Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán nhập khẩu hàng hóa tại công ty cổ phần xuất ...

Tài liệu Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán nhập khẩu hàng hóa tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu kỹ thuật – technimex

.PDF
90
319
91

Mô tả:

LỜI NÓI ĐẦU Sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thế giới trong xu hướng quốc tế hoá mạnh mẽ đã khiến cho mỗi quốc gia trở thành một mắt xích không thể thiếu trong dây truyền hệ thống kinh tế thế giới, không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển mà không tham gia vào phân công lao động quốc tế và trao đổi hàng hoá với bên ngoài. Trong quá trình hội nhập vào xu thế phát triển chung đó, ngoại thương trở thành một lĩnh vực kinh tế quan trọng, thông qua hoạt động ngoại thương các mối liên hệ được thiết lập và thực hiện trên cơ sở phát huy tiềm năng thế mạnh của mỗi nước. Chính vì thế hoat động ngoại thương trong đó có nhập khẩu giữ vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân cũng như trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia nói chung và của Việt Nam nói riêng. Việt Nam chúng ta là một nước đang trên đà phát triển. Mặc dù qua gần 15 năm mở cửa, các mối quan hệ hợp tác về thương mại, khoa hoc kỹ thuật giữa Việt Nam và các nước trên thế giới không ngừng được tăng cường và mở rộng nhưng trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ cũng như trình độ tổ chức sản xuất của ta vẫn chưa theo kịp các nước trên thế giới. Chúng ta vẫn còn thiếu rất nhiều các dây chuyền công nghệ, các trang thiết bị hiện đại. Do đó để từng bước hiện đại hoá nền sản xuất trong nước và đảm bảo đời sống của người dân không ngừng được nâng lên thì một trong những vấn đề quan trọng nhất là phải tổ chức tốt các hoạt động nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường trong nước, khắc phục những yếu kém về mặt kỹ thuật, công nghệ sản xuất, tạo sức mạnh cho xuất khẩu, phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trong điều kiện hiện nay, để hoạt động kinh doanh nhập khẩu có hiệu quả thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải chủ động, nhanh nhạy nắm bắt và thoả mãn kịp thời nhu cầu thị trường. Muốn làm được điều đó thì hệ thống hạch toán kế toán của đơn vị phải thực sự hoạt động có hiệu quả. Bởi vì hạch toán là công cụ không thể thiếu trong quản lý kinh tế nói chung và trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu nói riêng, với chức năng thu thập, xử lý và cung cấp thông tin nó cung cấp một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời về tình hình sản xuất kinh doanh, làm cơ sở cho việc gia quyết định kinh doanh phù hợp. 1 Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề nhập khẩu nói chung và công tác kế toán nhập khẩu nói riêng kết hợp với thời gian tìm hiểu thực tế tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu kỹ thuật em đã lựa chọn đề tài nghiên cứu : “ Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán nhập khẩu hàng hoá tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu kỹ thuật – TECHNIMEX”. Được sự hướng dẫn tận tình của cô giáo, Tiến sĩ Trương Thị Thuỷ và sự giúp đỡ của các anh chị phòng tài chính kế toán của công ty TECHNIMEX em đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình Luận văn được trình bày gồm ba phần chính : Chương I: Những vấn đề lý luận chung về kế toán nhập khẩu hàng hoá tại các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Chương II: Thực trạng kế toán hoạt động nhập khẩu hàng hoá tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu kỹ thuật-TECHNIMEX Chương III: Hoàn thiện kế toán hoạt động nhập khẩu tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu kỹ thuật-TECHNIMEX. Do hiểu biết còn hạn chế nên luận văn của em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em kính mong được sự góp ý chỉ bảo của cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn! 2 CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU. 1.1Nhập khẩu hàng hoá và vai trò của nó trong hoạt động kinh doanh ở các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như trong toàn bộ nền kinh tế Quốc dân Sự phân công lao động Quốc tế ngày càng rõ nét khiến các Quốc gia xích lại gần nhau hơn. Mỗi quốc gia được tự nhiên ban tặng những lợi thế nhất định tạo thành thế mạnh kinh tế của mỗi quốc gia đó. Nhưng nếu chỉ dựa vào sản xuất trong nước thì không thể cung cấp đầy đủ hàng hoá, dịch vụ đáp ứng như cầu sản xuất tiêu dùng. Vì vậy để thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế thì ngoài những hàng hoá là thể mạnh, mỗi quốc gia cần nhập khẩu những hàng hoá thiết yếu khác phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng. Ngược lại trên cơ sở khai thác tiềm năng, lợi thế vốn có sản xuất những mặt hàng thế mạnh, một mặt phục vụ nhu cầu trong nước, mặt khác xuất khẩu phần thặng dư ra nước ngoài thu ngoài tệ để nhập khẩu những thứ trong nước có nhu cầu nhưng không thể đáp ứng. Như vậy do nhu cầu phát triển của nền kinh tế mà nảy sinh ra nhu cầu trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia với nhau hay hoạt động nhập khẩu là yêu cầu khách quan của tất cả các nền kinh tế. Là một mặt của hoạt động ngoại thương, nhập khẩu là việc mua hàng hoá của các tổ chức kinh tế nước ngoài và tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu ở thị trường nhập khẩu hoặc tái xuất khẩu, được thực hiện bởi các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Một số quan điểm kinh tế cho rằng nhập khẩu ảnh hưởng không tốt tới sự phát triển của nền kinh tế, làm tăng trưởng tỷ lệ thất nghiệp. Về một mặt độc lập mà xét thì quan điểm này đúng vì tiêu dùng nhiều hàng ngoại nhập sẽ làm giảm mức cầu về hàng hoá nôị địa dẫn tới ảnh hưởng không tốt tới sản xuất trong nước. Tuy nhiên xét trên tầm vĩ mô thì nhập khẩu lại khuyến khích sản xuất hiệu quả, giá thành thấp, là động lực cho sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Thực tế cho thấy trong xu hướng toàn cầu hoá, các nền kinh tế của các quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, hoạt động ngoại 3 thương nói chung, hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng càng ngày càng phát triển mạnh mẽ. Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam thì hoạt động xuất nhập khẩu có một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Thứ nhất: nhập khẩu góp phần đẩy mạnh sự đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất làm cho lực lượng sản xuất và trình độ sản xuất được nâng cao, giúp đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh đó, nhập khẩu còn giúp chúng ta tranh thủ khai thác thế mạnh về vốn, kỹ thuật, trình độ quản lý của các nước phát triển, mở rộng quan hệ đối ngoại, trao đổi liên kết kinh tế giữa nước ta và các nước khác. Thứ hai: nhập khẩu cũng có tác động tích cực thúc đẩy xuất khẩu vì đối với một số hàng xuất khẩu đòi hỏi phải có nguồn nguyên liệu đầu vào thông qua nhập khẩu. Một số chính sách nhập khẩu hợp lý đối với nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất sẽ góp phần làm tăng năng suất, hạ giá thành, cải tiến chất lượng, tạo tính cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu. Thứ ba: hoạt động nhập khẩu thúc đẩy sản xuất có hiệu qủa. Nhập khẩu tạo sức cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích các nhà sản xuất trong nước cải tiến kỹ thuật, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hàng hoá, mẫu mã; từ đó đưa nền sản xuất nội địa đi lên. Thứ tư nhập khầu là một bộ phận của cán cân xuất nhập khẩu, là một chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia. Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay của nước ta, nhập khẩu giữ vai trò cực kì quan trọng. Tuy nhiên nhập khẩu tràn lan khối lượng lớn gây lãng phí nguồn ngoại tệ, kìm hãm sản xuất trong nước và là nguyên nhân của nạn thất nghiệp. Chính vì thế, muốn tận dụng tốt mặt tích cực của hoạt động nhập khẩu thì chúng ta phải có những chính sách hợp lý về nhiều mặt, đặc biệt là chính sách thuế có phân biệt. Còn riêng đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh doanh, hoạt động nhập khẩu có vai trò khác nhau. Những doanh nghiệp thiên về nhập khẩu thì vai trò của nhập khẩu tại các doanh nghiệp này rất rõ ràng. Nhập khẩu là nguồn cung cấp hàng hoá rất quan trọng cho đầu ra của doanh nghiệp. Thông qua nhập khẩu doanh nghiệp có được nguồn hàng cung cấp cho thị trường trong nước và tạo doanh thu. Việc tổ chức tốt quá trình 4 nhập khẩu, làm ra những mặt hàng đối tác cung ứng hợp lý giúp doanh nghiệp thu được mức chênh lệch cao. Để có thể hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải có hiểu biết sâu sác về thị trường quốc tế, những hiểu biết này chỉ có được thông qua nghiên cứu, tìm hiều thực tế, từ đó phát hiện ra những cơ hội kinh doanh. Những cơ hội này chính là sự chênh lệch giá cả giữa hai thị trường, nếu giá cả trong nước thấp hơn ta có hoạt động xuất khẩu và ngược lại ta có hoạt động nhập khẩu. Những doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu thông qua các hợp đồng gia công quốc tế thì nhập khẩu là nguồn dưỡng khí của doanh nghiệp. Hầu hết các nguyên liệu chính phục vụ cho quá trình gia công đều được thông qua quá trình nhập khẩu từ đối tác. Hoạt động của các doanh nghiệp này phụ thuộc rất nhiều vào nhập khẩu, nếu không có nguyên liệu nhập khẩu thì sẽ không có hàng xuất khẩu. Nhận thức được những vai trò to lớn của nhập khẩu không chỉ đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này mà còn đối với cả nền kinh tế quốc dân hiện nay mà Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, chú trọng đến hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu thiết bị, dây chuyền công nghệ tiên tiến phục vụ cho sản xuất và cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 1.2 Đặc điểm của hoạt động nhập khẩu hàng hoá trong các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu 1.2.1 Các điều kiện dao dịch cơ bản trong buôn bán quốc tế Hoạt động nhập khẩu diễn ra giữa hai quốc gia, vì có sự xa cách về mặt địa lý dẫn đến những phát sinh ảnh hưởng tới việc giao nhận hàng hoá theo hợp động đã kí. Để đảm bảo lợi ích cho các bên tham gia hợp đồng xuất nhập khẩu, hạn chế những rủi ro, thiệt hại cho các chủ thể nói trên trong qúa trình đàm phán ký kết hợp đồng nhập khẩu các bên cần quan tâm đến hàng loạt các vấn đề như: điều kiện và tiền tệ, địa điểm thanh toán, thời gian thanh toán, phương thức thanh toán… Những vấn đề này thường được gọi chung là các điều kiện cơ sở giao hàng. Các điều kiện cơ sở giao hàng do phòng thương mại quốc tế soạn thảo ra nhằm giải thích một cách thống nhất các tập quán thông lệ quốc tế khi giao hàng, nó là cơ sở cho các bên ký kết cũng như thực hiện các hợp động ngoại 5 thương. Hiện nay, điều kiện cơ sở cho giao hàng được thực hiện theo INCOTERN 2000 gồm 13 điều kiện chia thành 4 nhóm khác nhau: Nhóm ‘E’: người bán hàng dưới quyền định đoạt của người mua ngay tại xưởng của người bán, nhóm này chỉ có một điều kiện là EXW. Nhóm ‘F’: người bán được yêu cầu giao hàng hoá cho người chuyên chở do người mua chỉ định, gồm 3 điều kiện FCA, FAS, FOB. Nhóm ‘C’: người bán hàng kí hợp đồng vận tải nhưng không chịu những rủi ro đối với hàng hoá sau khi đã gửi hàng hoặc bốc hàng lên tàu, gồm 4 điều kiện: CFR, CiF, CIP, CPT. Nhóm ‘D’: người bán hàng chịu mọi phí tổn và rủi ro để đưa hàng đến nơi, gồm 5 điều kiện: DAF, DES, DEQ, DDU, DDP EXW: giao tại xưởng FCA: giao cho người chuyên chở FAS: giao dọc mạn tàu FOB: giao qua lan can tàu CFR: tên hàng và cước CIP: cước phí bảo hiểm trả tới CPT: cước trả tới DAP: giao tại biên giới DES: giao tại tàu DEQ: giao tại cầu cảng DDU: giao tại đích chưa nộp thuế DDP: giao tại đích đã nộp thuế Ứng với mỗi điều kiện cơ sở giao hàng là một điều kiện về giá. Tuy nhiên do điều kiện kinh nghiệm trong hoạt động ngoại thương của chúng ta nên trong quá trình xuất nhập khẩu chúng ta thường sử dụng các loại giá: Giá FOB: giá giao tính đến khi hàng được xếp lên phương tiện vận chuyển tại cảng xuất. Theo điều kiện giá này người mua phải chịu trách nhiệm thuê tàu, chịu chi phí vận chuyển, bảo hiểm, mọi rủi ro từ khi hàng đã qua khỏi lan can tàu đi ở cảng. Người bán có trách nhiệm giao hàng lên tàu do người mua chỉ định, thông báo cho người mua, cung cấp các chứng từ cần thiết. Đây là điều kiện mà các công ty xuất nhập khẩu Việt Nam thường sử dụng khi xuất khẩu hàng hóa. 6 Giá CIF: bao gồm giá FOB + chi phí bảo hiểm + cước phí vận tải. Theo điều kiện này bên bán phải thuê tàu mua bảo hiểm cho hàng hóa ở mức tối thiểu, rủi ro về hàng hóa vận chuyển giao tại cảng nhận. Giá CFR: bao gồm tiền hàng và cước phí vận chuyển. Giá DAF: giá hàng giao tại biên giới đối với mọi loại hình vận tải. Do những yếu kém còn tồn tại cùng với tư tưởng cầu toàn sợ rủi ro nên trong nghiệp vụ xuất nhập khẩu việc lựa chọn các điều kiện giao hàng của chúng ta không kinh tế. Xuất FOB, nhập CIF là những điều kiện thường gặp không tạo điều kiện cho ngành vận tải biển và ngành bảo hiểm của chúng ta phất triển. 1.2.2 Các phương thức kinh doanh nhập khẩu Hiện nay đối với hoạt động nhập khẩu có hai phương thức cơ bản đó là nhập khẩu theo nghị định thư và nhập khẩu ngoài nghị định thư. * Nhập khẩu theo nghị định thư : là phương thức mà các doanh nghiệp phải tuân theo chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước thực hiện các hợp đồng kinh tế bằng văn bản. Chính phủ Việt Nam sau khi ký nghị định thư hay hiệp định thư với các nước khác để nhập khẩu hàng hoá sẽ giao cho các doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp thực hiện. Việc thanh toán cho hợp đồng nhập khẩu theo phương thức này do Nhà nước đứng ra trả tiền hoặc cam kết trả tiền hoặc uỷ nhiệm cho doanh nghiệp thanh toán . Đối với ngoại tệ thu được khi tiêu thụ hàng nhập khẩu doanh nghiệp phải nộp vào quỹ ngoại tệ tập trung của Nhà nước thông qua tài khoản của Bộ Thương Mại và được thanh toán bằng VNĐ tương ứng theo tỷ giá do Nhà nước quy định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, đa số các đơn vị kinh doanh nhập khẩu được chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình nên số lượng các đơn vị kinh doanh theo phương thức này rất ít chỉ trừ các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt. * Nhập khẩu ngoài nghị định thư: là phương thức hoạt động trong đó các doanh nghiệp nhập khẩu không theo nghị định thư hay hiệp định thư do chính phủ ký kết nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ pháp lý do Nhà nước quy định. Các doanh nghiệp phải tự cân đối về tài chính, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với 7 ngân sách Nhà nước, chủ động về giá cả hàng hoá, thị trường trong phạm vi Nhà nước cho phép. Và các doanh nghiệp hoàn toàn cố quyền chủ động trong tổ chức nhập khẩu từ khâu đầu tiên cho đến khâu cuối cùng. Doanh nghiệp phải tự tìm bạn hàng, nguồn hàng, tổ chức giao dịch ký kết và thực hiện hợp đồng trên cơ sở tuân thủ chính sách chế độ kinh tế của Nhà nước. Đối với số ngoại tệ thu được từ tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu doanh nghiệp không phải nộp vào quỹ ngoại tệ tập trung mà có thể bán ở trung tâm giao dịch ngoại tệ hoặc ngân hàng. Nhập khẩu theo phương thức này tạo cho các doanh nghiệp điều kiện để phát huy sự năng động sáng tạo và độc lập trong hạch toán kinh doanh phù hợp với cơ chế thị trường. 1.2.3. Các hình thức nhập khẩu Hiện nay họat động nhập khẩu thường được thực hiện theo các hình thức sau: Hình thức nhập khẩu trực tiếp. Hình thức nhập khẩu ủy thác. 1.2.3.1. Hình thức nhập khẩu trực tiếp: Là hình thức mà các doanh nghiệp trong nước có đủ điều kiện về tài chính, điều kiện nhân lực , điều kiện địa lý có khả năng mua hàng nhập khẩu và được nhà nước, bộ thương mại cấp giấy phép, cho phép trực tiếp giao dịch, kí kết các hợp đồng về nhập khẩu hàng hóa với nước ngoài và thanh toán bằng ngoại tệ (chủ yếu là các ngoại tệ mạnh). Để nhằm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và phương trình kinh tế địa phương theo chính sách của Nhà nước. 1.2.3.2. Hình thức nhập khẩu ủy thác. Là hình thức nhập khẩu được áp dụng đối với các doanh nghiệp có nhu cầu nhập khẩu hàng hóa nhưng không có khả năng điều kiện hoặc chưa được Nhà nước nhập khẩu trực tiếp nên phải nhờ doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp nhập khẩu hộ. Theo hình thức này doanh nghiệp ủy thác được phép hạch toán trị giá hàng nhập khẩu và có trách nhiệm thanh toán chi phi nhập khẩu cho bên nhận ủy thác. Còn bên nhận ủy thác đóng vai trò là đại lý mua hưởng hoa hồng theo thỏa thuận trong hợp đồng ủy thác mà hai bên đã kí kết. Đơn vị nhận ủy thác có trách nhiệm nhập hàng về theo đúng số lượng , chất lượng, mẫu mã được yêu cầu. Kinh doanh nhập khẩu theo hình thức nào là tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp. Trên thực tế có nhiều doanh nghiệp áp dụng cả hai 8 hình thức nhập khẩu trên nhằm tối đa hóa hiệu quả trong kinh doanh. Thông thường tổ chức hoạt động nhập khẩu theo hình thức trực tiếp có lợi hơn vì doanh nghiệp có thể chủ động nắm bắt thông tin, tìm hiểu thị trường một cách sâu sắc và toàn diện, có điều kiện mở rộng quan hệ, uy tín với bạn hàng nước ngoài. 1.2.4. Các phương thức thanh toán Quốc tế chủ yếu dùng trong hoạt động nhập khẩu Phương thức thanh toán là một yếu tố quan trọng trong việc thực hiện hợp đồng và nó cũng ảnh hưởng tới công tác kế toán. Phương thức thanh toán quốc tế là toàn bộ quá trình, cách thức nhận và trả tiền hàng trong dao dịch mua bán ngoại thương giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu. Hiện nay trong quan hệ ngoại thương có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau, tùy theo mức độ tín nhiệm và giá trị hợp đồng mà người nhập khẩu phải nhận hình thức thanh toán do người xuất khẩu yêu cầu hoặc theo điều kiện thanh toán theo hợp đồng ngoại thương đã kí. 1.2.4.1. Phương thức ghi sổ Là phương thức thanh toán trong đó người xuất khẩu hàng hóa cung ứng dịch vụ thì ghi nợ cho người nhập khẩu, theo dõi vào một cuốn sổ riêng và việc thực hiện thanh toán các khoản nợ này sẽ được thực hiện sau một thời kì nhất định. 1.2.4.2. Phương thức chuyển tiền Theo phương thức này người nhập khẩu yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho người xuất khẩu theo địa điểm nhất định trong một thời gian nhất định. Về hình thức việc chuyển tiền của ngân hàng phục vụ người nhập khẩu có thể bằng điện hoặc bằng thư chuyển tiền Sơ đồ phương thức thanh toán chuyển tiền Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu (4) Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu (2) (3) (5) Người (2) nhập (3)khẩu Người xuất khẩu 9 (1) (1) Người xuất khẩu sau khi kí hợp đồng xuất khẩu với phương thức thanh toán chuyển tiền sẽ giao hàng cùng bộ chứng từ cho người nhập khẩu. (2) Người nhập khẩu sau khi nhận hàng một thời gian nhất định quy định trong hợp đồng sẽ liên hệ với ngân hàng phục vụ mình để nhờ chuyển trả tiền cho người xuất khẩu. (3) Ngân hàng ghi nợ tài khoản của người nhập khẩu. (4) Ngân hàng người nhập khẩu tiến hành chuyển tiền cho ngân hàng phục vụ người xuất khẩu. (5) Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu chuyển giấy báo cho người xuất khẩu. 1.2.4.3. Phương thức thanh toán nhờ thu Là phương thức thanh toán mà trong đó người xuất khẩu khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng thì tiến hành ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền hàng trên cơ sỏ hối phiếu do người xuất khẩu lập. Có hai hình thức nhờ thu là: nhờ thu trơn và nhờ thu kèm chứng từ. Nhờ thu trơn: Người xuất khẩu giao hàng và bộ chứng từ hàng hóa cho ngừời nhập khẩu và sau đó nhập hối phiếu ủy quyền cho ngân hàng phục vụ mình nhờ thu tiền từ người nhập khẩu. Nhờ thu kèm chứng từ: Người xuất khẩu chỉ giao hàng cho người nhập khẩu, sau đó nhập hối phiếu cùng bộ chứng từ hàng hóa giao cho ngân hàng và nhờ ngân hàng thu tiền từ người nhập khẩu, bao gồm: Nhờ thu chứng từ đổi lấy chấp nhận: theo phương thức này người nhập khẩu khi nhận được hối phiếu có kì hạn do người xuất khẩu lập chỉ cần chập nhận thanh toán trên hối phiếu là có thể nhận được bộ chứng từ hàng hóa. Nhờ thu chứng từ đổi lấy sự thanh toán: Người nhập khẩu phải thanh toán tiền hàng mới nhận được hàng hóa, quy trình như sau … Sơ đồ 1.2: Sơ đồ phương thức thanh toán nhờ thu kèm chứng từ (3) Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu (6) 10 Người nhập khẩu Người xuất khẩu (5) (4) (7) (5) (4) (2) (1) (7) (2) (1) Người xuất khẩu sau khi kí hợp đồng, trong đó quy định phương thức thanh toán là nhờ thu kèm chứng từ sẽ giao hàng không kèm theo chứng từ cho người nhập khẩu. (2) Người, xuất khẩu chuyển hối phiếu cùng với bộ chứng từ cho ngân hàng phục vụ mình uỷ thác thu. (3) Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu chuyển hối phiếu kèm chứng từ cho ngân hàng phục vụ người nhập khẩu để nhờ thu. (4) Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu chuyển hối phiếu và bộ chứng từ cho người nhập khẩu đổi lấy tiền. (5) Người nhập khẩu chuyển trả tiền cho ngân hàng phục vụ mình. (6) Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu chuyển tiền cho ngân hàng người xuất khẩu. (7) Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu gửi giấy báo cho người xuất khẩu. 1.2.4.4. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ Là một thỏa thuận trong đó một ngân hàng đáp ứng những yêu cầu của khách hàng cam kết sẽ trả một số tiền I’ định cho một người khác hoặc chấp nhận hối phiếu do người này kí phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng. Sơ đồ 1.3 : Sơ đồ phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (2) Ngân hàng L/C (5) (1) (7) (2) (5) (6) (8) Người nhập khẩu Ngân hàng thông báo (6) (5) (3) Người xuất khẩu (4) 11 (1) người nhập khẩu làm đơn xin mở L/C và gửi cho ngân hàng mở L/C yêu cầu mở L/C cho người xuất khẩu hưởng. (2) Căn cứ vào đơn xin mở L/C ngân hàng mở L/C tiến hành mở L/C và chuyển cho ngân hàng thông báo mở L/C. (3) Khi nhận được thông báo này, ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho người xuất khẩu toàn bộ nội dung của thông báo về việc mở L/C và khi nhận được bản gốc L/C thì chuyển ngay cho người xuất khẩu. (4) Người bán nếu chấp nhận L/C thì tiến hành giao hàng, ngược lại thì đề nghị người mua và ngân hàng mở L/C sửa đổi và bổ xung L/C cho phù hợp với hợp đồng mới giao hàng. (5) Sau khi giao hàng, người bán lập bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C xuất trình cho ngân hàng mở L/C thông qua ngân hàng thông báo để đòi tiền. (6) Ngân hàng mở L/C kiểm tra bộ chứng từ, nếu phù hợp với L/C thì trả tiền cho người bán, nếu không phù hợp thì từ chối thanh toán và gửi trả lại toàn bộ chứng từ cho người xuất khẩu. (7) Ngân hàng mở L/C đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ hàng hoá cho người nhập khẩu. (8) Người mua kiểm tra chứng từ nếu thấy phù hợp với L/C thì hoàn trả tiền cho ngân hàng mở L/C , ngược lại thì từ chối trả tiền. Thông qua trình tự tiến hành các bước ta thấy quá trình giao dịch giữa người nhập khẩu, người nhập khẩu và ngân hàng ta thấy sự vận động chặt chẽ hai luồng tiền và hàng. Ngoài ra ta còn thấy hai mặt vừa độc lập vừa phụ thuộc giưa L/C và hợp đồng nhập khẩu. Chúng dộc lập ở chỗ ngân hàng chỉ căn cứ vào đơn xin mở L/C của bên nhập khẩu để tiến hành mở L/C mà không hề quan tâm đến hợp đồng xuất nhập khẩu, và tiến hành thanh toán cho bên xuất khẩu khi bộ chứng từ thỏa mãn các điều kiện của L/C kể cả khi các điều kiện này trái với hợp đồng. Tuy nhiên chúng lại phụ thuộc nhau ở chỗ L/C được thảo ra trên cơ sở các điều khoản của hợp đồng đã kí. Tính chặt chẽ trong quy trình thanh toán khiến phương thức thanh toán bằng L/C có độ tin cậy rất cao. Tuy nhiên phương thức này cũng có một số hạn chế đó là sự phức tạp và độ chi phí cao phải trả cho ngân hàng phục vụ. Mặt khác khi mở L/C người nhập khẩu phải kí một khoản tiền tương ứng 10 100% giá trị hợp đồng tùy mức độ tín nhiệm của ngân hàng với người xin mở 12 L/C. Đây chính là khoản vốn mà người nhập khẩu phải ứ đọng tại ngân hàng trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu. 1.2.5. Các phương tiện thanh toán chủ yếu dùng trong hoạt động nhập khẩu 1.2.5.1. Sec Là một tờ lệnh trả tiền vô điều kiện do một khách hàng kí phát ra lệnh cho ngân hàng trích từ tài khoản của mình để trả cho người có tên trên sec hoặc trả theo lệnh của người đó hoặc trả cho người cẫm sec một số tiền nhất định. 1.2.5.2. Kỳ phiếu Kỳ phiếu do người nhập khẩu lập ra trong đó cam kết sau một thời gian sẽ thanh toán toàn bộ số tiền ngân hàng nhập khẩu cho người xuất khẩu. 1.2.5.3. Hối phiếu Là một tờ lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho một người khác, yêu cầu người này khi nhận được nó phải trả ngay hoặc phải trả vào một thời gian xác định trong tương lai một số tiền nhất định cho một người nào đó có tên trên hối phiếu hoặc theo lệnh của người này trả cho một người khác hoặc trả cho người cầm hối phiếu. 1.3 Những quy định đối với hàng nhập khẩu 1.3.1 Yêu cầu quản lý đối với hoạt động nhập khẩu Nhập khẩu là hoạt động tương đối phức tạp. Nó đòi hỏi các doanh nghiệp có một tiềm lực kinh tế đủ mạnh, có trình độ hiểu biết về nghiệp vụ ngoại thương, tập quán kinh doanh quốc tế, luật pháp quốc tế ở một mức độ nhất định. Trong điều kiện hiện nay, mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu tương đối cao. Muốn hoạt động kinh doand có hiệu qủa để đạt được các yêu cầu đề ra ở trên thì các doanh nghiệp cần phải làm tốt các khâu quản lý. Trong hoạt động nhập khẩu với những đặc thù riêng và vai trò quan trọng của nó thì việc quản lý tốt các giai đoạn của quá trình nhập khẩu là rất cần thiết. Muốn vậy phải đảm bảo các yêu cầu sau đây: Trước khi kí kết các hợp đồng nhập khẩu, các nhà quản lý doanh nghiệp phải nắm bắt chính xác, kịp thời nhứng thông tin về nhu cầu của thị trường, về tình hình cung cầu của các loại hàng hoá mà doanh nghiệp dự định sẽ mua, phải hiểu rõ và nắm vững quy luật vận động của thị trường, đặc biệt 13 là về giá cả hàng hoá. Hơn nữa, các nhà quản lý còn phải quan tâm đến những biến động khó lường của tỷ gía thị trường để có biện pháp ứng phó kịp thời, nắm chắc các điều khoản chủ yếu trong hợp đồng: tên hàng, số lượng, phẩm chất, giá cả, thời hạn thanh toán… Khi thực hiện hợp đồng cac doanh nghiệp phải luôn luôn bám sát các điều khoản của hợp đồng, tuân thủ chặt chẽ mọi điều khoản nhưng vẫn bảo đảm mức chi phí bỏ ra tối thiểu nhằm tăng uy tín của doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả của kinh doanh. Cụ thể các doanh nghiệp cần thực hiện tốt từ khâu đầu tiên là mở L/C, kiểm tra hàng hoá kĩ lưỡng cả về chất lượng và số lượng, kiểu dáng…, trước khi nhận hàng cho đến khâu cuối cùng là thanh lý hợp đồng. Khi hàng nhập khẩu về kho, doanh nghiệp phải có chế độ bảo quản tốt và quản lý, giám sát chặt chẽ số hàng đó cả về số lượng và mặt giá trị. 1.3.2 Thời hạn và phạm vi xác định hàng nhập khẩu 1.3.2.1Phạm vi hàng nhập khẩu Hàng nhập khẩu là những hàng hoá từ nước ngoài vào nước ta thông qua việc mua bán, trao đổi ngoại thương giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp ngoài nước. Hàng nhập khẩu vào nước ta rất đa dạng và phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau: phục vụ cho nhu cầu đầu tư, sản xuất, cho tiêu dùng…, các trường hợp sau được coi là hàng nhập khẩu: Hàng mua của nước ngoài trên cơ sở các hợp đồng ngoại thương mà doanh nghiệp xuất nhập khẩu nước ta đã kí kết với các doanh nghiệp nước ngoài. Hàng hoá mà nước ngoài đưa vào nước ta để tham gia hội chợ, triển lãm…, sau đó doanh nghiệp xuất nhập khẩu mua lại và thanh toán bằng ngoại tệ. Hàng hoá của nước ngoài viện trợ cho nước ta trên cơ sở các hiệp định, nghị định thư ký kết giữa các Chính phủ Việt Nam với các nước khác, được thực hiện thông qua các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Hàng hoá mua ở nước ngoài để xuất khẩu cho nước thứ ba theo hợp đồng đã kí giữa các bên. 1.3.2.2 Thời điểm xác định hàng nhập khẩu Việc xác định thời điểm hàng nhập khẩu có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác hạch toán kế toán và thống kê. Theo thông lệ chung và nguyên 14 tắc kế toán được thừa nhận thì thời điểm xác định là hàng nhập khẩu là khi chủ hàng có quyền sở hữu cho khách hàng, khách hàng đã thanh toán và chấp nhận thanh toán. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc rất lớn vào phương thức bán hàng và địa điểm giao nhận hàng hoá cụ thể như sau: Nếu hàng chấp nhận vận chuyển bằng đường biển thì hàng nhập khẩu tính từ ngày hàng hoá đến hải phận nước nhập, hải quan cảng biển đã kí xác nhận vào tờ khai hàng nhập. Nếu hàng hoá nhập khẩu được vận chuyển bằng đường sắt hoặc đường bộ thì hàng nhập khẩu được tính từ ngày hàng hoá đến ga, trạm biên giới nước nhập theo xác nhận của hải quan cửa khẩu. Nếu hàng nhập khẩu vận chuyển bằng đường hàng không thì hàng hoá nhập khẩu được tính từ ngày hàng hoá đến sân bay đầu tiên của nước nhập theo xác nhận của hải quan sân bay đã hoàn thành thủ tục hải quan. 1.3.3 Những quy định về thuế quan đối với hàng nhập khẩu Khi hàng hoá về đến cảng thì người nhập khẩu phải làm các thủ tục hải quan như sau: Tiếp nhận và kê khai hàng hoá nhập khẩu trên cơ sở tính các loại thuế phải nộp. Số thuế phải nộp được tính theo công thức: Số thuế nhập khẩu = số lượng từng mặt hàng x giá tính thuế của từng mặt hàng x thuế xuất từng mặt hàng. Giá tính thuế là giá CIF. Các lô hàng nhập khẩu dùng giá trị khác nhau như giá FOB, CF…phải quy đổi sang giá CIF để tính thuế. Hàng nhập khẩu có giá trị hợp đồng là ngoại tệ nên khi tính thuế trị giá phải quy đổi ra tiền VIệt Nam theo tỷ giá hải quan quy định (thường là tỷ giá do ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm đăng kí tờ khai hàng hoá). Tỷ giá này là không đổi kể từ khi ấn định trên tờ khai hải quan đến khi nộp thuế là 30 hay 60 ngày và có sụ biến động của tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Số thuế GTGT của hàng nhập khẩu được xác định theo công thức: Thuế GTGT = [giá trị mua thực tế của hàng nhập khẩu + thuế nhập khẩu] x thuế xuất theo GTGT. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải nộp thuế nhập khẩu và thuế GTGT hàng nhập khẩu theo từng lần nhập khẩu. Thời hạn nộp thuế thường là sau 30 ngày kể từ khi đăng kí tờ khai hải quan. 15 1.4 Kế toán hoạt động nhập khẩu hàng hoá trong các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu 1.4.1. Vai trò của kế toán nghiệp vụ nhập khẩu hàng hoá Mỗi hoạt động kinh tế trong doanh nghiệp đều có một bộ phận kế toán riêng theo dõi và quản lý hoạt động đó. Trong các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu thì hoạt động xuất nhập khẩu là chủ yếu, ở đó kế toán hoạt động xuất nhập khẩu có vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống kế toán các hoạt động của doanh nghiệp. Xuất phát từ những đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu, kế toán hoạt động kinh doanh nhập khẩu có vai trò quan trọng trong việc: Phản ánh tình hình thực hiện kế hoạch nhập khẩu hàng hoá cả về số lượng và chất lượng, giá trị theo từng mặt hàng, nhóm hàng giúp nhà quản trị nắm được toàn bộ các nghiệp vụ nhập khẩu, trên cơ sở đó kiểm tra việc chấp hành các chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước trong doanh nghiệp, kiểm tra, đánh giá qúa trình thực hiện kế hoạch nhập khẩu và tiêu thụ hạng nhập khẩu để có biện pháp hoàn thiện công tác kinh doanh nhập khẩu thu lợi nhuận tối đa. Kiểm tra tình hình thanh toán giữa các bên. Vai trò này rất quan trọng vì trong quá trình kinh doanh nói chung và tình hình kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng không thể tránh khỏi tình trọng các doanh nghiệp chiếm dụng vốn của nhau. Việc chiếm dụng vốn ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, kế toán hoạt động nhập khẩu sẽ cung cấp các thông tin đầy đủ về việc thanh toán với các bên nhập khẩu và những thông tin về tình hình thanh toán trong tiêu thụ hàng nhập khẩu để tránh doanh nghiệp bị phạt do chậm thanh toán cũng như tránh bị các doanh nghiệp khác chiếm dụng vốn. Kiểm tra tình hình doanh thu và chi phí: Giúp doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm các loại vật tư tiền vốn trong quá trình nhập khẩu. Trong cơ chế kinh tế mới, các doanh nghiệp phải tự chủ về tài chính, các hoạt động của doanh nghiệp phải đảm bảo thu bù chi và có lãi. Chỉ thế mới có thể tồn tại trên thương trường. Điều này đỏi hỏi các doanh nghiệp phải hạch toán đầy đủ và chính xác doanh thu và các chi phí trong quá trình nhập khẩu. 16 Cung cấp số liệu, tài liệu cho việc điều hành hoạt động kinh doanh nhập khẩu, kiểm tra, phân tích hoạt động kinh tế tài chính phục vụ công tác lập kế hoạch và theo dõi việc thực hiện kế hoạch kì sau. 1.4.2. Chứng từ sử dụng Xuất phát từ những đặc điểm của hoạt động nhập khẩu hàng hoá và căn cứ vào hệ thống chứng từ bộ Tài chính ban hành, tập quán thương mại quốc tế,…trong hoạt động nhập khẩu thường sử dụng các loại chứng từ chủ yếu sau: Hoá đơn thương mại: là chứng từ cơ bản của khâu hạch toán, là yêu cầu cảu người bán đòi hỏi người mua phải trả số tiền ghi trên hoá đơn. Hoá đơn thương mại là cơ sở cho việc theo dõi, thực hiện hợp đồng và khai báo thủ tục hải quan. Hoá đơn thương mại nói rõ đặc điểm của hàng hoá, đơn giá, tổng giá trị của hàng hoá, điều kiện cơ sở giao hàng, phương thức thanh toán và phương tiện để chuyên chở. Hoá đơn thương mại thường lập làm nhiều bản và dùng trong nhiều việc khác nhau như xuất trình cho ngân hàng để đòi tiền hàng, xuất trình cho công ty bảo hiểm để tính phí bảo hiểm, xuất trình cho cơ quan quản lý ngoại hối của nước nhập khẩu để xin cấp ngoại tệ, xuất trình cho hải quan để tính thuế. Vận đơn đường biển: Là một chứng từ chuyên chở băng đường biển do người chuyên chở hoặc người đại diện của họ cấp cho người gửi hàng sau khi đã xếp hàng lên tàu hoặc sau khi nhận hàng về để xếp. Vận đơn đường biển có ý nghĩa hết sức quan trọng trong buôn bán quốc tế, nó là chứng từ không thể thiếu trong thanh toán, bảo hiểm và khiếu nại. Vận đơn đường sắt: là chứng từ vận tải co bản trong vận chuyển bằng đường sắt. Vận đơn đường sắt có chức năng là bằng chứng của hợp đồng chuyên chở hàng hoá bằng đường sắt và là biên lai của cơ quan đường sắt. Vận đơn này thường dùng trong việc thanh toán tiền hàng, thông báo giao hàng… Vận đơn đường không: là chứng từ do cơ quan vận tải đường không cung cấp cho người gửi hàng nhằm xác nhận việc giao hàng cho bên vận chuyển. Vận đơn đường không cũng có ý nghĩa quan trọng, nó là chứng từ giao nhận hàng hoá, là chứng từ thanh toán, bảo hiểm và khiếu nại. Giấy chứng nhận bảo hiểm: Là chứng từ do tổ chức bảo hiểm cấp nhằm hợp thức hoá họp đồng bảo hiểm và được dùng dể điều tiết quan hệ 17 giữa tổ chức bảo hiểm và người được bảo hiểm. Tuỳ theo điều kiện giao hàng mà người mua bảo hiểm có thể là bên nhập khẩu hoặc là xuất khẩu. Bảo hiểm hàng hoá trong xuất nhập khẩu thường có bao mức A, B, C thông thường người xuất khẩu sẽ mua bảo hiểm với mức thấp I’ theo giá CIF + 10% CFI nếu xuất khẩu theo điều kiện CIF. Giấy chứng nhận số lượng và trọng lượng: là chứng từ xác nhận số lượng trọng lượng hàng hoá thực giao. Giấy chứng nhận này có thể do người cung ứng hoặc tổ chức kiểm nghiệm hàng hoá nhập khẩu cấp tuỳ theo sự thoả thuận của các bên trong một hợp đồng xuất nhập khẩu. Giấy chứng nhận phẩm chất: Là chứng từ xác nhận chất lượng của hàng hoá thực được giao, nó là bằng chứng chứng minh phẩm chất hàng hoá phù hợp với hợp đồng. Giấy chứng nhận phẩm chất có hể do xưởng hoặc xí nghiệp sản xuất hàng hoá hoặc cơ quan kiểm nghiệm cấp tuỳ theo điều kiện giao hàng hay thoả thuận giữa các bên liên quan. Giấy chứng nhận xuất xứ: là chứng từ do phòng thương mại cấp để xác định nơi sản xuất hoặc khai thác đối với hàng hoá. Giấy chứng nhận về vệ sinh: Do cơ quan có thẩm quyền kiểm tra chất lượng hàng hoá hoặc y tế cấp cho chủ hàng sau khi đã kiểm tra hàng hóa và không phát hiện ra những tác nhân gây ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ của người sử dụng. Bảng kê chi phí đóng gói: là bảng kê khai tất cả hàng hoá đựng trong kiện hàng. Phiếu đóng gói được lập ngay khi đóng gói hàng hoá tạo điều kiện kiểm tra hàng hoá trong mỗi kiện hàng. Ngoài ra có thể còn một số chứng từ khác trong bộ chứng từ. Tuỳ theo yêu cầu của các bên đã kí kết trong hợp đồngxnk. Bộ chứng từ này bao gồm rất nhiều chứng từ nhằm phục vụ cho các nghiệp vụ giao, nhận hàng hoá. Trong thực tế kế toán viên chỉ sử dụng một số chứng từ trong số đó phục vụ cho nghiệp vụ hạch toán ban đầu. Ngoài ra những chứng từ trong bộ chứng từ giao nhận hàng, kế toán hoạt động nhập khẩu hàng hoá còn sử dụng những chứng từ khác trong hạch toán ban đầu Phiếu nhập kho Hoá đơn kiêm phiếu xuất nhập khẩu Bảng kê tính thuế 18 Biên lai nộp thuế Các hóa đơn đặc thù, hóa đơn GTGT trong quá trình vận chuyển bốc dỡ hàng hoá Giấy tạm ứng Giấy báo nợ, giấy báo có Phiếu thu, phiếu thu Tờ khai hải quan Bảng kê chi tiết hàng nhập khẩu Biên bản kiểm nghiệm, thừa thiếu, đổ vỡ Biên bản quyết toán hàng với tàu 1.4.3. Tài khoản sử dụng Song song với quá trình hạch toán ban đầu là hạch toán tổng hợp và hạch toán chi tiết. Hạch toán tổng hợp là việc ghi chép phản ánh và giám đốc các nghiệp vụ kinh tế ps một cách tổng hợp trên cơ sở các chứng từ cung cấp từ khâu hạch toán ban đầu tạo ra các thông tin tổng hợp nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý. Việc sử dụng một hệ thống tài khoản đầy đủ hợp lý đối với mỗi phần hành kế toán trong doanh nghiệp giúp giảm nhẹ công việc của kế toán, giảm bớt thời gian tổng hợp số liệu trong lập báo cáo cuối các tháng, quý và cả năm. Kế toán hoạt động hàng hoá sử dụng những tài khoản sau: Tài khoản 151: Mua hàng đang đi đường Tài khoản này nhằm phản ánh trị giá hàng hoá nhập khẩu đã có chứng từ nhưng chưa về tới kho cuối cùng. K/c của tài khoản này như sau: Bên nợ: Trị giá hàng nhập khẩu về đang chờ kiểm nhận Số thuế nhập khẩu phải nộp Bên có: Trị giá hàng nhập khẩu đã kiểm nhận nhập khẩu nhập kho Trị giá hàng hoá nhập khẩu đã bán thẳng Trị giá hàng thiếu chờ giải quyết Số dư bên nợ: phản ánh trị giá hàng hoá nhập khẩu chưa về nhập kho cuối tháng Tài khoản 156: hàng hoá 19 Tài khoản này phản ánh trị giá hiện có và tình hình biến động hàng hoá nhập khẩu đã nhập kho của doanh nghiệp kết cấu của tài khoản. Bên nợ: Trị giá hàng nhập khẩu đã nhập kho Thuế nhập khẩu của số hàng đã nhập kho Chi phí vận chuyển, bốc dỡ hàng nhập khẩu đã nhập kho Trị giá hàng thừa phát hiện trong quá trình nhập kho Bên có: Trị giá thực tế của hàng hoá nhập khẩu xuất kho để bán, giao đại lý ký gửi, thuê ngoài gia công hoặc sử dụng trong doanh nghiệp Chi phí thu mua phân bổ cho hàng nhập khẩu đã tiêu thụ trong định kì Chiết khấu mua hàng nhập khẩu được hưởng, giảm giá hàng nhập khẩu được hưởng Trị giá hàng nhập khẩu trả lại sau khi đã nhập kho do hư hỏng, mất phẩm chất. Trị giá hàng hoá nhập khẩu bị phát hiện thiếu hụt trong kho Số dư bên nợ: Trị giá hàng hoá nhập khẩu còn tồn kho cuối kỳ Chi phí mua hàng phân bổ cho hàng nhập khẩu chưa được tiêu thụ cuối kỳ. Tài khoản 112 (1122): tiền gửi ngân hàng Dùng để phản ánh số hiện có và tình hình biến động của các khoản tiền gửi của doanh nghiệp tại ngân hàng, tại kho bạc Nhà nước hoặc công ty tài chính. Bên nợ: các khoản tiền gửi vào ngân hàng Bên có: các khoản rút ra từ ngân hàng Số dư bên nợ: số tiền doanh nghiệp hiện có gửi tại ngân hàng Ngoài ra kế toán hoạt động ngân hàng còn sử dụng một số tài khoản khác: Tài khoản 515 (doanh thu hoạt động tài chính) và tài khoản 635 (chi phí hoạt động tài chính) để thay thế cho tài khoản 413 (chênh lệch tỷ giá) để phản ánh số chênh lệch do thay đổi tỷ giá ngoại tệ. TK111: tiền mặt 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan