Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoàn thiện quản trị rủi ro tín dụng...

Tài liệu Hoàn thiện quản trị rủi ro tín dụng

.DOC
53
131
136

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦU Xu hướng tự do hóa trong lĩnh vực tài chính đã tạo ra cơ hội cho các nhà ngân hàng thương mại mở rộng hoạt động về mặt địa lý, giúp cho các nhân hàng hạn chế được những tổn thương do những thay đổi điều kiện kinh tế trong nước. Tuy nhiên, cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính trên phạm vi toàn cầu cũng tạo ra một thị trường tài chính rủi ro hơn. Trong bối cảnh đó, không một công ty tài chính hay một ngân hàng nào có thể tồn tại lâu dài mà không có hệ thống quản lý rủi ro hữu hiệu. Việc xây dựng một hệ thống quản lý rủi ro nói chung và quản lý rủi ro tín dụng nói riêng có vai trò sống còn đối với hoạt động hệ thống ngân hàng-tài chính Xuất phát từ nhận thức trên, nhận thấy được tầm quan trọng của vấn đề cùng với việc nghiên cứu tình hình quản trị rủi ro tín dụng thực tế tại Tổng công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt nam, em xin chọn đề tài “ Hoàn thiện quản trị rủi ro tín dụng” cho báo cáo chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Báo cáo thực tập chuyên đề tốt nghiệp nghiệp có kết cấu làm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận về tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng Chương II: Thực trạng về hoạt động tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng tại Tổng công ty tài chính cổ phần dầu khí. Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt đông quản trị rủi ro tín dụng Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn và ban lãnh đạo Tổng công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt nam đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành báo cáo này. CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG 1.1 Tín Dụng 1.1.1 Khái Niệm: Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay và bên đi vay. Trong đó, bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên vay khi đến hạn. 1.1.2 Phân loại tín dụng:  Căn cứ vào thời hạn tín dụng: - Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm thường được dùng để cho vay bổ sung thiếu hụt. - Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm, dùng cho vay vốn mua sắm tài săn cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh. - Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.  Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn: - Tín dụng sản xuất kinh doanh: là loại tín dụng cung cấp cho các nhà doanh nghiệp để tiến hành sản xuất kinh doanh. - Tín dụng tiêu dùng: là hình thức tín dụng cấp phát cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. - Tín dụng nông nghiệp: là hình thức cấp phát tín dụng đáp ứng nhu cầu cho vay vốn của nông dân sản xuất nông nghiệp.  Căn cứ vào mức độ tín nhiệm với khách hàng: - Tín dụng không đảm bảo: là loiaj tín dụng không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung - Tín dụng có đảm bảo: là loại tín dụng dựa trên cơ sở có đảm bảo như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có đảm bảo. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn 1.2 Rủi ro tín dụng và quy trình quản trị rủi ro tín dụng 1.2.1 Khái niệm:  Rủi ro tín dụng: A.Saunders và H.Lange định nghĩa: “Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng khi ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các luồng thu nhập dự tính mang lại từ khoản cho vay của ngân hàng không thể được thực hiện đầy đủ về cả số lượng và thời hạn”. Timothy W.Koch cho sằng: “Rủi ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của vốn xuất phát từ việc vốn vay không được thanh toán hay thanh toán trễ hạn. Rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng, theo quy định tại Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc NHNN, “Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”. Vậy rủi ro tín dụng là những thiệt hại kinh tế mà ngân hàng thương mại phải gánh chịu do khách hàng vay vốn sai hẹn trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ vốn gốc và nợ lãi hoặc không hoàn trả được nợ vay của ngân hang do các nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Rủi ro tín dụng gây tổn thất về tài chính cho NHTM, đó là làm giảm thu nhập ròng và giảm giá trị thị trường của vốn; trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua lỗ, hoặc ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản.  Quản trị rủi ro tín dụng: Đối với rủi ro tín dụng, trước hết, nên coi đó là một hiện tượng có thể xảy ra ngoài mong muốn của ngân hàng khi thực hiện cho vay đối với khách hàng.Với quan niệm như vậy, mỗi khi bắt đầu xem xét một khoản tín dụng, ngân hàng cần lường trước những rủi ro có thể xảy ra.Đây cũng chính là xuất phát điểm hình thành nên ý tưởng quản trị rủi ro tín dụng của NHTM. Mặc dù rủi ro tín dụng là một hiện tượng tiềm ẩn và không phải bao giờ cũng xảy ra khi ngân hàng cho khách hàng vay vốn nhưng trong nhiều trường hợp do tính lặp lại của rủi ro nên người ta có thể nhận biết được tính quy luật của nó. Chính vì điều này mà ngân hàng có thể tìm ra những biện pháp quản lý nhằm hạn chế khả năng xảy ra rủi ro tín dụng và giảm thiểu tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra. Như vậy, “quản lý rủi ro tín dụng là một trong những nội dung quản lý của NHTM bao gồm: nhận biết và đánh giá mức độ rủi ro, thực thi các biện pháp hạn chế khả năng xảy ra rủi ro và giảm thiểu tổn thất khi rủi ro tín dụng xảy ra.” 1.2.2 Phân loại rủi ro tín dụng Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia thành các loại sau:  Rủi ro giao dịch: là một hình thức rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận là rủi ro lực chọn, rủi ro đảm bảo và rủi ro nghiệp vụ.  Rủi ro lựa chọn: là rủi ro co liên quan đến quá trình đánh giá, phân tích tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay.  Rủi ro đảm bảo: phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản của hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể bảo đảm, cách thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.  Rủi ro nghiệp vụ: là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề.  Rủi ro danh mục: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay, được phân chia thành hai loại: rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.  Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế, xuất phát từ đặc điểm của hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.  Rủi ro tập trung: là trường hợp tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động trong một ngành, lĩnh vực kinh tế, hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định, hoặc cũng một loại hình cho vay có rủi ro cao. 1.2.3 Nguyên nhân của rủi ro tín dụng:  Nguyên nhân khách quan:  Rủi ro do nền kinh tế không ổn định: Khi tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh, bao giờ doanh nghiệp cũng tiến hành đánh giá tình hình thị trường cũng như đưa ra những dự báo phát triển thị trường, dự báo tăng trưởng doanh số. Nếu nền kinh tế thế giới cũng như nền kinh tế trong nước vận hành theo quỹ đạo đã dự báo thì doanh nghiệp sẽ thực hiện tốt các kế hoach đề ra. Tuy nhiên, ta biết rằng: Nền kinh tế Việt Nam hiện giờ đang phụ thuộc nhiều vào các ngành sản xuất nông nghiệp và các ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Mà những ngành này lại phụ thuộc nhiều vào rủi ro thời tiết. Khi nền kinh tế thế giới bị khủng hoảng, tất yếu sẽ có ảnh hưởng lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh như dệt may, xuất khẩu hàng nông sản (xuất khẩu cafe, hạt điều, xuất khẩu cá basa,..) có nguy cơ không bán được khi nền kinh tế thế giới bị khủng hoảng. Hoặc một sự thay đổi trong chính sách nhập khẩu (tăng thuế, giảm hạn ngạch, thay đổi tiêu chuẩn nhập khẩu) tại các nước sở tại ảnh hưởng đến sản lượng xuất khẩu.  Rủi ro do các thủ tục pháp lý: Sự chậm trễ, rườm rà trong các thủ tục cấp giấy phép, các thủ tục hải quan… nhiều lúc ảnh hưởng lớn đến cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong khi đó, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp có tính thời điểm, nhưng nó sẽ không thể thực hiện nhanh chóng nếu không được “cởi trói” bởi các thủ tục pháp lý. Việc chậm trễ sẽ dẫn đến hệ quả của hàng loạt các hợp đồng kinh tế bị đình trệ, các dự án đầu tư “buộc lòng” phải “treo” trên giấy. Điều này gây tổn thất lớn về mặt kinh tế đối với các doanh nghiệp vay vốn.  Rủi ro do hàng hóa nhập lậu tràn vào trong nước: Hàng hóa nhập lậu vào Việt Nam qua các con đường vùng biên từ lâu đã là nỗi “ám ảnh” của các doanh nghiệp trong nước. Hàng hóa nhập lậu có ưu điểm rẻ hơn về giá cả, loại hình phong phú đánh mạnh vào nhu cầu của đại bộ phận người tiêu dùng có thu nhập thấp. Các mặt hàng về đồ điện tử, kim khí, quần áo, mỹ phẩm là một minh chứng cho hiện tượng trên. Các rủi ro cơ bản trên đã ảnh hưởng tới tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Một khi các đồng vốn mà doanh nghiệp đi vay đổ vào sản xuất kinh doanh mà không thu lại được, tất yếu sẽ đẩy doanh nghiệp tới việc mất dần khả năng trả nợ. Ngân hàng cũng đứng trước nguy cơ khó thu hồi lại khoản cho vay này.  Nguyên nhân chủ quan: Rủi ro chủ quan đến từ cả hai phía là Công ty Tài chính (hoặc Ngân hàng TM) và Doanh nghiệp đi vay:  Đối với Công ty Tài chính (hoặc Ngân hàng TM): Công ty Tài chính (hoặc Ngân hàng TM) thực hiện cho vay đối với các doanh nghiệp: Các ngành nghề của các doanh nghiệp đi vay là rất đa dạng: Đa phần các cán bộ tín dụng không thể có đầy đủ thông tin cũng như hiểu biết về các ngành nghề lĩnh vực mà doanh nghiệp đang đầu tư kinh doanh. Hơn nữa, các cán bộ tín dụng cũng rất khó thẩm định được số liệu tài chính do các Doanh nghiệp cung cấp có đúng và chính xác tuyệt đối hay không. Ta đã biết, hiện tại các doanh nghiệp, công tác kế toán chi phí chưa được thực hiện hóa chuyên nghiệp, ghi chép liên tục rõ ràng. Vì thế, khi các cán bộ tín dụng sử dụng các báo cáo tài chính do doanh nghiệp cung cấp để phân tích trong công tác thẩm định sẽ có thể đưa ra cái nhìn lệch lạc, thiếu chuẩn xác. Chính vì rất khó khăn trong việc đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, nên thường có xu hướng ưu tiên các hồ sơ vay vốn có tài sản thế chấp, tài sản đảm bảo. Tuy nhiên khi dẫn đến việc xử lý thu hồi nợ cũng rất khó khăn. Theo các văn bản hướng dẫn cưỡng chế thu hồi nợ đều ghi rõ: "Trong trường hợp doanh nghiệp không đảm bảo khả năng thanh toán, Công ty Tài chính (hoặc Ngân hàng TM) có quyền xử lý tài sản nợ vay". Trên thực tế, Công ty Tài chính là một tổ chức kinh tế, không phải là một cơ quan quyền lực Nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Hơn nữa các thủ tục pháp lý kiện ra tòa án để thực hiện xử lý tài sản thế chấp cũng rất rườm rà, gây mất chi phí Trình độ của các cán bộ tín dụng đôi khi còn khá hạn chế. Ngoài ra còn có nhiều cán bộ tín dụng vì những lợi ích vật chất sẵn sàng tiếp tay cho các doanh nghiệp để làm giả hồ sơ giấy tờ để xin vay vốn. Chính điều này đã dẫn đến những rủi ro rất lớn ngay từ khâu giải ngân.Hơn nữa các doanh nghiệp này phần nhiều có tình hình tài chính không minh bạch, không đáp ứng được những điều kiện giải ngân.  Đối với doanh nghiệp: Nhiều doanh nghiệp không đánh giá hết được những rủi ro khi sử dụng đồng vốn, đánh giá chi phí vốn cũng như khả năng sinh lợi của đồng vốn.Đa phần các doanh nghiệp khi dùng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh thường đầu tư vào mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư vào cơ sở vật chất mà cái quan trọng nhất là đầu tư phát triển kỹ năng của nguồn nhân lực của công ty. Khi doanh nghiệp mở rộng quy mô mà tư duy quản lý không thay đổi, trình độ của đội ngũ quản lý không được đảm bảo thì doanh nghiệp tất yếu phải đối mặt với những rủi ro về khả năng quản lý sản xuất, dẫn đến nhiều sai lầm trong quá trình ra quyết định quản lý kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp sử dụng không đúng như mục đích đăng ký ban đầu trong hồ sơ xin vay vốn.Đồng vốn không sử dụng đúng mục đích tất yếu sẽ khó khăn trong việc kiểm soát dòng vốn cũng như kiểm soát rủi ro của đồng vốn. Ví dụ: Một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khi vay vốn về đã sử dụng một phần vốn đi vay để đầu tư vào thị trường chứng khoán. Khi thị trường chứng khoán tụt dốc, tất yếu sẽ làm “thua lỗ” phần vốn đã đầu tư vào đó. Hệ quả là doanh nghiệp sẽ không thu được lãi từ sự đầu tư, lãi từ lĩnh vực sản xuất không đủ bù. 1.2.4 Thiệt hại từ rủi ro tín dụng:  Đối với nền kinh tế Hoạt động ngân hàng, tài chính liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, các ngành và các cánhân, vì vậy khi một ngân hàng, công ty tài chính gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiềnở các nơi khác có tâm lý hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đi rút tiền, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng, tài chính gặp khó khăn. Ngân hàng, công ty tài chính phá sản sẽ ảnhhưởng đến tình hình sản suất kinh doanh của doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫnđến đời sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn này gây ảnhhưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng,sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnhhưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vàonền kinh tế khu vực và thế giới.  Đối với công ty tài chính Khi gặp rủi ro tín dụng, công không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi chovay, nhưng vẫn phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều nàlàm cho mất cân đối trong việc thu chi. Khi không thu được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm ngân hàng kinh doanh không có hiệu quả. Khi gặp phải rủi ro tín dụng thường rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản, làm mất lòng tin người gửi tiền, ảnh hưởng đến uy tín của công ty, bị cấp trên khiển trách. Đối với cấpdưới, do gặp phải rủi ro tín dụng nên không có tiền trả lương cho nhân viên vì thế những người có năng lực sẽ thuyên chuyển công tác, gây khó khăn cho ngân hàng, công ty tài chính.Nói tóm lại, rủi ro tín dụng xảy ra ở mức độ khác nhau: nhẹnhất là công ty tài chính bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị thua lỗ vàmất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được thì sẽ dẫn tới phá sản, gâyhậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng tài chính nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị phải hết sức thận trọng và có những biện phápthích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay 1.2.5 Nguyên tắc Basel về quản trị rủi ro tín dụng: Hội đồng giám sát Basel là một Ủy ban bao gồm các chuyên gia giám sát hoạt động ngân hàng, tài chính nhằm đảm bảo những nguyên tắc giám sát về yêu cầu vốn nhằm chống đỡ rủi ro trong hoạt động ngân hàng, tài chính. Được thành lập từ năm 1975, Ủy ban Basel ban đầu bao gồm thành viên là thống đốc Ngân hàng Trung ương các nước G10 (Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Ý, Nhật, hà Lan, Thụy Điển, Bỉ và Canada) nhưng sau đó được khuyến khích áp dụng trên toàn thế giới đặc biệt là trong việc kiểm soát hoạt động ngân hàng tài chính quốc tế. Từ chỗ là diễn đàn trao đổi kinh nghiệm, hợp tác quốc tế về thanh tra và giám sát ngân hàng, hoạt động tài chính, Ủy ban Basel ngày nay đã trở thành cơ quan xây dựng và phát triên cac chuẩn mực cho hoạt động tài chính, ngân hàng được quốc tế công nhận. Ủy ban Basel đã ban hành các nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín dụng, đmả bảo tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động cấp tín dụng. Tháng 7 năm 2004, Ủy ban Basel cho ra đời ấn phẩm mang tên “Hiệp ước quốc tế về tiêu chuẩn vốn và đo lường rủi ro” hay còn gọi là Hiệp ước Basel II. Hiệp ước Basel II hướng đến thực hiện 3 mục tiêu: - Đảm bảo phương pháp tính mức vốn an toàn - Đo lường tách bách rủi ro hoạt động và rủi ro tín dụng - Tăng cường quản trị toàn cầu hóa tài chính, ngân hàng thống nhất giữa các quốc gia. Với ba mục tiêu nêu trên, nội dung chính của Basel II được tóm tắt trong ba trụ cột: - Trụ cột thứ nhất: Xoay quanh rủi ro tín dụng, yêu cầu vốn tối thiểu, đưa ra yêu cầu mức vốn tối thiểu và phương pháp đanh giá rủi ro. - Trụ cột thứ 2: Quy định về giám sát hoạt động tài chính, ngân hàng - Trụ cột thứ 3: Yêu cầu về việc công bố thông tin hoạt động tài chính, ngân hàng cho các đối tượng liên quan. Trong đó, nội dung cơ bản của Basel II là đưa ra các phương pháp và nguyên tắc về quản trị rủi ro tín dụng, kiểm soát nợ xấu, bao gồm: - Xây dựng môi trường tín dụng thích hợp: yêu cầu xem xét đánh gái rủi ro tín dụng phải là chiến lược xuyên suốt (mức độ chấp nhận rủi ro, tỷ lệ nợ xấu...), trên cơ sở đó phát triển các chính sách nhằm phát hiện, theo dõi và kiểm soát nợ xấu trong mọi hoạt động, đối với từng khoản cấp tín dụng cụ thể và nâng lên tầm kiểm soát rủi ro và các danh mục đầu tư. - Thực hiện cấp tín dụng lành mạnh: Các ngân hàng cần xác định rõ ràng các tiêu chí cấp tín dụng lành mạnh (xác định thị trường mục tiêu, đối tượng khách hàng tiềm năng; điều kiện cấp tín dụng...) để xây dựng các hạn mức tín dụng phù hợp cho từng loại khách hàng trên cơ sở các thông tin định lượng, định tính, kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng. Công ty tài chính, ngân hàng phải có các quy định rõ ràng trong đề xuất tín dụng, phê duyệt và sửa đổi tín dụng, có sự phân tách nhiệm vụ rạch ròi giữa các bộ phận có liên quan đến công tác tín dụng. Việc cấp tín dụng cần tuân thủ nguyên tắc cẩn trọng trên cơ sở giao dịch công bằng giữa các bên. - Duy trì quá trình quản trị và theo dõi tín dụng phù hợp: Tùy theo quy mô của từng công ty tài chính, ngân hàng để xây dựng hệ thống quản trị phù hợp, kịp thời nắm bắt các thông tin từ phía khách hàng về tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh, mức độ thực hiện cam kết... nhằm sớm phát hiện các dấu hiệu bất thường, kiểm soát tốt các khoản vay có vấn đề. Đồng thời, các biện pháp quản lý và khách phục các khoản nợ xấu cũng cần được đề ra cụ thể. - Uỷ ban Basel cũng khuyến khích xây dựng và hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, tạo tiền đề cho việc phân loại; đánh giá khách hàng dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau, phân biệt các mức độ rủi ro tín dụng tương ứng với từng đối tượng để có biện pháp quản lý phù hợp nhằm giảm thiểu rủi ro 1.2.6 Quy trình quản trị rủi ro tín dụng: 1.2.6.1 Nhận diện và phân loại rủi ro Nhận dạng rủi ro bao gồm các bước: theo dõi, xem xét, nghiên cứu môi trường hoạt động và quy trình cho vay để thống kê các dạng rủi ro tín dụng, nguyên nhân từng thời kỳ và dự báo được những nguyên nhân tiềm ẩn có thể gây ra rủi ro tín dụng Hầu hết các công ty tài chính trên thế giới hiện nay đều có các khoản tín dụng có vấn đề với số lượng ít hoặc nhiều. Trong khi nội dung các khoản vay này thường khác nhau trong các tình huống khác nhau, nhưng một số đặc điểm chung của các khoản tín dụng này có thể nêu ra như sau: - Sự chậm trễ bất thường và không có lý do trong việc cung cấp cac báo cáo tài chính và lịch trả nợ đã thỏa thuận - Phát sinh các khoản nợ cầu phải cơ cấu lại - Giá cổ phiếu công ty thay đổi bất lợi, thu nhập ròng giảm trong một hay nhiều năm, đặc biệt quan tâm đến các chỉ tiêu ROA, ROE, EBIT; hạn chế trả cổ tức - Những bất lợi trong cơ cấu nguồn vốn, thanh khoản hay mức độ hoạt động. - Những thay đổi bất ngờ về số dư tiền gửi tại ngân hàng theo chiều hướng sụt giảm 1.2.6.2 Tính toán, cân nhắc các mức độ rủi ro và mức độ chịu đựng tổn thất khi xảy ra rủi ro: Để đo lường rủi ro, cần thu thập số liệu và phân tích đánh giá mức độ rủi ro dựa trên các tiêu chuẩn được đặt ra. Đánh giá rủi ro khách hàng vay Về cơ bản có 2 công cụ là xếp loại tín dụng (Credit rating) đối với KHDN và chấm điểm tín dụng (Credit scoring) đối với KHCN.Về bản chất cả 2 công cụ đều dùng để xếp loại tín dụng.  Chấm điểm tín dụng chỉ áp dụng để đánh giá mức độ RRTD đối với khoản vay của doanh nghiệp nhỏ và cá nhân. Chấm điểm tín dụng chủ yếu dựa vào thông tin phi tài chính, các thông tin cần thiết trong Giấy đề nghị vay vốn cùng với các thông tin khác về KH do NH thu thập được nhập vào máy tính, thông qua hệ thống thông tin tín dụng để phân tích; xử lý bằng phần mềm cho điểm. Kết quả chỉ ra mức độ RRTD của người vay. Hiệu quả kỹ thuật này cao, giúp ích cho quản trị rủi ro đối với KH là cá nhân và doanh nghiệp nhỏ. Vì đối tượng này không có báo cáo tài chính, hoặc không đầy đủ, thiếu tài sản thế chấp, thiếu thông tin nên thường khó khăn trong tiếp cận  Xếp loại tín dụng áp dụng đối với doanh nghiệp lớn, có đủ báo cáo tài chính, số liệu thống kê tích lũy nhiều thời kỳ phục vụ cho việc xếp loại. Áp dụng rộng rãi hơn, không những trong hoạt động ngân hàng- tài chính, kinh doanh chứng khoán mà còn trong kinh doanh thương mại, đầu tư, … Xác định phần bù rủi ro và giới hạn tín dụng an toàn tối đa đối với một KH sau đó trích lập dự phòng rủi ro. Bao gồm 2 loại phân tích:  Phân tích phi tài chính: Sử dụng các mô hình như 6C, 5P,. Tuy tên gọi các tiêu chuẩn khác nhau, nhưng về bản chất, cách xem xét các yếu tố để cấp tín dụng thì các mô hình trên đều tương đồng nhau  Phân tích tài chính: Đối với khoản vay của doanh nghiệp, thì ngoài các yếu tố phi tài chính, còn sử dụng các chỉ tiêu tài chính để đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Đây là việc phân tích hiện trạng tài chính, khái quát khả năng quản trị vốn và các hoạt động kinh doanh qua số liệu trong các báo cáo tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm đó. Một số chỉ tiêu phân tích tài chính thường áp dụng là: nhóm chỉ tiêu thanh khoản, nhóm chỉ tiêu hoạt động, nhóm chỉ tiêu cân nợ, nhóm chỉ tiêu doanh lợi, … Tùy theo từng loại hình tín dụng mà Tổng công ty quan tâm đến các chỉ số khác nhau: cho vay ngắn hạn thì lưu ý đến các chỉ số lưu động, cho vay dài hạn thì quan tâm đến chỉ số sinh lời, khả năng trả nợ. Bên cạnh đó, tùy theo loại hình doanh nghiệp (doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, …), loại hình kinh doanh(thương mại, sản xuất) để xây dựng nhóm tỷ số trung bình ngành, từ đó có bước so sánh trong khi phân tích. Tính toán tổn thất tín dụng: sử dụng hệ thống cơ sở dữliệu nội bộ để đánh giá rủi ro tín dụng, từ đó xác định hệ số an toàn vốn tối thiểu, khả năng tổn thất tín dụng: Với mỗi kỳ hạn xác định, tổn thất có thể được tính dựa trên công thức sau: EL = PD x EAD x LGD EL: Expected Loss: Tổn thất tín dụng ước tính PD: Probability of Default: Xác xuất không trả được nợ EAD: Exposure at Default: Tổng dư nợ của KH tại thời điểm không trả được nợ LGD: Loss Given Default: Tỷ trọng tổn thất ước tính  PD: Để tính toán nợ trong vòng 1 năm của khách hàng, căn cứ trên số liệu dư nợ của khách trong vòng ít nhất là 5 năm, bao gồm các khoản nợ đã trả, khoản nợ trong hạn và khoản nợ không thu hồi được, dữ liệu được phân thành 3 nhóm sau: – Nhóm dữ liệu tài chính liên quan đến các hệ số tài chính của khách hàng cũng như các đánh giá của các tổ chức xếp hạng – Nhóm dữ liệu định tính phi tài chính liên quan đến trình độ quản lý, khả năng nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, các dữ liệu về khả năng tăng trưởng của ngành đó, … – Nhóm dữ liệu mang tính cảnh báo liên quan đến các hiện tượng báo hiệu khả năng không trả được nợ cũng như số dư tiền gửi, hạn mức thấu chi … Từ những dữ liệu trên, các cán bộ nhập vào một mô hình định sẵn, từ đó tính xác xuất không trả được nợ của khách hàng  EAD: Đối với các khoản vay có kỳ hạn, việc xác định EAD là dễ dàng. Tuy nhiên, đối với khoản vay theo hạn mức tín dụng thì lại khá phức tạp. Thông thường tại thời điểm không trả được nợ, khách hàng có xu hướng rút vốn vay xấp xỉ hạn mức được cấp EAD = Dư nợ bình quân + LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân LEQ: Loan Equivalent Exposure: Tỷ trọng phần vốn chưa sử dụng (LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân): Là phần khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ ngoài mức dư nợ bình quân Việc xác định LEQ có ý nghĩa quyết định đối với độ chính xác của ước lượng về dư nợ của khách hàng tại thời điểm không trả được nợ.Cơ sở xác định LEQ là các số liệu quá khứ, điều này gây khó khăn trong tính toán.Chẳng hạn như, khách hàng uy tín, trả nợ đầy đủ thường ít khi rơi vào trường hợp này, nên không thể tính chính xác LEQ. Ngoài ra, loại hình kinh doanh của khách hàng, khả năng khách hàng tiếp cận với thị trường tài chính, quy mô hạn mức tín dụng, tỷ lệ dư nợ đang sử dụng so với hạn mức,…làm cho việc xác định LEQ trở nên phức tạp  LGD gồm tổn thất về khoản vay và các tổn thất khác phát sinh khi khách hàng không được trả nợ, đó là lãi suất đến hạn nhưng không được thanh toán và các chi phí hành chính có thể phát sinh như chi phí xử lý tài sản thế chấp. chi phí cho các dịch vụ pháp lý và một số chi phí liên quan khác LGD = (EAD - Số tiền có thể thu hồi)/EAD Số tiền có thể thu hồi gồm các khoản tiền mà khách hàng trả và các khoản tiền thu được từ xử lý tài sản thế chấp, cầm cố LGD = 100% - tỷ lệ vốn có thể thu hồi được Khả năng thu hồi vốn thường rất cao hoặc rất thấp nên không thể tính bình quân. Hai yếu tố giữ vai trò quan trọng trong quyết định khả năng thu hồi vốn khi khách hàng không trả được nợ là tài sản đảm bảo và cơ cấu tài sản của khách hàng. Ba phương pháp tính LGD là: – Tỷ trọng tổn thất căn cứ vào thị trường: Sử dụng khi các khoản tín dụng có thể được mua bán trên thị trường. Các cán bộ có thể xác định tỷ trọng tổn thất của một khoản vay căn cứ vào giá của khoản vay đó 1 thời gian ngắn sau khi nó được xếp vào hạng không trả được nợ. Giá này được tính trên cơ sở ước tính của thị trường bằng phương pháp hiện tại hoá tất cả các dòng tiền có thể thu hồi được của khoản vay trong tương lai. - Tỷtrọng tổn thất căn cứ vào việc xử lý các khoản tín dụng không trả được nợ. Cán bộ sẽ ước tính các luồng tiền tương lai, khoản thời gian dự kiến thu hồi được luồng tiền và chiết khấu chúng. Việc xác định lãi suất chiết khấu phù hợp là tương đối khó khăn - Xác định tỷ trọng tổn thất căn cứ vào giá các trái phiếu rủi ro trên thị trường 1.2.6.3 Áp dụng các chính sách, công cụ phòng chống thích hợp với từng loại rủi ro và tài trợ rủi ro Kiểm soát rủi ro: Là việc sử dụng các biện pháp, kỹ thuật, công cụ, chiến lược vàcác chương trình hoạt động để ngăn ngừa, giảm thiểu rủi ro. Căn cứ vào mức độ rủi ro đã được tính toán, các hệ số an toàn tài chính, và khả năng chấp nhận rủi ro mà có những biện pháp phòng chống khác nhau nhằm làm giảm mức độ thiệt hại, có nhiều lựa chọn khác nhau: – Không làm gì bằng cách chủ động hay thụ động chấp nhận rủi ro: với những khoản vay nhỏ thì chi phí cho việc phòng tránh đôi khi còn cao hơn việc chấp nhận mức thiệt hại. Hoặc với xác suất rủi ro quá cao, công ty tài chính né tránh rủi ro bằng cách hạn chế hoặc từ chối cấp tín dụng – Với những khoản vay còn lại, khi đó các công cụ phòng chống rủi ro đặc biệt hữu hiệu để ngăn ngừa, né tránh hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro cũng như tổn thất. Các biện pháp bao gồm: ngăn ngừa rủi ro, bán nợ, phân tán rủi ro, và quản trị rủi ro thông qua công cụ phái sinh. ™ Tài trợ rủi ro: – Theo công bố của Ủy ban Basel, các ngân hàng, công ty tài chính phải thường xuyên dự trữ các nguồn quỹ dự phòng cần thiết, sẵn sàng bù đắp được mọi tổn thất có thể xảy ra để đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh. Tùy theo tính chất của từng loại tổn thất mà được sử dụng những nguồn vốn thích hợp để bù đắp:  Đối với các tổn thất đã lường trước được rủi ro thì có thể sử dụng nguồn vốn từ quỹ dự phòng rủi ro nợ xấu đã được xếp loại theo tiêu chuẩn để bù đắp. Mặc dù nguồn vốn này được trích lập từ chi phí kinh doanh nhưng nếu tỷ lệ trích lập quá cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận và quyền lợi của cổ đông làm giảm uy tín trên thị trường  Đối với các tổn thất không lường trước được rủi ro thì phải dùng vốn tự có làm nguồn dự phòng để bù đắp. Nếu khả năng quản trị rủi ro yếu kém gây ra mức tổn thất cao, vốn tự có của công ty tài chính sẽ bị hao mòn, quy mô tài chính và khả năng cạnh tranh cũng sẽ bị ảnh huởng – Ngoài ra, cần áp dụng các biện pháp khác để tài trợ rủi ro, gồm: Tham gia bảo hiểm trong suốt quá trình cấp tín dụng, xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ,... 1.2.6.4 Theo dõi, đánh giá và điều chỉnh phương pháp phòng chống – Việc báo cáo kịp thời, theo đúng yêu cầu về rủi ro là công cụ hỗ trợ đắc lực cho công tác kiểm tra kiểm soát, quản trị rủi ro. Định kỳ và nội dung báo cáo được áp dụng thích hợp cho từng đối tượng nhận báo cáo Chẳng hạn như báo cáo cho Hội đồng Quản trị và Tổng giám đốc thì chỉ tậptrung vào đánh giá chung, tổng hợp rủi ro và chỉ nêu ra các rủi ro lớn nhất, các biện pháp, chiến lược. Báo cáo cho lãnh đạo bộ phận nghiệp vụ thì yêu cầu chi tiết hơn và chỉ tập trung vào một loại rủi ro. 1.3Một số tiêu chí đánh giá rủi ro, chất lượng tín dụng: Để có thể đánh giá được đúng mức độ rủi ro tín dụng của các Ngân hàng và công ty tài chính cần phải dựa trên một số chỉ tiêu sau: - Chỉ tiêu: Tổng dư nợ tín dụng trên tổng tài sản có Dư nợ tín dụng Tổng tài sản có Đây là chỉ số tổng quan về quy mô hoạt động. Chỉ tiêu này phảnánh hiệu quả tín dụng của một đồng tài sản có. Có thể đánh giá kèm với chỉ tiêu: Dư nợ tín dụng Tổng nguồn vốn huy động Từ đó có thể đánh giá được, rằng hiệu quả sử dụng vốn nói chungvà hiệu quả sử dụng vốn huy động nói riêng. Rủi ro tín dụng chỉ có thể xảyra khi bản thân ngân hàng, công ty tài chính cho vay quá nhiều so với tiêu chuẩn an toàn của Ngânhàng Nhà nước, so với quy mô vốn huy động. - Chỉ tiêu: Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ Nợ quá hạn Tổng dư nợ Đây là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá chất lượng tín dụng. Chỉ tiêu này càng thấpcàng tốt, nhưng ngược lại không thể đánh giá rằng khi chỉ số này vượt quá tiêuchuẩn chung của ngành thì là xấu. Để có thể đánh giá được một cách chính xáchơn về tình hình nợ quá hạn ta cần phải đánh giá kèm theo chỉ tiêuvòng quay của các khoản nợ quá hạn, khả năng giải quyết các khoản nợ quáhạn. Bởi vì, tỷ lệ nợ quá hạn cao mà khả năng giải quyết nợ quá hạn hay vòngquay của các khoản nợ quá hạn cao thì khả năng gặp rủi ro tín dụng sẽ rất thấp. Và ngược lại, ngân hàng, công ty tài chính sẽ gặp rủi ro tín dụng. - Chỉ tiêu: Nợ khó đòi trên tổng nợ quá hạn Nợ quá hạn khó đòi Tổng nợ qua hạn Tỷ lệ này đánh giá các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày, được xác định là khôngcó khả năng thu hồi. Tỷ lệ này cao chứng tỏ khả năng thu hồi vốn thấp, nguy cơ mất vồn cao, chất lượng tín dụng thấp. - Chỉ tiêu: Mức độ chênh lệch thời lượng của tài sản có vời tài sản nợ Chỉ tiêu này phản ánh nếu kế hoạch huy động vốn và sử dụng vốn không có sựnhất quán thì sẽ dẫn đến nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng rất cao. Đánh giá mức độ ảnh hưởng củasự chênh lệch của thời lượng có thể dựa vào công thức sau: ∆E =∆A -∆L Trong đó: +∆A = -DA.A.∆i 1+i ∆L = - DL.L.∆i 1+i Với: * i : lãi suất * DA, DL: là thời lượng của toàn bộ tài sản có và tài sản nợ * A, L : là giá trị của tài sản có và tài sản nợ Trong trường hợp ∆E < 0, chứng tỏ rằng ngân hàng, công ty tài chính gặp rủi ro trong hoạt độngkinh doanh, trong đó có cả rủi ro tín dụng. 17 1.4 Kinh nghiệm quản trị rủi ro tín dụng ở một số nước trên thế giới: 1.4.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc: Từ một số nguyên nhân chính gây ra các khoản nợ xấu tại Trung Quốc, là một nướccó cácđiều kiện tương tự - chúng ta có thể họchỏi kinh nghiệm để hạn chếđược những nguy cơ tiềm ẩn gây nên rủi ro tín dụng. Nguyên nhân các khoản nợ xấu : – Dư nợ tín dụng tăng quá nhanh trong khi đó trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng chưa thực sự đạt chuẩn. – Tài sản thế chấp: Cho vay dựa vào thế chấp, người bảo lãnhmà không đánh giá các nguồn trả nợ chính. Tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản thế chấp quá cao,cho vay với kỳ vọng tài sản hình thành từ vốn vay sẽ có giá trị cao, tuy nhiên tình trạng sốt và giảm giá nhà đất nghiêm trọng gần đây đã làm cho trị giá thế chấp khôngđủ bùđắp khoản vay, thanh khoản kém, nguy cơ không trảđược nợ là rất lớn. – Thông tin về khách hàng: Không thu thập đầy đủ thông tin khách hàng vay, hồ sơ pháp lý không đầy đủ; không thu thập, xác minh và phân tích các báo cáo trong suốt thời hạn hiệu lực của khoản vay. – Không văn bản hóa thỏa thuận cụ thể về mục đích và cách sử dụng khoản vay cũng như kế hoạch nguồn trả nợ. – Giám sát sau giải ngân kém: không giám sát các khoản cho vay xây dựng như kiểm tra tình hình thực tế, tiến độ rút vốn vay,... Không nhận biết được các dấu hiệu cảnh báo như chu kỳluân chuyển tồn kho và khoản phải thu chậm lại, chu kỳ các khoản phải trả dài ra và xuất hiện lỗ ròng trong kinh doanh. ™ Mua bán nợ xấu: – Từ năm 2002, Trung Quốc đã cho phép hình thành thị trường mua bán nợ xấu giữa các ngân hàng, công ty tài chính với sự tham gia của rất nhiều thành phần quốc doanh, tư nhân, trong nước và quốc tế. Trung Quốc cho rằng, nếu chỉ để cho các thành phần quốc doanh mua bán trên thị trường này, quá trình định giá sẽ không thực sự cạnh tranh. Vì thế, Chính phủ cho phép Morgan Stanley và 18 sau này là các ngân hàng đầu tư khác của Mỹ không chỉ tham gia mua cổ phần mà còn được phép mua bán nợ xấu. – Sở dĩ hoạt động này trên thế giới thông suốt vì có hệ thống pháp lý tốt và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho thị trường này phát triển như nhân lực có tay nghề cao, cung cấp dịch vụ một cách bài bản... 1.4.2 Kinh nghiệm của Nhật Bản: Bài học kinh nghiệm của các công ty tài chính ở Nhật: – Chủ động trong việc đánh giá một khách hàng có tiềm năng rủi ro trong tương lai gần và xa, từ đó có biện pháp xử lý càng sớm càng tốt; Nếu mức lỗ của vượt quá khả năng của các ngân hàng và công ty tài chính, ngân hàng nhà nước sẽ dùng các nguồn quỹ quốc gia để can thiệp. – Hiện nay ở Nhật đã xử lý thành công các vấn đề liên quan đến tài sản không thu hồi được. Tổ chức dịch vụ tài chính (The Financial Service Agency) đóng vai trò quan trọng trong việc thúc ép việc thực hiện công tác dự phòng cần thiết cũng như xử lý những khoản nợ xấu mà trước đây đã từng gây ra các khoản lỗ lớn kéo dài trong nhiều năm đối với hầu hết các ngân hàng. 1.4.3 Kinh nghiệm của Mỹ và Châu Âu – xử lý nợ xấu Hệ thống ngân hàng- tài chính ở Mỹ nhấn mạnh vào lối ra cho các khoản nợ xấu và tránh việc thu hồi nợ. Việc tất toán khoản nợ xấu chỉ nên xem xét khi đó là cách cuối cùng để thu hồi khoản vay có vấn đề, vì thu hồi có thể hiệu quả hơn thông qua việc tiếp tục trả nợ của một doanh nghiệp vẫn đang hoạt động hơn là phải tất toán tài sản. Ví dụ như trường hợp của JPMorgan và Bank of America đã bắt đầu nỗ lực hoãn các vụ tịch thu tài sản để trả nợ và nỗ lực làm việc với các chủ nợ để họ vẫn có thể trả tiền. Các biện pháp phổ biến thường là giảm lãi suất và giảm giá trị các khoản chi trả để người vay tiền vẫn có thể trả tiền mà không phải bán tài sản thế chấp. Tại Mỹ và Châu Âu, chính phủ cũng đã bơm tiền vào các ngân hàng, nhờ đó nhiều ngân hàng, tổ chức tín dụng lớn đã mua lại các ngân hàng và tổ chức 19 tín dụng nhỏ đang trên bờ vực phá sản, sau đó chính sách hỗ trợ khách hàng của ngân hàng lớn áp dụng luôn cho khách hàng của ngân hàng nhỏ. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI TỔNG CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ PHẦN DẦU KHÍ VIỆT NAM 2.1Giới thiệu về Tổng công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam: Tên công ty Địa chỉ Điện thoai E-mail Hotline Tổng Công ty Tài : Tổng Công Ty Tài Chính Dầu Khí Việt Nam : Số 22 Ngô Quyền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội : (84) 4 39426800 – Fax: (84) 4 39426796/97 : [email protected] : 18001525 chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVFC) là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tiền thân là Công ty Tài chính Dầu khí, thành lập ngày 19/6/2000 với phương châm hoạt động “Vì sự phát triển vững mạnh của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam”. Lĩnh vực hoạt động quan trọng của PVFC là thu xếp nguồn vốn cho PVN, PVFC đã chủ động hợp tác với các tổ chức tín dụng, định chế tài chính lớn trong và ngoài nước; xây dựng và triển khai kế hoạch, thu xếp vốn kịp thời, đáp ứng nhu cầu về vốn cho các PVN và các đơn vị thành viên triển khai các dự án đầu tư đúng tiến độ, bảo đảm yêu cầu tăng trưởng của ngành Dầu khí. Các sản phẩm dịch vụ: Khách hàng doanh nghiệp:  Tín dụng: Cho vay vốn lưu động Tín dụng dự án Bao thanh toán Bảo lãnh  Nhận tiền gửi:  Dịch vụ tài chính: Thu xếp vốn Nhận quản lý vốn ủy thác 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan