LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra các đường lối phát triển nền kinh tế
với mục tiêu: “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh....”. Hơn 10 năm qua, kể từ năm 1986 đến nay, sự đổi mới
của nền kinh tế nước ta đã đem lại những kết quả ban đầu. Với việc
chuyển đổi sang cơ chế thị trường, nền kinh tế mở cửa đã và đang
từng bước kết nối với nền kinh tế thế giới. Hoạt động xuất nhập
khẩu (XNK) ngày càng giữ một vị trí hết sức quan trọng trong hoạt
động kinh doanh trên phạm vi quốc tế, là lĩnh vực sôi động nhất
trong nền kinh tế hiện nay.
Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa của nền kinh tế, ở Việt
nam hoạt động Xuất nhập khẩu đã thực sự chiếm một vị trí quan
trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế đối ngoại và trở thành nguồn
tích luỹ chủ yếu cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Nhận thức được tầm quan trọng đó Đảng và Nhà nước ta đã
khẳng định: "Không ngừng mở rộng và phân công hợp tác quốc tế
trên lĩnh vực kinh tế, khoa học, kỹ thuật, đẩy mạnh các hoạt động
xuất nhập khẩu", đó là những đòi hỏi khách quan của thời đại.
Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh quốc tế được thực hiện
một cách thuận lợi và an toàn, một nghiệp vụ quan trọng đối với
mọi thương nhân là việc xây dựng các hợp đồng. Như vậy, hợp
đồng là cầu nối giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu trong
hoạt động mua bán hàng hoá và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong cả lợi ích kinh tế lẫn quan hệ ngoại giao đối với những nước
đó. Tuy nhiên, do hạn chế về nhiều mặt việc mua bán thông qua
hợp đồng với bạn hàng quốc tế vẫn còn nhiều mới mẻ, bỡ ngỡ đối
1
với các Doanh nghiệp Việt nam. Thực tế cho thấy, việc thiếu trang
bị những kiến thức pháp lý cần thiết trong hoạt động ký kết và thực
hiện hợp đồng đã mang lại hậu quả khôn lường mà nhiều doanh
nghiệp đã phải gánh chịu: những thiệt hại về tài sản, tiền bạc, sự
mất uy tín trong quan hệ kinh doanh và nhiều thua thiệt khác của
các doanh nghiệp Việt nam. Nguyên nhân có cả khách quan và chủ
quan, nhưng trong đó vẫn chủ yếu vẫn là thiếu kiến thức, kinh
nghiệm và chưa chú trọng đúng mức đến tầm quan trọng của việc
ký kết và thực hiện hợp đồng. Bởi vậy, việc nghiên cứu vấn đề ký
kết và thực hiện hợp đồng đã và đang trở thành vấn đề có tính cấp
thiết cho bất kỳ doanh nghiệp nào khi tham gia vào hoạt dộng kinh
doanh quốc tế đồng thời bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp
của các doanh nghiệp cũng như quốc gia đó, tránh bị thua thiệt
trong quan hệ với bạn hàng và rút ra được nhiều kinh nghiệm làm
tăng hiệu quả cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Qua thời gian thực tập, tìm hiểu tình hình thực tế ở Công ty
vận tải và đại lý vận tải Hà nội, phân tích rõ các nguyên nhân ảnh
hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh, tôi đã lựa chọn đề tài: “
Hoàn thiện việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu Công
ty vận tải và đại lý vận tải Hà nội – VITACO” . Nội dung của
báo cáo tốt nghiệp được chia thành 3 phần như sau:
Phần I: Những vấn đề cơ bản về hợp đồng nhập khẩu
trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh
nghiệp.
Phần II: Thực trạng hoạt động ký kết và thức hiện hợp
đồng nhập khẩu công ty VITACO – Hà nội.
2
Phần III: Phương hướng hoàn thiện hoạt động ký kết và
thực hiện hợp đồng nhập khẩu trong thời gian tới taị Công ty
VITACO – Hà nội.
Trong quá trình nghiên cứu và viết về đề tài này không tránh
khỏi những thiếu sót, mong thầy cô giáo và bạn đọc thông cảm,
đóng góp ý kiến để hoàn thiện hơn. Đề tài này được sự giúp đỡ cuả
Thạc sỹ Trần Hoè và các Cô, Chú trong Phòng Xuất nhập khẩu của
Công ty VITACO – Hà nội.
Hà nội, tháng 6 năm 2001
PHẦN I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU.
1. Khái niệm và phân loại hợp đồng nhập khẩu
1.1. Khái niệm:
Hợp đồng là sự thoả thuận giữa hai hay nhiều bên bình đẳng
với nhau làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cụ thể.
Hợp đồng nhập khẩu hàng hoá là loại hợp đồng mua bán đặc
biệt hay hợp đồng mua bán ngoại thương là sự thoả thuận giữa các
3
đương sự có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau, theo đó một
bên gọi là một bên xuất khẩu ( bên bán) có nghĩa vụ chuyển vào
quyền sở hữu của một bên khác gọi là bên nhập khẩu ( bên mua)
một tài sản nhất định gọi là hàng hoá, bên mua có nghĩa vụ nhận
hàng và trả tiền hàng.
1.2. Phân loại hợp đồng nhập khẩu
Từ định nghĩa hợp đồng nhập khẩu ta có thể phân hợp đồng
nhập khẩu ra làm 2 loại như sau:
A/.Hợp đồng nhập khẩu trực tiếp: Là một loại hợp đồng nhập khẩu
hàng hoá, trong đó người bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu
hàng hoá cho người mua vượt qua biên giới quốc gia, còn người
mua có nghĩa vụ trả cho người bán một khoản tiền ngang giá trị
hàng hoá bằng các phương thức thanh toán quốc tế.
Loại hợp đồngnày thì nhà nhập khẩu những hàng hoá nhằm
thoả mãn cho việc kinh doanh của mình trên thị trường. Nghĩa là
họ sẽ nhập khẩu những hàng hoá mà có thể tiêu thụ được ở thị
trường trong nước, có thể đẩy mạnh được hoạt động kinh doanh
của Công ty họ. Hợp đồng này có thể có hai loại: có hạn nghạch và
không có hạn nghạch.
- Hợp đồng nhập khẩu hàng hoá có hạn nghạch: thì khi muốn
nhập khẩu thì phải xin giấy phép nhập khẩu và hạn nghạch nhập
khẩu mới được phép nhập khẩu. Nghĩa là Công ty chỉ được phép
nhập khẩu số lượng hàng hoá theo quy định của Nhà nước cho
phép.
-Hợp đồng nhập khẩu hàng hoá không có hạn nghạch: Những
loại hàng hoá mà Nhà nước ta không quy định hạn nghạch nhập
khẩu thì công ty chỉ xin giấy phép nhập khẩu, nếu như pháp luật
cho phép nhập khẩu thì Công ty phải làm các thủ tục nhập khẩu
như đã quy định, còn về khối lượng hàng hoá thì không hạn chế.
B/. Hợp đồng nhập khẩu uỷ thác: Cũng là hợp đồng nhập khẩu
hàng hoá nhưng bên hợp đồng được sự uỷ thác của bên thứ ba nhập
4
một khối lượng hàng hoá nào đó nhất định tuỳ theo yêu cầu của
bên thứ ba. Theo hợp đồng này thì bên nhập khẩu chỉ việc nhập
hàng hoá theo yêu cầu bên thứ ba, song việc thì sẽ được hưởng một
khoản tiền nào đó tuỳ thuộc vào sự thoả thuận giữa hai bên.
2. Tính chất của hợp đồng nhập khẩu
Khác với hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước, hợp đồng
nhập khẩu có tính chất quốc tế. Tuy nhiên, tính chất này lại được
luật pháp các nước cũng như các Điều ước quốc tế quy định một
cách khác nhau:
Theo công ước La Hague – 1964 về mua bán quốc tế động
sản hữu hình thì “ Hợp đồng ngoại thương là hợp đồng
được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại ở các nước
khác nhau và hàng hoá được chuyển từ nước này sang nước
khác hoặc là việc trao đổi ý chí để ký kết hợp đồng giữa
các bên được lập ở các nước khác nhau”.
Như vậy, tính quốc tế của công ước này thể hiện là:
- Chủ thể tham gia ký kết hợp đồng là các bên có trụ sở
thương mại ở các nước khác nhau. Vấn đề quốc tịch của
chủ thể không được công ước đề cập và không coi là yếu tố
xác định tính quốc tế của hợp đồng.
- Đối tượng của hợp đồng là hàng hoá được di chuyển từ
nước này qua nước khác.
- Chào hàng và chấp nhận chào hàng có thể lập laị ở các
nước khác nhau.
Theo công ước Viên – 1980 thì: Hợp đồng nhập khẩu là
các bên ký kết hợp đồng có trụ sở thương mại ở các nước
khác nhau ( điều 1).
Như vậy, công ước Viên – 1980 đã đơn giản hoá những yếu tố
quốc tế của hợp đồng nhập khẩu, ngoại trừ những quan điểm khác
5
biệt, bất đồng trong luật quốc tế giữa các nước, làm giảm bớt
những khó khăn, trở ngại và trong đàm phán ký kết hợp đồng. Việc
có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau dẫn đến việc có thể áp
dụng nhiều hệ thống luật pháp khác nhau, nhưng trong trường hợp
căn cứ vào quốc tịch thì nếu hai chủ thể có quốc tịch khác nhau lại
có trụ sở thương mại tại một nước thì việc giải thích yếu tố quốc tế
của hợp đồng nhập khẩu là bế tắc. Do vậy, quan điểm về tính quốc
tế của hợp đồng xuất nhập khẩu trong công ước Viên – 1980 mang
tính chất bao quát chung và phù hợp với thực tế hiện nay.
Theo quan điểm của Việt nam, tại điều 80 Luật Thương mại
thì: “Hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài là
hợp đồng mua bán được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt
nam với một bên là thương nhân nước ngoài”.
Tại điều 5 khoản 6 cũng quy định: “ Thương nhân được hiểu
là các cá nhân, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động
thương mại một cách độc lập thường xuyên”.
Như vậy, để xác định hợp đồng nhập khẩu thì chỉ có một quy
định là hợp đồng được ký kết với thương nhân nước ngoài. Vấn đề
đặt ra là: Phải xác định thương nhân nước ngoài như thế nào? Theo
Điều 81 khoản 1 – Luật Thương mại quy định: “ Chủ thể liên nước
ngoài là thương nhân và tư cách pháp lý của họ được xác định căn
cứ theo pháp luật mà thương nhân đó mang quốc tịch”
3. Đặc điểm của hợp đồng nhập khẩu.
Từ khái niệm về hợp đồng nhập khẩu hay hợp đồng ngoại
thương thì chúng ta có thể hiểu nó là sự thống nhất về ý chí giữa
các bên trong quan hệ mua bán hàng hoá có nhân tố nước ngoài mà
thông qua đó thiết lập thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa
vụ pháp lý giữa các chủ thể đó với nhau. Do vậy hợp đồng nhập
khẩu có những đặc điểm sau:
6
- Các bên tham gia ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế là các thương nhân có quốc tịch khác nhau và trụ sở
thương mại ở các nước khác nhau.
- Hàng hoá đối tượng cuả hợp đồng được dịch chuyển từ
nước này sang nước khác hoặc giai đoạn chào hàng và chấp
nhận chào hàng có thể được thiết lập ở các nước khác
nhau.
- Nội dung của hợp đồng bao gồm các quyền và nghĩa vụ
phát sinh từ việc chuyển giao quyền sở hữu về hàng hoá từ
người bán sang người mua ở các nước khác nhau.
- Đồng tiền thanh toán hợp đồng NK phải là ngoại tệ đối với
ít nhất là một bên trong quan hệ hợp đồng.
- Luật điều chỉnh hợp đồng là luật quốc gia, các điều ước
quốc tế và các tập quán quốc tế khác với thương mại và
hàng hải.
4. Nội dung của hợp đồng nhập khẩu
Một hợp đồng nhập khẩu hay hợp đồng mua bán quốc tế
thường có hai phần: Những điều trình bày ( representation ) và các
điều khoản về điều kiện (temr and conditions).
4.1. Phần những điều trình bày người ta ghi rõ:
a. Số hợp đồng ( Contract No.)
b. Địa điểm và ngày tháng ký kết hợp đồng.
c. Tên và địa chỉ của các đương sự.
d. Những định nghĩa dùng trong hợp đồng.
e. Cơ sở pháp lý để ký kết hợp đồng. Đây có thể là hiệp định
chính phủ ký kết ngày tháng........, cũng như có thể là Nghị
định thư ký kết giữa Bộ...... nước.......với Bộ...... nước....
7
Chí ít người ta cũng nêu ra sự tự nguyện của hai bên khi ký
kết hợp đồng.
4.2. Phần các điều khoản và điều kiện của hợp đồng.
Trong phần này người ta ghi rõ các điều khoản thương phẩm (
như tên hàng, số lượng, phẩm chất, bao bì....) các điều khoản tài
chính ( như giá cả và cơ sở của giá cả thanh toán, trả tiền hàng,
chứng từ thanh toán...), các điều khoản vận tải ( Như điều kiện
giao hàng, thời gian và địa điểm giao hàng....), các khoản pháp lý
( như: Luật áp dụng vào hợp đồng, khiếu nại, trường hợp bất khả
kháng, trọng tài....).
A. Điều khoản về tên hàng.
Nhằm giúp các bên xác định được sơ bộ loại hàng cần mua
bán trong hợp đồng bằng một số biện pháp như:
Ghi tên hàng bao gồm tên thông thường, tên thương mại, tên
khoa học ( áp dụng cả cho loại hoá chất, giống cây, vật nuôi...)
Ghi tên hàng kèm theo tên địa phương sản xuất ra nó ( nếu
nơi đó ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.).
Ghi tên hàng kèm với quy cách chính. VD: xe tải 25 tấn....
Ghi tên hàng kèm với tên nhà sản xuất ra nó.
Ghi tên hàng kèm theo công dụng.
B. Điều khoản về phẩm chất.
“ Phẩm chất” nói lên mặt chất của hàng hoá mua bán như tính
năng, quy cách, kích thước, tác dụng.... Nó phải đảm bảo dự định
về phẩm chất qua từng thời gian và từng chuyến hàng nhập khẩu.
xác định cụ thể phẩm chất của sản phẩm là cơ sở vật chất để xác
định cơ sở vật chất, để xác định giá cả và mua được hàng đúng
theo yêu cầu trong hợp đồng phải nêu rõ phương pháp xác định
phẩm chất, những tiêu chuẩn hàng hoá phải đạt được. Một số
phương pháp chủ yếu thường được sử dụng để xác định phẩm chất
8
hàng hoá như: Mẫu hàng, nhãn hiệu, hàm lượng của chất chính,
tiêu chuẩn,bản mô tả sản phẩm...
C. Điều khoản về số lượng
Là điều khoản quan trọng góp phần xác định rõ đối tượng
mua bán và bên liên quan đến trách nhiệm, nghĩa vụ đối với đôí
tượng mua bán và liên quan đến trách nhiệm, nghĩa vụ của bên mua
bên bán. Điều khoản này nhằm nói lên mặt “ lượng” của hàng hoá
được giao dịch, điều khoản này bao gồm các vấn đề đơn vị tính số
lượng ( hoặc trọng lượng) của hàng hoá, phương pháp quy định số
lượng và phương pháp xác định trọng lượng.
D. Điều khoản về bao bì:
Trong điều khoản về bao bì, các bên giao dịch thường phải
thoả thuận với nhau với những vấn đề yêu cầu về chất lượng của
bao bì và giá cả của bao bì.
Phương pháp quy định chất lượng của bao bì: Người ta có thể
dùng một trong hai phương pháp sau: Quy định chất lượng bao bì
phải phù hợp với một phương thức vận tải nào đó. VD: “ Bao bì
thích hợp với việc vận chuyển đường sắt”, “ Bao bì vận chuyển
đường biển”... Hai là, quy định cụ thể các yêu cầu về bao bì như:
Yêu cầu về vật liệu làm bao bì, hình thức, kích cỡ, số lớp và cách
thức cấu tạo của bao bì, yêu cầu về đai nẹp của bao bì.
Phương thức xác định giá cả của bao bì: Việc tính giá cả của
bao bì có thể có những trường hợp sau:
- Giá của bao bì được tính vào giá cả của hàng hoá, không
tính riêng.
- Giá cả của bao bì do bên mua trả riêng.
Giá cả của bao bì được tính như giá cả của hàng hoá.
E. Điều khoản về giá cả:
9
Trong hợp đồng nhập khẩu , giá cả cần được căn cứ vào tính
chất của hàng hoá và tập quán buôn bán mặt hàng đó trên thị
trường quốc tế để xác định rõ đơn vị giá cả:
Mức giá: Giá cả trong hợp đồng nhập khẩu thường là giá quốc
tế.
Phương pháp tính giá: Như giá cố định, giá quy định sau, giá
linh hoạt, giá di động.
Điều kiện giảm giá: Với mục đích là khuyến khích mua hàng thì có
các nguyên nhân giảm giá sau: do trả tiền sớm, giảm giá dịch vụ,
giảm giá để đổi hàng cũ để mua hàng mới, giảm giá đối với thiết bị
đã dùng rồi, do mua hàng với số lượng lớn.....
Điều kiện cơ sở giao hàng tương ứng: Trong hợp đồng NK,
mức giá bao giờ cũng ghi bên cạnh một điều kiện cơ sở giao hàng
nhất định, bởi vì giá cả sẽ khác nhau ở những điều kiện giao hàng
khác nhau.
F. Điều khoản giao hàng:
Nội dung của điều khoản này là sự xác định thời hạn và địa
điểm giao hàng, sự xác định phương thức giao hàng và việc thông
báo giao hàng.
+ Thời hạn giao hàng: Trong buôn bán quốc tế người ta có ba
kiểu quy định thời hạn giao hàng như sau: thời hạn giao hàng có
định kỳ, thời hạn giao hàng ngay, thời hạn giao hàng không định
kỳ.
+ Địa điểm giao hàng: gồm các bước sau:
- Giao nhận sơ bộ: Là bước đầu xem xét, xác định ngay tại
địa điểm sản xuất hoặc nơi giữ hàng, sự phù hợp về số
lượng, chất lượng hàng hoá so với hợp đồng.
10
- Giao nhận về số lượng, chất lượng
- Giao nhận cuối cùng: Là sự xác nhận rằng người bán đã
hoàn thành nghĩa vụ giao hàng.
+ Thông báo giao hàng: Trước khi giao hàng, người bán sẽ
thông báo là hàng hoá đã sẵn sàng để giao ngày hàng đến cảng để
giao. Sau giao hàng người bán sẽ phải thông báo tình hình đã giao
và kết quả củ việc giao hàng đó.
H. Điều khoản thanh toán:
Trong việc thanh toán tiền hàng được mua hoặc bán các bên
thường phải xác định những vấn đề đồng tiền thanh toán, thời hạn
trả tiền, phương thức trả tiền và các điều kiện đảm bảo hối đoái.
+ Đồng tiền thanh toán: Có thể là của nước xuất khẩu hoặc
nước nhập khẩu hoặc bằng đồng tiền của nước thứ ba. Đồng tiền
thanh toán có thể trùng hợp với đồng tiền tính giá và cũng có thể
không trùng hợp với đồng tiền tính giá và cũng có thể không trùng
hợp, lúc này phải quy định mức tỷ giá quy đổi.
+ Thời hạn thanh toán: Là thời hạn thoả thuận để trả tiền
trước, trả tiền ngay hoặc trả tiền sau.
+ Phương thức trả tiền: Có nhiều phương thức trả tiền trong
buôn bán quốc tế. Nhưng mấy phương thức sau đây phổ biến nhất
thường được áp dụng trong quan hệ mau bán quốc tế:
- Phương thức trả tiền mặt ( cash payment ).
- Phương thức chuyển tiền ( Transfer )
- Phương thức nhờ thu .
- Phương thức tín dụng chứng từ ( L/C )
Điều kiện đảm bảo hối đoái: Trong giai đoạn hiện nay, các
đồng tiền trên thế giới thường sụt giá hoặc tăng giá. Để tránh
những tổn thất có thể xảy ra, các bên giao dịch có thể thoả thuận
11
những điều kiện đảm bảo hối đoái. Đó có thể là điều kiện đảm bảo
vững vàng hoặc điều kiện đảm bảo ngoại hối.
I. Điều khoản về khiếu nại.
Khiếu nại là một bên yêu cầu bên kia phải giải quyết những
tổn thất hoặc thiệt hại mà bên kia đã gây ra, hoặc về những sự vi
phạm đều đã được cam kết giữa hai bên.
Nội dung có bản của điều kiện khiếu nại bao gồm các vấn đề
sau:
- Thể thức khiếu nại: Khiếu nại phải làm bằng văn bản ghi rõ
tên hàng, số lượng, trọng lượng hàng hoá bị khiếu nại, địa
điểm mau hàng, lý do khiếu nại, yêu cầu cụ thể của người
mua về việc giải quyết khiếu nại.
- Thời hạn khiếu nại: được quy định phụ thuộc trong hợp
đồng.
- Quyền hạn và nghĩa vụ các bên liên quan.
Cách thức giải quyết khiếu nại: Có nhiều cách thức giải quyết
như giao tiếp những hàng háo bị thiếu hụt, sửa chữa khuyết tật của
hàng hoá, thay thế những hàng hoá bị khiếu nại, triết một số khấu
trừ một số tiền nhất định về hàng hoá bị khiếu nại.
K. Điều khoản về bảo hành .
Người bán phải cam kết trong thời gian bảo hành hàng hoá sẽ
đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng đặc điểm kỹ thuật phù hợp với
điều kiện. Người mua phải tuân thủ nghiêm chỉnh theo sự hướng
dẫn của người bán về sử dụng và bảo dưỡng. Nếu trong giai đoạn
đó, người mua phát hiện thấy khuyết tật của hàng hoá thì người
bán phải sửa chữa miễn phí hoặc giảm giá hoặc giao hàng thay thế.
L. Điều khoản về trường hợp miễn trách.
Trong giao dịch trên thị trường thế giới, người ta thường quy
định những trường hợp nếu xảy ra bên đương sự được hoàn toàn
hoặc trong chừng mực nào đó, miễn hay thực hiện các nghĩa vụ của
hợp đồng.
12
Theo văn bản số 421 của Phòng Thương mại Quốc tế, một
bên được miễn trách nhiệm về việc không thực hiện toàn bộ hay
một phần nghĩa vụ của mình, nếu bên đó chứng minh được rằng:
- Việc không thực hiện được nghĩa vụ là do một trở ngại
ngoài sự kiểm soát của bên đó.
- Bên đó đã không thể lường trước một cách hợp lý được trở
ngại đó.
- Bên đó không thể tránh hoặc khắc phục một cách hợp lý
được trở ngại đó.
M. Điều khoản về trọng tài:
Khi các bên giao dịch thoả thuận giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thì họ phải xác định một loại hình trọng tài. Một là trọng
tài quy chế ( Initutionnal arbitration ); Hai là trọng tài vụ việc ( ad
hoc ). Các bên cũng phải quy định rõ ai sẽ làm trọng tài , nếu trong
trường hợp không tự hoà giải được. Tuy nhiên, việc lựa chọn trọng
tài phải cân nhất thời gian, chi phí tố tụng và điều quan trọng là
luật áp dụng phải phù hợp với hình thức giải quyết tranh chấp lựa
chọn.
N. Điều khoản về vận tải.
Trong điều khoản về vận tải của các hợp đồng, người ta
thường nêu lên những vấn đề sau:
Quy định về con tàu chở hàng: Như phải có khả năng đi
biển, phải được xếp loại A theo đăng kiểm của LLoyd’s, hoặc
tàu phải dưới 15 sử dụng....
Quy định về nước bốc dỡ, thời gian bốc dỡ, thưởng phạt
bốc dỡ.
13
Quy định về điều kiện để đạt “ Thông báo sẵn sàng bốc dỡ
như: Wibon, wipon, wifpon, wiccon....”
Ngoài những điều kiện trên đây, trong quá trình giao dịch
tuỳ tình hình cụ thể, các bên có thể đề ra những điều kiện khác
như: Điều kiện cấm chuyển bán, điều kiện về quyền lựa chọn....
II. KHÍA CẠNH PHÁP LÝ CỦA VIỆC KÝ KẾT VÀ THỰC
HIỆN HỢP ĐỒNG NHẬP NHẨU.
1. Ký kết hợp đồng nhập khẩu ( NK)
1.1. Khả năng để phát sinh một hợp đồng nhập khẩu.
Một hợp đồng nhập khẩu trong giao dịch buôn bán (bỏ qua
hàng tặng và các vấn đề khác) chỉ một bên người bán chào
hàng, người mua hỏi giá, đặt hàng; hai bên hoàn giá (mặc cả)
chấp nhận và xác nhận. Hợp đồng có thể được ký kết thông qua
các hình thức đàm phán: qua thư từ, qua điện thoại hay đàm
phán gặp gỡ trực tiếp.
Đặt hàng là một lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ
phía người mua. trong đơn đặt hàng, người mua liệt kê với
người bán cụ thể với các loại hàng hoá mà mình định mua,
cùng các nội dung cần thiết cho việc ký kết hợp đồng đối với
một lời chào hàng cố định. Khi người bán xác định ( bằng văn
bản) đơn đặt hàng của người mua thì cũng phát sinh một hợp
đồng. Trong trường hợp này, hợp đồng được thể hiện bằng hai
văn bản là đơn đặt hàng của người mua và văn bản xác nhận
của người bán. Như vậy, khi một lời chào hàng hoặc đặt hàng
được chấp nhận vô điều kiện bằng văn bản thì khả năng ký kết
một hợp đồng là có thực và các bên sẽ chuẩn bị tiến hành cho
một hợp đồng cụ thể hơn.
14
1.2. Điều kiện có hiệu lực của một hợp đồng nhập khẩu theo
pháp luật Việt nam.
Khi đàm phán ký kết hợp đồng, các nhà đàm phán quốc tế
thông thường chỉ hiểu biết về luật của nước mình nhưng ít khi
biết tới luật của nước khác. Điều này thực sự nguy hiểm như có
thể ký kết một hợp đồng không có giá trị pháp lý hoặc chứa đầy
các rủi ro được tính trước mà bên kia không ngờ tới. Theo các
điều luật, giá trị của một hợp đồng phụ thuộc vào một điều kiện
nhất định liên quan đến: Các bên tham gia ký kết, địa vị pháp
lý của các bên, sự thoả thuận giữa các bên về các nghĩa vụ.
Theo luật dân sự Việt nam, điều kiện để một hợp đồng có hiệu
lực gồm 4 nội dung sau:
+ Chủ thể phải hợp pháp: có nghĩa là phải tuân thủ các
điều kiện do luật pháp Việt nam quy định ( Nêu ở phần hợp
đồng nhập khẩu).
+ Hình thức phải hợp pháp: Hợp đồng nhập khẩu phải
được ký kết bằng hình thức văn bản mới có hiệu lực và mọi sửa
đổi bổ sung cũng phải được làm bằng văn bản. Mọi hình thức
sửa đổi bằng miệng đều không có giá trị pháp lý.
+ Nội dung phải hợp pháp: Tính hợp pháp của hợp đồng.
- Thứ nhất: hợp đồng phải có các điềukhoản chủ yếu. Tại
điều 50 – Luật Thuơng mại Việt nam thì nội dung của hợp đồng
bao gồm 6 điều khoản chủ yếu sau: Tên hàng, số lượng, quy
cách, phẩm chất, thời hạn,và địa điểm giao hàng, giá cả, điều
kiện cơ sở giao hàng, phương thức thanh toán và chứng từ giao
hàng.
- Thứ hai: Ngoài những điều khoản chủ yếu nêu trên, bất
kỳ một đièu khoản nào đưa vào hợp đồng thì gọi là điều khoản
15
thông thường như bao bì, mẫu cách, giám định chế tài, tranh
chấp, bảo hành....
+ Hợp đồng phải được ký kết trên cơ sở tự nguyện:
Nguyên tắc này cho phép các bên được hoàn toàn tự do thoả
thuận về quyền và nghĩa vụ của các bên trong khuôn khổ pháp
luật và loại bỏ tất cả các hợp đồng được ký kết trên cơ sở dùng
bạo lực, do bị đe doạ, bị lừa đảo hoặc do sự nhầm lẫn.
1.3. Thủ tục ký kết hợp đồng nhập khẩu
Về hình thức ký kết: Có hai loại hình thức ký kết hợp
đồng là:
+ Trực tiếp gặp gỡ đàm phán: Nếu các bên thống nhất
hoàn toàn về các vấn đề đã nêu ra trong quá trình đàm phán
trực tiếp và cùng ký vào bản dự thảo hợp đồng thì hợp đồng
được coi như là ký kết từ lúc các bên cùng ký vào hợp đồng.
+ Ký kết gián tiếp: Những hợp đồng được ký với những
khách hàng mà không có điều kiện gặp gỡ, trực tiếp đàm phán thì
hợp đồng phải được ký bằng cách trao đổi ký kết hợp đồng thông qua
việc gửi chào hàng hoặc đặt hàng. Loại hợp đồng này thường trải qua
hai giai đoạn:
1. Giai đoạn đề nghị ký hợp đồng: trong giai đoạn này, người đề
nghị ký kết hợp đồng chú ý các điều kiện có hiệu lực của đơn
đề nghị ký hợp đồng, thời hạn có hiệu lực và điều kiện huỷ bỏ
đơn đề nghị ký hợp đồng.
2. Giai đoạn chấp nhận: Việc chấp thuận cũng phải tuân thủ một
số quy định như: Chấp thuận dứt khoát vô điều kiện đề nghị ký
kết hợp dồng, thì hợp đồng được coi là đã ký kết. Nếu bổ sung
sửa đổi một số điểm trong đơn đề nghị thì về mặt pháp lý họ
đã từ chối việc ký kết và đưa ra một lời chào từ chối. Còn nếu
người đề nghị chấp nhận mọi sửa đổi bổ xung của phía bên kia
thì lúc đó hợp đồng mới tiếp tục được coi là ký kết.
16
Người ký kết:
Người đứng tên tham gia ký kết hợp đồng phải là người có chức
năng thẩm quyền phù hợp với quy định của pháp luật.
Nếu là hợp đồng được ký kết giữa các pháp nhân thì luật pháp sẽ
quy định ai là người có thẩm quyền ký hợp đồng. Thông thường theo
luật định thì Tổng Giám Đốc, Giám đốc, Chủ tịch hãng tập đoàn là
những người đại diện cho Công ty ký kết hợp đồng.
Nếu là hợp đồng được ký kết giữa các cá nhân, doanh nghiệp tư
nhân với nhau thì thẩm quyền ký kết sẽ thuộc về người chủ doanh
nghiệp đó.
Ngoài ra còn có những người đại diện theo luật định uỷ quyền.
Việc uỷ quyền được thực hiện trên giấy uỷ quyền hoặc hợp đồng uỷ
thác.
1.4. Thủ tục đăng ký hợp đồng nhập khẩu ( NK ).
Mặc dù các doanh nghiệp kinh doanh XNK có quyền chủ động và
chịu trách nhiệm chính trong việc giao dịch ký kết và thực hiện hợp
đồng, nhưng Bộ Thương mại vẫn có quyền kiểm tra giám sát và có
trách nhiệm hướng dẫn việc giao dịch, ký kết và thực hiện hợp đồng
mua bán ngoại thương.
Theo Điều 9 Quy định 299/TMDL: chậm nhất là 20 ngày
kể từ ngày ký hợp đồng XNK các doanh nghiệp phải gửi một
bản chính (Nếu bản sao phải có công chứng), về Bộ Thương
mại: Sau 7 ngày kể từ ngày nhận hợp đồng, nếu phòng cấp
giấy phép của Bộ thương mại không có ý kiến gì khác, thì
doanh nghiệp có quyền yêu cầu được nhận giấy phép nhập
17
khẩu . Tuy nhiên thời gian gần đây, để tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp tăng cường XNK hàng hoá từng chuyến.
2. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu ( NK)
2.1. Nguyên tắc chấp hành hợp đồng nhập khẩu.
Nguyên tắc chấp hành hợp đồng: Đó là những tư tưởng
chỉ đạo có tính bắt buộc các bên phải tuân thủ hợp đồng
trong quá trình thực hiện hợp đồng. Luật pháp các nước đều
quy định rằng cũng như với hợp đồng dân sự, hợp đồng ngoại
thương nói chung và nhập khẩu nói riêng phải chấp hành 3
nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc chấp hành hiện thực và thực hiện đúng về
mặt đối tượng, không được thay thế việc thực hiện đó
bằng việc đưa một khoản tiền nhất định hoặc dưới
một hình khác,
- Nguyên tắc chấp hành đúng: tức là thực hiện tất cả
các điều khoản đã cam kết.Mọi quy định trong hợp
đồng đều phải thực hiện đúng và đầy đủ.
- Nguyên tắc chấp hành trên tinh thần hợp tác hai bên
cùng có lợi: Các bên có nghiã vụ hợp tác chặt chẽ,
thường xuyên và theo dõi giúp đỡ lẫn nhau để thực
hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh cam kết, cùng nhau khắc
phục khó khăn trong quá trình thực hiện hợp đồng
ngay cả khi có tranh chấp xảy ra.
Nếu một trong hai bên không tuân thủ 1 trong 3 nguyên
tắc nói trên thì sẽ bị coi là vi phạm hợp đồng và chịu trách
nhiệm với bên kia.
2.2 Trình tự thực hiện hợp đồng nhập khẩu ( NK )
Để thực hiện một hợp đồng nhập khẩu đơn vị kinh
doanh phải tiến hành các khâu công việc sau:
Bước 1: Xin giấy phép nhập khẩu:
Giấy phép nhập khẩu là một tiêu đề quan trọng trong
mỗi chuyến hàng nhập khẩu . Thủ tục xin giấy phép nhập
khẩu ở mỗi nước là khác nhau. ở Việt nam, hàng năm hoặc 6
18
tháng một lần Bộ Thương mại công bố danh mục hàng cấm
nhập khẩu , hàng nhập khẩu theo hạn nghạch.
Khi xin giấy phép nhập khẩu doanh nghiệp cần xuất trình giấy tờ
sau: hợp đồng, phiếu hạn nghạch,( nếu hàng thuộc diện quản lý, hàng
hạn nghạch), hợp đồng uỷ thác nhập khẩu ( nếu đó là trường hợp nhập
khẩu uỷ thác) Việc cấp giấy phép nhập khẩu do Bộ thương mại ( hàng
mậu dịch) và Tổng cục Hải quan( hàng phi mậu dịch) cấp .
Bước
2: Mở thực hiệnư tín dụng-L/C ( nếu thanh toán bằng
L/C)
Khi hợp đồng NK quy định tiền hàng thanh toán bằng L/C, một
trong các công việc đầu tiên mà bên nhập khẩu phải làm để thực hiện
hợp đồng đó là việc mở L/C.
Thời gian mở L/C, nếu hợp đồng không quy định thì phụ thuộc
vào thời gian giao hàng, thường thì mở trong khoảng 20 - 25 ngày
trước khi đến thời hạn giao hàng.
Căn cứ để mở L/C là các điều khoản của hợp đồng nhập khẩu.
Khi mở L/C công ty dựa vào căn cứ này để điền vào một mẫu gọi là”
Giấy xin mở tín dụng khoản NK”.
Bước 3: Thuê tàu lưu cước.
Trong quá trình thực hiên hợp đồng nhập khẩu, việc thuê tàu trở
hàng được tiến hành dựa vào 3 căn cứ sau đây: Những điều khoản của
hợp đồng NK, đặc điểm của hàng mua và điều kiện vận tải. Chẳng hạn
điều kiện cơ sở giao hàng của hợp đồng nhập khẩu là FOB ( cảng đi)
thì chủ hàng nhập khẩu phải thuê tàu biển để chở hàng.
Bước 4: Mua bảo hiểm
Hàng hoá chuyên chở trên biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất.
Vì vậy để giảm bớt được tổn thất khi xảy ra sự cố thì các chủ hàng
thường mua bảo hiểm. Và có 3 điều kiện bảo hiểm chính sau: bảo hiểm
19
mọi rủi ro ( điều kiện bên A), bảo hiểm có tổn thất riêng ( điều kiện
bên B) và bảo hiểm miễn tổn thất riêng (điều kiện C).
Việc lựa chọn điều kiện bảo hiểm phải dựa trên 4 căn cứ sau:
- Điều khoản hợp đồng.
- Tính chất hàng hóa
- Tính chất bao bì và phương pháp xếp hàng
- Loại tàu chuyên chở
Bước 5: Làm thủ tục hải quan
Theo nghị định 200/ CP ngày 31/12/1973 “ Cơ quan
vận tải ( ga, cảng) có trách nhiệm tiếp nhận hàng hoá NK
trên các phương tiện vận tải từ nước ngoài vào, bảo quản
hàng hoá đó trong quá trình xếp dỡ, lưu kho lưu bãi và giao
cho các đơn vị đặt hàng theo lệnh giao hàng của Tổng công
ty đã nhập ở đó”. Do đó, đơn vị kinh doanh NK phải trực
tiếp hoặc thông qua một đơn vị nhập uỷ thác giao nhận.
Bước 6: Kiểm tra hàng hoá NK
Công ty sau khi nhận hàng hoá phải kiểm tra hàng hoá:
Kiểm tra chất lượng, số lượng, khối lượng.. Nếu không thấy
hợp lý như trong hợp đồng NK có quyền yêu cầu bên nhập
khẩu đền bù thiệt hại hoặc giao lại lô hàng khác..
Bước 7: thanh toán tiền hàng
Sau khi nhận hàng hóa nhập khẩu , kiểm tra không sai
sót gì, thì bên nhập khẩu sẽ phải thanh toán tiền hàng nhập
khẩu như đã thoả thuận trong hợp đồng.
Có nhiều phương thức thanh toán tiền hàng, tuùy thuộc
vào từng hợp đồng nhập khẩu quy định mà thanh toán cho
hợp lý. Thực tế thì có các loại thanh toán chủ yếu sau:
Thanh toán bằng thư tín dụng, thanh toán bằng phương thức
nhờ thu, điện chuyển tiền..
20
- Xem thêm -