bán ngoại thương trong các trường hợp:
- Khi các bên kí kết hợp đông thoả thuận trong điều khoản luật áp
dụng của hợp đồng về việc chọn luật của một bên để điều chỉnh hợp
đồng.
- Khi điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng mua bán ngoại
thương được quy định trong các điều ước quốc tế liên quan, luật quốc
gia đương nhiên trở thành luật áp dụng cho các hợp đồng đó .
Luật quốc gia áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế, thông thường là luật của nước bên bán, có thể là luật của nước thứ
ba,luật nơi ký kết hợp đồng, luật quốc tịch, luật nơi nghĩa vụ của hợp
đồng đựoc thực hiện.
Trong quá trình đàm phán hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế,
điều khoản luật áp dụng thường đựoc ghi một cách rõ ràng trong hợp
đồng để trấnh tình trạng khó xác định luật quốc gia điều chỉnh các
quan hệ hợp đồng.
Việc thoả thuận lựa chọn luật quốc gia áp dụng cho hợp động
mua bán ngoại thương là một vấn đề phức tạp, cho nên các chủ thể kí
kết hợp đồng không những phải thông thạo luật nước mình mà còn
phải tìm hiểu kỹ liật quốc gia mà mình có quan hệ hợp đồng để đảm
bảo quyền lợi của mình tránh được những thiệt thòi do sự thiếu hiểu
biết pháp luật gây ra.
II. Các buớc tiến hành kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khâủ
Dĩ nhiên là không có một khuôn mẫu hay qui trình thống nhất nào
cho việc tiến hành và kí kết và thục hiện hợp đồng. Cách làm cỉa mỗi
doanh nghiệp lại khác nhau, nó tuỳ thuộc vào khả năng và tầm quan
trọng của các công việc đó của doanh nghiệp, cũng không phải vì thế
mà chúng ta xem nhẹ, hoặc không xây dựng nên được cho mình các
bước công việc cần phải làm để tiến tới kí kết hợp đồng nhập khẩu, và
qui trình việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Mặc dù đây chỉ là những
công việc và những bước đi mang tính lý thuyết, nhưng nó là cơ sở
khoa học để từ đó các doamh nghiệp ngoại thương có đươc cái nhìn
tổng thể và lựa chọn cách làm sao có hiêụ quả nhất.
1. Các bước đi để kí kết một hợp đồng nhập khẩu
Nghiên cứu tiếp cận thị
trường
Lập phương án kinh doanh
Thương lượng , đàm phán các
điều khoản giao dịch
Kí kết hợp đồng
1.1Nghiên cứu tiếp cận thị trường
Chúng ta biết rằng, doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa về để phục vụ
nhu cầu sản xuất kinh doanh. Vì thế, nó cần phải có những hiểu biết
nhất định về hàng hoá mà doanh nghiệp kinh doanh, thị trường trong
và ngoài nước.
Doanh nghiệp không thể kinh doanh tốt được, nếu như nó không
có những hiểu biết cần thiết về những mặt hàng mà nó kinh doanh .
Đặc biệt là đối với những doanh nghiệp thường xuyên nhập khẩu một
hoặc một số mặt hàng thì việc nắm vững về hàng hoá không trở thành
một vấn đề khó khăn lắm, nhưng đối với những đơn vị kinh doanh
lần đầu tiên kinh doanh nhập khẩu một mặt hàng mới hoặc nhập khẩu
một mặt hàng có kỹ thuật phức tạp thì việc tìm hiểu về mặt hàng đó là
điều tối quan trọng và cần thiết. Đơn vị kinh doanh phải hiểu rõ giá trị
công dụng, nắm được những đặc tính của nó và những yêu cầu của thị
trường về hàng hoá đó như : quy cách phẩm chất, bao bì, và trang trí
bề ngoài ...
Để chủ động trong việc giao dịch mua bán, tình nắm vững tình
hình sản xuất cuả mặt hàng đó như tình hình thời vụ của nó, khả năng
về nguyên vật liệu, công nghệ sản xuất ...mặt hàng đó hiện đang ở giai
đoạn nào trong chu kì sống sản phẩm .
Nắm vững được thị trường trong và ngoài nước , các vấn đề cần
phải nắm bắt như; điều kiện chính trị luật pháp, thương mại, điều kiện
về thương mại và tài chính, điều kiện vận tải cũng như quan hệ cung
cầu, cạnh tranh giá cả của những mặt hàng có liên quan ở thị trường
nước ngoài . Trên cơ sở giúp doanh nghiệp tránh được những rủi ro
trong kinh doanh và tìm kiếm được nguồn cung ứng an toàn, hiệu quả,
nghiên cứu thị trường nước ngoài không chỉ bó hẹp ở trong một thị
trường mà phải đa dạng hoá thị trường mà ở đó có mặt hàng cần nhập .
Mặt khác, qua việc nghiên cứu thị trường nước ngoài giúp chúng
ta biết được xu thế ảnh hưởng của thị hiếu và nhu câù tiêu dùng đến thị
trường trong nước . Nghiên cứu nhu cầu dung lượng , tập quán thị
hiếu, các kênh phân phối , các đối thủ cạnh tranh, sự biến động của giá
cả ...
1.2Lập phương án kinh doanh .
Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình tiếp cận
nghiên cứu thị trường, đơn vị kinh doanh nhập khẩu lập phương án
kinh doanh . Phương án này là kế hoạch hành động của đơn vị nhằm
đạt đến những mục tiêu xác định trong kinh doanh .
* Nội dung của việc xây dựng phương án kinh doanh gồm :
Đánh giá một cách tổng quát về tình hình thị trưòng,chỉ ra những thuận
lợi và khó khăn trong kinh doanh của doanh nghiệp.
Lựa chọn mặt hàng, thời cơ và phương thưc kinh doanh. Sự lựa
chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích những tình hình
có liên quan.
Đề ra mục tiêu: Những mục tiêu đề ra phải mang tính cụ thể như
doanh số bao nhiêu, giá cả bao nhiêu, lợi nhuận thế nào...
Từ mục tiêu đặt ra, đặt ra những biện pháp để đạt được mục tiêu đó.
Những biện pháp này có thể bao gồm: cải tiến cách làm, cải tiến bao
bì, nhãn mác, giảm chi phí nhập khẩu, đẩy mạnh quảng cáo, mở rộng
mạng lưới phân phối...
Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh
Hiệu quả kinh tế được đánh giá thông qua nhiều chỉ tiêu khác nhau
trong đó chủ yếu là:
Chỉ tiêu tỉ suất ngoại tệ
Chỉ tiêu tỉ suất doanh lợi
Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn
Tóm lại, nội dung của phương án kinh doanh là trên cơ sở đánh
giá tất cả những tiện lợi và khó khăn bên trong và bên ngoài, để từ đó
xây dựng mục tiêu để sao cho kế quả đạt được đối với mỗi phương án
kinh doanh là cao nhất.
1.3Thương lượng đàm phán các điều khoản giao dịch
Sau giai đoạn nghiên cứu, tiếp cận thị trường, lập được phương
án kinh doanh khả thi. Để chuẩn bị giao dịch nhập khẩu , các doanh
nghiệp sẽ tiến hành tiếp xúc với các nhà cung cấp nước ngoài bằng
nhiều biện pháp khác nhau: quảng cáo, thư tín, điện thoại, fax...sự tiếp
xúc này là để các bên thuơng lượng với nhau, thống nhất đưa ra các
điều kiện giao dịch, Quá trình này bao gồm các bước cơ bản sau:
*Hỏi giá ( Inquiry)
Người nhập khẩu sẽ tiến hành lập một thư hỏi giá với nội dung
như: Tên hàng, quy cách, phẩm chất, só lượng, thời gian giao hàng
mong muốn và gửi tới người xuất khẩu đề nghị người xuất khẩu báo
cho mình biết giá cả và các điều kiện để mua hàng.
Hỏi giá không ràng buộc trách nhiệm của nguời hỏi giá. Người
hỏi giá thường hỏi nhiều nơi nhằm nhận được bản chào giá tốt nhất.
Đây là bước đi có tính chủ động của đơn vị nhập khẩu để đi tới kí kết
hợp đồng.
*Phát giá chào hàng(OFFER).
Chào hàng là thông điệp mà người xuất khẩu muốn gửi tới nhà
xuất khẩu để thể hiện ý chí muốn bán hàng của mình . Chào hàng này
cũng có thể là thư hỏi giá của nhà nhập khẩu , cũng có thể là người
xuất khẩu chủ động chào hàng cho một hoặc một số nhà nhập khẩu
nào đó, nội dung của chào hàng nêu rõ: tên hàng, quy cách phẩm chất,
số lượng, giá cả, điều kiện cơ sở giao hàng, thời hạn giao hàng, điều
kiện thanh toán, bao bì ký mã hiệu ...
Chào hàng có hai loại: loại có ràng buộc trách nhiệm của nhà
xuất khẩu (gọi là chào hàng cố định), và loại không ràng buộc trách
nhiệm của nhà xuất khẩu (gọi là chào hàng tự do )
* Đặt hàng (order ).
Bước này diễn ra nếu nhà nhập khẩu đồng ý chấp nhận chào
hàng của nhà xuất khẩu , người nhập khẩu sẽ đưa ra một đặt hàng. Đặt
hàng chính là đưa ra lời đề nghị ký kết hợp đồng. Trong đặt hàng,
người nhập khẩu sẽ nêu cụ thể về hàng hoá định mua và tất cả những
nội dung cần thiết cho việc ký kết hợp đồng.
* Hoàn giá (courter offer)
Trong trường hợp người nhập khẩu không chấp nhận hoàn toàn
chào hàng của nhà xuất khẩu, mà đưa ra một lời đề nghị mới thì đề
nghị mới này là trả giá, khi có sự trả giá, chào hàng trước coi như bị
huỷ .
* Chấp nhận (acceptance)
Đây là sự chấp nhận hoàn toàn tất cả mọi điều kiện của chào hàng mà
người xuất khẩu đưa ra, khi đó hợp đồng coi như được thành lập
1.4Kí kết hợp đồng
Hai bên mua và bán, sau khi đã thống nhất thoả thuận với nhau về
điều kiện giao dịch, có khi ghi lại cẩn thận mọi điều đã thoả thuận gửi
cho đối phương. Đó là văn kiện xác nhận, văn kiện do bên xuất khẩu
gửi thường gọi là giấy xác nhận bán hàng, do bên nhập khẩu gửi là
giấy xác nhận mua hàng. Xác nhận thường được lập thành hai bản, bên
lập xác nhận kí trước rồi gửi cho bên kia, bên kia kí xong giữ lại một
bản gửi trả lại một bản. Việc xác nhận cũng có thể là một văn bản có
xác nhận của hai bên và được gọi là bản hợp đồng .
2. Điều kiện để một bản hợp đồng có tính pháp lí
Để một bản hợp đồng kí kết có tính pháp lí nó phải đảm bảo
được các yếu tố sau:
* Về tư cách chủ thể tham gia kí kết hợp đồng: Chủ thể của hợp đồng
mua bán ngoại thương là thương nhân hoặc pháp nhân có quốc tịch
khác nhau, cho nên khi đàm phán kí kết hợp đồng cần xác định xem
người tham gia kí kết hợp đồng có đủ thẩm quyền hay không , người
đó nhân danh mình hay đại diện cho người khác. Việc xác định tư cách
của bên đương sự tham gia vào quan hệ hợp đồng có giá trị quan trọng
ở chỗ nếu bên đương sự đó có năng lực pháp lí và năng lực hành vi thì
sau khi kí kết hợp đồng mới có giá trị hiệu lực, và khi có sự vi phạm
hợp đồng thì mới đảm bảo được việc khiếu nại và tố tụng.
Có những trường hợp, hợp đồng mua bán ngoại thương đựoc kí
kết thông qua đại lí, cho nên cần xem xét giấy uỷ nhiệm mà người uỷ
nhiệm được cấp có hợp lệ hay không. Mặt khác phải tìm hiểu xem ai là
người trực tiếp hưởng quyền lợi và gánh vác nghĩa vụ hợp đồng để sau
này có thể khiếu nại và kiện tụng kịp thời đến người đó.
* Về điều kiện cơ bản của một hợp đồng mua bán ngoại thương
Trong mua bán quốc tế , có những hợp đồng đã được các bên
đương sự kí kết,nhưng theoluật pháp của nước này hoặc nước khác,
hợp đồng ấy coi như chưa được thành lập vì thiếu những điều khoản
căn bản . Điều khoản căn bản của một hợp đồng là những điều khoản
bắt buộc phải thoả thuận trong hợp đồng , nếu thiếu một trong những
điều khoản đó thì coi như hợp đồng chưa được kí kết. Những điều
khoản cơ bản của hợp đồng mua bán ngoại thương chưa được quy định
thống nhất trong luật pháp của các nước.
Theo pháp luật Việt Nam , điều kiện cơ bản của hợp đồng mua
bán ngoai thương bao gồm 6 điều khoản chính :
(1)điều khoản về tên hàng .
(2)điều khoản về số lượng .
(3)điều khoản về quy cách,phẩm chất.
(4)điều khoẩn về giá cả
(5)điều khoản về giao hàng
(6)điều khoản về thanh toán
Nhìn chung, thì luật ở nước đều thống nhất ở một điểm là hợp đồng
mua bán ngoại thương phải bao gồm các điều kiện cơ bản, nếu thiếu
một trong các điều kiện cơ bản đó thì hợp đồng sẽ không có hiệu lực.
* Hình thức hợp đồng mua bán ngoại thương
Ở các nước khác nhau, quy định khác nhau về hình thức của hợp
đồng mua bán ngoại thương. Có nhiều nước quy định hợp đồng mua
bán ngoại thương có thể được kí kết bằng hình thức văn bản hay bằng
miệng
Theo luật Việt Nam, hợp đồng mua bán ngoại thương phải
được kí kết bằng văn bản mới có giá trị hiệu lực,hình thức của
hợp đồng mua bán ngoại thương có tính chất bắt buộc, không
phụ thuộc vào hình thức, vào việc đàm phán trực tiếp giữa các
bên có mặt hay bằng thư từ ,vào nơi kí kết hợp đồng , vào luật
đem áp dụng cho quan hệ hợp đồng. Do đó hậu quả pháp lí của
việc không tuân thủ hình thức văn bản của hợp đồng thể hiện ở
chỗ là coi như hợp đồng chưa được kí kết .
3. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu
Sau khi hợp đông nhập khẩu đã được kí kết , đơn vị kinh doanh xuất
nhậpkhẩu với tư cách là một bên kí kết hợp đồng, phải tổ chức thực
hiện hợp đồng đó. Đây là một chuỗi các công việc phức tạp và mang
tính tự nguyện cao, nó đò hỏi người làm công tác này phải đầy đủ kĩ
năng nghiệp vụ thương mại quốc tế . Đây cũng là giai đọan phát sinh
những mâu thuẫn và các vấn đề cần giải quyết. Việc thực hiện nó đòi
hỏi phải tuân thủ luật quốc gia và quốc tế, đồng thời phải đảm bảo được
quyền lợi quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh quốc tế của doanh
nghiệp .
Để thực hiện được hợp đồng nhập khẩu các đơn vị kinh doanh
phải tiến hành các công việc sau ,các công việc này được mô hình hoá
theo sơ đồ dưới đây :
Xin giấy phép
Xin giấy phép nhập khẩu
Mở L\C (nếu thanh toán bằngL\C )
Thê tàu hoặc lưu cứơc
Mua bảo hiểm
Làm thủ tục hải quan
Nhận hàng từ tầu trở hàng
Kiểm tra hàng hoá
Giao hàng cho đơn vị đặt hàng
- Xem thêm -