LỜI MỞ ĐẦU
Sau hơn 15 năm thực hiện chính sách mở cửa để hội nhập và
phát triển, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Có được kết quả này chúng ta phải kể đến những đóng góp đáng kể
của hoạt động xuất khẩu. Trong những năm qua, hoạt động xuất
khẩu hàng hoá đã đem về cho nước ta hàng tỷ USD, góp phần tăng
dự trữ ngoại tệ, trang trải một phần nhu cầu nhập khẩu máy móc,
trang thiết bị tiên tiến phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nước, đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, hội nhập
với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Với sự phát triển không ngừng của hoạt động thương mại quốc
tế nói chung cũng như hoạt động xuất khẩu nói riêng thì yêu cầu
thanh toán nhanh, chính xác càng khẳng định là một khâu quan trọng
không thể thiếu trong việc thực hiện giao dịch buôn bán. Đối với đơn
vị xuất khẩu, việc thanh toán chính là yếu tố quyết định đến kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Chính vì vậy, việc xem
xét, phân tích, đánh giá hoạt động thanh toán quốc tế là hết sức cần
thiết.
Mục tiêu “hướng nền kinh tế vào xuất khẩu “ mà Đảng và Nhà
nước chủ trương lựa chọn đã được các doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh xuất nhập khẩu hưởng ứng và tích cực tham gia trong đó có sự
đóng góp không nhỏ của Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp I - Bộ
Thương Mại. Qua thời gian thực tập tại Công ty, em thấy hoạt động
thanh toán quốc tế đối với hoạt động xuất khẩu của Công ty là một
1
vấn đề cần quan tâm và tìm hiểu. Được sự giúp đỡ của PGS.TS
Hoàng Đức Thân và các cô chú trong phòng nghiệp vụ 6, em đã lựa
chọn đề tài : “Hoàn thiện phương thức thanh toán quốc tế đối với
hoạt động xuất khẩu ở Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp I - Bộ
Thương Mại” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Luận văn bao gồm các nội dung sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động thanh toán quốc tế
đối với hàng hoá xuất khẩu
Chương 2: Thực trạng các phương thức thanh toán quốc tế đối
với hoạt động xuất khẩu tại Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp I Bộ Thương Mại
Chương 3: Một số biện pháp hoàn thiện phương thức thanh toán
quốc tế đối với hoạt động xuất khẩu ở Công ty Xuất nhập khẩu
Tổng hợp I - Bộ Thương Mại
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài, do còn hạn chế về
mặt lý luận cũng như kinh nghiệm thực tế nên luận văn không tránh
khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung của
các thầy và các cô chú trong Công ty để luận văn của em được hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Hoàng Đức Thân và các
cán bộ Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp I đã tạo điều kiện giúp đỡ
em hoàn thành luận văn này.
2
CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG
THANH TOÁN QUỐC TẾ ĐỐI VỚI HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU
1.1. LỢI THẾ VÀ HẠN CHẾ TRONG XUẤT KHẨU HÀNG
HÓA CỦA VIỆT NAM
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm
vi quốc tế. Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu
thông hàng hoá của một quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục
đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác.
Nền sản xuất xã hội phát triển như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào
hoạt động kinh doanh này.
Xuất khẩu hàng hoá có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh
tế xã hội của mỗi quốc gia. Thông qua xuất khẩu có thể làm gia tăng
ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu trong ngân
sách, kích thích đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu kinh tế, tạo thêm
công ăn việc làm và nâng cao mức sống của người dân.
Đối với nước ta, nền kinh tế chậm phát triển, cơ sở vật chất kỹ
thuật lạc hậu, không đồng bộ, dân số phát triển nhanh nên việc đẩy
mạnh xuất khẩu nhằm thu ngoại tệ, cải thiện đời sống và phát triển
kinh tế là cực kỳ quan trọng. Tuy vậy, đứng trước những cơ hội và
thách thức của toàn cầu hoá, hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam có nhiều lợi thế và cũng không ít những hạn chế. Muốn có hiệu
quả cao cho đất nước thì phải phát triển những mặt lợi thế và giảm
bớt những mặt hạn chế.
1.1.1.
Lợi thế của Việt Nam trong hoạt động xuất khẩu hàng
hoá
Thứ nhất, Việt Nam có một vị trí địa lý hết sức thuận lợi, thiên
nhiên ưu đãi và lịch sử để lại đã hình thành nên các vùng chuyên
3
canh, các làng nghề do vậy chúng ta có thế mạnh về hàng hoá nông,
lâm sản nhiệt đới, thủy sản, hàng công nghiệp nhẹ, hàng tiểu công
nghiệp và mỹ nghệ, hàng gia công và một số sản phẩm công nghệ cơ
khí. Đây có thể nói là hướng chính cho mặt hàng xuất khẩu của Việt
Nam, có tính cạnh tranh trên thị trường thế giới do nhân công rẻ, tài
nguyên thiên nhiên, đất đai nông nghiệp lớn, rừng biển khoáng sản
phong phú.
Các vùng chuyên canh sản xuất, kinh doanh hàng hoá xuất
khẩu được chia thành:
- Đồng bằng Nam Bộ: Sản xuất và xuất khẩu lúa gạo, thịt, thuỷ
sản, cây ăn quả.
- Đông Nam Bộ: Cây công nghiệp như cao su, cà phê, hạt tiêu,
thịt...
- Duyên hải miền Trung: Thịt, lâm sản, thủy sản...
- Tây Nguyên: Cà phê, cao su, dâu tằm, lâm sản.
- Khu bốn cũ: Thịt, cây công nghiệp ngắn ngày (lạc), cây công
nghiệp dài ngày (cà phê), khoáng sản (quặng sắt, thiếc)
- Đồng bằng sông Hồng: Thịt, cây công nghiệp ngắn ngày, rau ,
quả...
Thứ hai, tham gia đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá
trong điều kiện nền kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến cạnh tranh,
theo dõi, kiểm soát lẫn nhau rất chặt chẽ giữa các đơn vị, các doanh
nghiệp tham gia xuất khẩu trong việc tìm kiếm khách hàng, nguồn
hàng, giá cả...Chính nhờ vậy, chất lượng hàng hoá xuất khẩu luôn
được các đơn vị, doanh nghiệp Việt Nam quan tâm và nâng cao, áp
dụng khoa học kỹ thuật mới một cách thường xuyên và có ý thức,
qua đó tạo uy tín cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam. Bên cạnh
đó là xu thế liên doanh, liên kết giữa các đơn vị, các doanh nghiệp
4
xuất khẩu cùng hỗ trợ nhau, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Có thể
nói, xuất khẩu đã và đang được nhiều doanh nghiệp Việt Nam nhận
thức và xem đây như là một hoạt động cần được đầu tư. Chính từ
những nhận thức này, hoạt động xuất khẩu Việt Nam đang có những
lợi thế mới.
Thứ ba, thời đại ngày nay là thời đại hoà bình, mở rộng giao
lưu kinh tế trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Việt Nam cũng
như nhiều nước khác trên thế giới đang hướng sự phát triển nền kinh
tế của mình từ “đóng cửa” sang “mở cửa”, từ “thay thế nhập khẩu
bằng những sản phẩm trong nước có hiệu quả” sang “hướng mạnh
vào xuất khẩu”. Thông qua các kỳ đại hội Đảng, Đảng và Nhà nước
luôn luôn thừa nhận xuất khẩu là mục tiêu mũi nhọn để phát triển
kinh tế. Chính sách của Chính phủ đối với hoạt động xuất khẩu được
mở rộng thông thoáng, nhiều văn bản đã được ban hành tạo điều
kiện khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam tham gia xuất khẩu
hàng hoá, thành lập quỹ tài trợ xuất khẩu, hỗ trợ các doanh nghiệp về
vốn, thông tin, đơn giản hoá các thủ tục xuất khẩu ... Qua đó, các
doanh nghiệp Việt Nam từng bước mạnh dạn và đẩy mạnh hoạt động
xuất khẩu hàng hoá, tăng cường đầu tư và đa dạng hoá các hình thức
xuất khẩu.
1.1.2.
Hạn chế của Việt Nam trong hoạt động xuất khẩu
hàng hoá.
Thứ nhất, là một đất nước nông nghiệp, tuy đang từng bước
khắc phục những khó khăn do hai cuộc chiến tranh lớn để lại song
Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo trên thế giới, trình độ
khoa học công nghệ lạc hậu, dân số đông nhưng trình độ dân trí còn
thấp, chủ yếu là lao động phổ thông, các sản phẩm có chất lượng
chưa cao, mới chỉ dừng lại ở hoạt động gia công xuất khẩu, xuất
5
khẩu nguyên liêu, sơ chế, bán thành phẩm. Chính vì vậy , nhiều tiềm
năng, tài nguyên chưa được tận dụng nhiều khi dẫn tới sự lãng phí,
hiệu quả hoạt động xuất khẩu mang lại cho đất nước không cao.
Thứ hai, hoạt động kiểm soát giám sát quá trình xuất khẩu còn
lỏng lẻo, có nhiều kẽ hở tạo điều kiện cho một số đơn vị khai thác,
xuất khẩu các mặt hàng quý hiếm của quốc gia, các hàng hoá nằm
trong danh mục cấm xuất khẩu.
Thứ ba, Thông tin về thị trường, về giá cả cũng như mặt hàng
xuất khẩu đến với các đơn vị, các doanh nghiệp xuất khẩu còn rất
chậm thậm chí bị sai lệch ảnh hưởng tới mục tiêu cũng như chiến
lược phát triển khiến nhiều doanh nghiệp lúng túng, không dám đầu
tư, phát triển xuất khẩu. Đây là một thiệt thòi lớn cho các đơn vị,
doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam vì không cập nhập được thông tin,
không đánh giá, tìm hiểu kỹ được thị trường thì khả năng dẫn đến
thất bại là rất lớn.
Thứ tư, các vấn đề liên quan tới thanh toán, các nghiệp vụ cần
thiết cho hoạt động xuất khẩu còn hạn chế, lúng túng dẫn tới kéo dài
thời gian; hệ thống luật pháp điều chỉnh các quan hệ trong hoạt động
xuất khẩu chưa được đề cập một cách cụ thể do đó những tranh chấp
xảy ra thường khó giải quyết và thường các đơn vị, doanh nghiệp
Việt Nam là bên phải chịu thiệt thòi.
1.2. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA.
Với định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đảng, chính sách
kinh tế đối ngoại nói chung và thương mại quốc tế nói riêng phải
được coi là một chính sách quan trọng nhằm phục vụ quá trình phát
triển của nền kinh tế quốc dân. Đảng và Nhà nước ta chủ trương mở
rộng phát triển kinh tế đối ngoại, đặc biệt hướng mạnh vào sản xuất
6
xuất khẩu hàng hoá là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với quy
luật kinh tế khách quan. Sở dĩ như vậy là vì xuất khẩu có vai trò thực
sự quan trọng, thể hiện:
1.2.1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu và tích luỹ phát
triển sản xuất, phục vụ công nghiệp hoá đất nước.
Công nghiệp hoá theo những bước đi thích hợp là con đường tất
yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển của nước
ta. Để thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
trước mắt chúng ta cần phải nhập khẩu một số lượng lớn máy móc
thiết bị hiện đại từ bên ngoài, nhằm trang bị cho nền sản xuất. Nguồn
vốn để nhập khẩu thường từ các nguồn chủ yếu là : đi vay, viện trợ,
đầu tư từ nước ngoài và xuất khẩu. Nguồn vốn đi vay rồi cũng phải
trả, còn viện trợ và đầu tư nước ngoài thì có hạn, hơn nữa thường bị
phụ thuộc vào nước ngoài. Vì vậy, nguồn vốn quan trọng nhất để
nhập khẩu chính là xuất khẩu. Thực tế là, nước nào gia tăng được
xuất khẩu thì nhập khẩu cũng tăng theo. Ngược lại, nếu nhập khẩu
nhiều hơn xuất khẩu, làm cho thâm hụt cán cân thương mại quá lớn
sẽ có thể ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế quốc dân.
Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên nhưng mọi cơ
hội đầu tư, vay nợ từ nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ có được
khi các chủ đầu tư và các nhà cho vay thấy được khả năng xuất khẩu
- nguồn vốn duy nhất để trả nợ thành hiện thực.
1.2.2. Xuất khẩu đóng góp vào dịch chuyển cơ cấu kinh tế, thúc
đẩy sản xuất phát triển.
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi
vô cùng mạnh mẽ, đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ hiện đại, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình
7
công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế
giới là tất yếu đối với nước ta.
Ngày nay, đa số các nước đều lấy nhu cầu thị trường thế giới
làm cơ sở để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực tới sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động
này thể hiện:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển
thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ
hội đầy đủ cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên vật liệu như:
bông đay, thuốc phiện. Sự phát triển chế biến thực phẩm xuất khẩu
(gạo, dầu thực vật, cà phê...) có thể kéo theo sự phát triển của ngành
công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ nó.
- Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho
sản xuất ổn định và phát triển.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho
sản xuất nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
1.2.3. Xuất khẩu có vai trò tích cực đổi mới trang thiết bị và công
nghệ sản xuất.
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động hướng ra thị trường thế giới,
một thị trường mà ngày càng cạnh tranh quyết liệt. Sự tồn tại và phát
triển của hàng hoá xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào chất lượng, giá
cả, do đó phụ thuộc rất lớn vào kỹ thuật, công nghệ sản xuất chúng,
điều này thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất trong nước phải luôn
luôn đổi mới, luôn luôn tìm tòi sáng tạo để cải tiến , nâng cao chất
lượng. Mặt khác, xuất khẩu trong nền kinh tế cạnh tranh còn đòi hỏi
doanh nghiệp phải nâng cao tay nghề cho người lao động.
1.2.4. Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn
việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân.
8
Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt.
Trước hết, thông qua hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu, với nhiều
công đoạn khác nhau đã thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và
có thu nhập không thấp, tăng giá trị ngày công lao động, tăng thu
nhập quốc dân. Xuất khẩu còn tạo nguồn để nhập khẩu vật phẩm tiêu
dùng thiết yếu, phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú
thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho người lao động.
1.2.5. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế
đối ngoại của nước ta.
Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế với
các nước, nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên thị trường quốc
tế... Xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quỹ
tín dụng đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế... Mặt khác, chính các quan
hệ kinh tế đối ngoại mà chúng ta kể trên lại tạo tiền đề để mở rộng
xuất khẩu.
Có thể nói xuất khẩu không chỉ đóng vai trò xúc tác hỗ trợ phát
triển kinh tế, mà nó còn cùng với hoạt động nhập khẩu như là yếu tố
bên trong trực tiếp tham gia vào việc giải quyết những vấn đề thuộc
nội bộ nền kinh tế như: vốn, kỹ thuật, lao động, nguồn tiêu thụ thị
trường...Đối với nước ta, hướng mạnh về xuất khẩu là một trong
những mục tiêu quan trọng trong phát triển kinh tế đối ngoại, được
coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện
công nghiệp hoá đất nước, qua đó tranh thủ đón bắt thời cơ, ứng
dụng khoa học công nghệ hiện đại, rút ngắn sự chênh lệch về trình
độ phát triển của Việt Nam so với thế giới. Kinh nghiệm cho thấy,
bất cứ một nước nào và trong một thời kỳ nào đẩy mạnh xuất khẩu
thì nền kinh tế nước đó trong thời gian đó có tốc độ phát triển cao.
9
1.3. ĐIỀU KIỆN VÀ CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN QUỐC
TẾ TRONG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ.
1.3.1.
Khái niệm thanh toán quốc tế và vai trò của thanh
toán quốc tế trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá.
* Khái niệm:
Thanh toán quốc tế là việc chi trả bằng tiền liên quan đến các
dịch vụ mua bán hàng hoá hay cung ứng lao vụ... giữa các tổ chức
hay cá nhân nước này với các tổ chức hay cá nhân nước khác, hay
giữa một quốc gia với tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ giữa các
ngân hàng của các nước liên quan. Các quan hệ quốc tế được phân
chia thành 2 loại: bao gồm thanh toán mậu dịch và thanh toán phi
mậu dịch.
- Thanh toá phi mậu dịch:
Là quan hệ thanh toán phát sinh không liên quan đến hàng hoá
cũng như cung ứng lao vụ, nó không mang tính thương mại. Đó là
những chi phí của các cơ quan ngoại giao, ngoại thương ở nước sở
tại, các chi phí về vận chuyển và đi lại của các đoàn khách nhà nước,
các tổ chức của từng cá nhân...
- Thanh toán mậu dịch:
Khác hoàn toàn với thanh toán phi mậu dịch, thanh toán mậu dịch
phát sinh trên cơ sở trao đổi hàng hoá và các dịch vụ thương mại,
theo giá cả quốc tế. Thông thường trong nghiệp vụ thanh toán mậu
dịch phải có chứng từ hàng hóa kèm theo. Các bên mua bán bị ràng
buộc với nhau bởi hợp đồng thương mại hoặc bằng một hình thức
cam kết khác như thư, điện giao dịch... Mỗi hợp đồng chỉ ra một mối
quan hệ nhất định, nội dung hợp đồng phải quy định rõ cách thức
thanh toán dịch vụ thương mại phát sinh.
10
Về cơ bản, thanh toán quốc tế phát sinh dựa trên cơ sở hoạt
động ngoại thương. Thanh toán là khâu cuối cùng của một quá trình
sản xuất và lưu thông hàng hoá, vì vậy nếu công tác thanh toán quốc
tế được tổ chức tốt thì giá trị của hàng hoá xuất khẩu mới được thực
hiện, góp phần thúc đẩy ngoại thương phát triển. Thanh toán quốc tế
trở thành một yếu tố quan trọng để đánh giá hiệu quả của hoạt động
kinh tế đối ngoại. Quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng.
Hàng năm một khối lượng lớn hàng hoá được giao lưu trên thị
trường thế giới, chính vì vậy thanh toán quốc tế yêu cầu phải có
những phương thức thanh toán cho phù hợp.
Trong giai đoạn hiện nay, với sự tác động mạnh mẽ của thành
tựu khoa học kỹ thuật, cùng với xu hướng mới của thời đại, quan hệ
quốc tế đã và đang chuyển sang một thời kỳ mới. Sự giao lưu hàng
hoá không còn bị giới hạn bởi chế độ chính trị của mỗi quốc gia, thị
trường quốc tế mở rộng, vì vậy nội dung thanh toán quốc tế của mỗi
nước cũng đổi mới, sử dụng các điều kiện thanh toán, phương thức
thanh toán hiện đại...
Thanh toán quốc tế thực sự là phức tạp, nhất là trong điều kiện
hiện nay, tỷ giá tiền tệ luôn biến động trên thị trường tiền tệ quốc tế,
yêu cầu đặt ra cho công tác thanh toán là : đảm bảo an toàn cho các
hợp đồng nhập khẩu, các khoản doanh thu hàng xuất khẩu thu về
một cách kịp thời, an toàn, chính xác.
Quan hệ mua bán và thanh toán giữa các nước rất phức tạp vì thường
xuyên xảy ra bất trắc, rủi ro. Người xuất khẩu lẫn người nhập khẩu
rất cần những phương tiện thanh toán và những phương thức thanh
toán có khả năng giảm thiểu những rủi ro và bất trắc đó.
* Vai trò của thanh toán quốc tế trong hoạt động xuất khẩu hàng
hoá
11
Các hoạt động xuất - nhập khẩu hàng hoá dịch vụ và thanh
toán không bao giờ tách rời nhau mà chúng có mối quan hệ với nhau
hết sức chặt chẽ trong đó thanh toán luôn là khâu quan trọng, nhất là
đối với hoạt động xuất khẩu. Vai trò của thanh toán quốc tế trong
hoạt động xuất khẩu hàng hoá được thể hiện qua các măt:
Thứ nhất, nó thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên
tham gia thanh toán. Trong hoạt động xuất khẩu, các bên tham gia
bao gồm người xuất khẩu, người nhập khẩu, các ngân hàng đại diện
cho người xuất khẩu và người nhập khẩu trong đó người nhập khẩu
có trách nhiệm và nghĩa vụ phải thanh toán một cách đầy đủ và đúng
hạn cho người xuất khẩu như trong hợp đồng quy định. Việc thanh
toán có được tiến hành hay không phụ thuộc rất lớn vào thiện chí và
khả năng của ngươì nhập khẩu. Bên cạnh đó, sự tham gia của ngân
hàng trong hoạt động thanh toán quốc tế cũng hết sức quan trọng,
ngân hàng đại diện cho bên nhập khẩu, có trách nhiệm xem xét, kiểm
tra, tiến hành các nghiệp vụ thanh toán một cách nhanh chóng tạo
điều kiện cho người xuất khẩu thu được tiền.
Thứ hai, thanh toán quốc tế góp phần thúc đẩy hoặc cản trở hoạt
động buôn bán. Thực vậy, quá trình thanh toán nếu được tiến hành
nhanh chóng, người xuất khẩu sớm nhận được tiền thì sẽ tạo cho
người xuất khẩu sớm thu hồi vốn, tăng thời gian quay vòng vốn, mở
rộng hoạt động kinh doanh, ngược lại nếu quá trình thanh toán chậm
chễ sẽ gây khó khăn trong việc đầu tư, sản xuất.
12
Thứ ba, đối với hoạt động xuất khẩu, thanh toán quốc tế có ảnh
hưởng trực tiếp tới lợi ích của các bên tham gia. Các chủ thể của
hoạt động xuất khẩu luôn hướng tới lợi ích của mình đó là: người
xuất khẩu mong muốn thu tiền nhanh, đầy đủ, đúng hạn còn yêu cầu
cần đáp ứng của người nhập khẩu là nhận hàng kịp thời, đúng số
lượng và chất lượng. Hoạt động thanh toán chính là để làm sao nhằm
điều hoà lợi ích các bên một cách tốt nhất.
Thứ tư, thanh toán quốc tế là nghĩa vụ quan trọng và phức tạp
của quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu. Do đó rủi ro
thường xuyên xảy ra trong khâu thanh toán. Lo ngại lớn nhất của
người xuất khẩu là giao hàng rồi nhưng không thu được tiền đầy đủ,
đúng thời hạn và địa điểm quy định. Rủi ro trong thanh toán chủ yếu
phụ thuộc vào hai yếu tố: sự yếu kém về nghiệp vụ và ý thức thực
hiện hợp đồng của phía đối tác.Các phương thức thanh toán nếu
được vận dụng một cách hợp lý đối với đặc điểm của từng loại hình
xuất khẩu cũng như từng loại khách hàng chắc chắn sẽ tránh được và
giảm thiểu những rủi ro không đáng có, hoạt động thanh toán sẽ
được thông suốt.
Nói chung, đối với hoạt động xuất khẩu, quá trình thanh toán
đảm bảo cho việc trao đổi hàng hóa dịch vụ được tiến hành thông
suốt từ đó thu hồi vốn nhanh để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất mở
rộng của nền sản xuất xã hội.
1.3.2. Các phương tiện thanh toán quốc tế:
Phương tiện thanh toán là công cụ mà người ta thực hiện trả
tiền cho nhau trong quan hệ buôn bán với nhau. Tiền mặt là phương
13
tiện thanh toán nhưng trong thanh toán quốc tế nó giữ vai trò thứ
yếu. Phương tiện thanh toán chủ yếu dùng trong thanh toán quốc tế
là hối phiếu (Bill of exchange, Drafts), séc (cheque), thẻ tín
dụng...Mỗi công cụ thanh toán đều có công dụng riêng của nó, thích
hợp cho từng đối tượng và loại hình giao dịch thanh toán của các chủ
thể kinh tế.
* Hối phiếu:
Là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký
phát cho một người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy phiếu,
hoặc đến một ngày cụ thể nhất định hoặc đến một ngày có thể xác
định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho một người nào
đó hoặc theo lệnh của người này trả cho một người khác hoặc trả cho
người cầm phiếu.
- Người ký phát hối phiếu là người xuất khẩu, người cung ứng các
dịch vụ có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá.
- Người trả tiền hối phiếu là người nhập khẩu, người sử dụng các
cung ứng dịch vụ có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá. Khi
dùng hối phiếu làm phương thức đòi tiền của phương thức tín dụng
chứng từ, người trả tiền hối phiếu lại là ngân hàng mở thư tín dụng
hay ngân hàng xác nhận. Ngân hàng chỉ có trách nhiệm trả tiền hối
phiếu khi hối phiếu được xuất trình, cùng với bộ thanh toán phù hợp
với L/C trong thời hạn hiệu lực của L/C.
- Nội dung của hối phiếu bao gồm : tiêu đề hối phiếu, địa điểm ký
phát hối phiếu, thời gian ký phát, lệnh trả tiền vô điều kiện, số tiền
thanh toán, thời hạn trả tiền hối phiếu, địa điểm trả tiền hối phiếu,
người hưởng lợi, người trả tiền hối phiếu, người ký phát hối phiếu...
- Hối phiếu có nhiều loại, căn cứ vào các tiêu thức mà có thể chia ra:
hối phiếu trả tiền ngay, hối phiếu trả tiền sau, hối phiếu có kì hạn,
14
hối phiếu trơn, hối phiếu kèm chứng từ, hối phiếu đích danh, hối
phiếu theo lệnh, hối phiếu thương mại, hối phiếu ngân hàng...
* Séc:
Nếu như hối phiếu hình thành trên cơ sở của lưu thông hàng
hoá thì séc hình thành trên cơ sở lưu thông tín dụng ngân hàng.
Séc là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một khách
hàng của ngân hàng ra lệnh cho ngân hàng trích một số tiền nhất
định từ tài khoản của mình mở ở ngân hàng để trả cho người cầm séc
hoặc cho người được chỉ định trên séc.
- Nội dung của séc bao gồm: tiêu đề, mệnh lệnh trả tiền vô điều
kiện, số tiền, ngày tháng và địa điểm lập séc, tên và địa chỉ của
người trả tiền, người hưởng lợi, tài khoản trích tiền, chữ ký của
người phát séc.
- Séc cũng được chia ra làm nhiều loại: séc vô danh, séc đích danh,
séc theo lệnh, séc gạch chéo, séc chuyển khoản, séc xác nhận, séc du
lịch
Ngoài hối phiếu và séc là những phương tiện thanh toán thông
dụng, còn có các phương tiện khác như: kỳ phiếu, thẻ tín dụng...
1.3.3. Các điều kiện trong thanh toán quốc tế
Trong quan hệ thanh toán giữa các nước, nảy sinh các vấn đề có
liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong vấn đề thanh
toán, buộc các bên phải đề ra để giải quyết và thực hiện. Những vấn
đề này được qui kết lại thành những điều kiện gọi là điều kiện thanh
toán quốc tế.
Các điều kiện đó là:
* Điều kiện về tiền tệ: Trong hợp đồng thương mại quốc tế, bao giờ
cũng phải sử dụng đồng tiền của một nước nào đó để làm đồng tiền
tính toán và/hoặc đồng tiền thanh toán. Do đó phải quy định về điều
15
kiện tiền tệ. Tiền tệ được sử dụng có thể là tiền tệ quốc tế, tiền tệ thế
giới hay tiền tệ quốc gia, hoặc cũng có thể là tiền mặt hay tiền tín
dụng...tuỳ vào từng trường hợp và thoả thuận của các bên mua bán.
* Điều kiện địa điểm thanh toán:
Trong hoạt động thương mại quốc tế, địa điểm thanh toán có thể
ở nước nhập khẩu, hoặc ở nước xuất khẩu, hoặc ở nước thứ ba.
Nhưng trong thực tế, việc xác định địa điểm thanh toán là do sự so
sánh lực lượng ở hai bên quyết định, đồng thời cũng còn thấy rằng
dùng đồng tiền thanh toán của nước nào thì địa điểm thanh toán
thường là nước ấy.
* Điều kiện thời gian thanh toán:
Điều kiện thời gian thanh toán có quan hệ chặt chẽ tới việc luân
chuyển vốn, lợi tức, khả năng có thể tránh được những biến động về
tiền tệ, do đó nó là vấn đề quan trọng, thường xảy ra tranh chấp giữa
các bên trong đàm phán ký kết hợp đồng. Trong thương mại quốc tế
có ba cách quy định về thời gian thanh toán, đó là: trả tiền trước, trả
tiền ngay và trả tiền sau.
* Điều kiện về phương thức thanh toán:
Phương thức thanh toán là cách thức người bán thực hiện để thu
tiền về và người mua thực hiện để trả tiền. Trong thương mại quốc
tế, người ta thường sử dụng các phương thức: phương thức chuyển
tiền, phương thức ghi sổ, phương thức nhờ thu, phương thức tín
dụng chứng từ, phương thức uỷ thác mua, phương thức thư đảm bảo
trả tiền.
Đây là nội dung chính của luận văn và sẽ được tìm hiểu sâu trong
phần tiếp theo.
1.3.4.Các phương thức thanh toán quốc tế:
16
Như ta đã biết, phương thức thanh toán quốc tế là toàn bộ quá
trình, cách thức nhận trả tiền hàng trong giao dịch, mua bán ngoại
thương giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu. Mỗi phương thức
thanh toán đều có những ưu điểm và nhược điểm, thể hiện thành mâu
thuẫn quyền lợi giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu. Vì vậy,
việc chọn phương thức thanh toán thích hợp phải được hai bên bàn
bạc thống nhất, ghi vào hợp đồng mua bán ngoại thương. Mỗi
phương thức là một phương pháp bảo đảm thanh toán; việc chuyển
giao “tiền thật sự” hay “chi trả” giữa người mua và người bán được
thực hiện bởi các phương thức đó.
* Phương thức chuyển tiền (remittance)
Đây là phương thức thanh toán đơn giản nhất, trong đó một
khách hàng (người trả tiền, người mua, người nhập khẩu, người mắc
nợ...) uỷ nhiệm cho ngân hàng phục vụ mình trích từ tài khoản của
mình một số tiền nhất định chuyển cho một người khác (người bán,
người xuất khẩu, chủ nợ...) ở một địa điểm nhất định và trong một
thời gian nhất định.
Cũng giống như hình thức thanh toán séc, thanh toán chuyển
khoản là thanh toán trực tiếp giữa người chuyển tiền và người nhận
tiền. Ngân hàng khi thực hiện việc chuyển tiền và trả tiền, chỉ đóng
vai trò trung gian thanh toán theo uỷ nhiệm để được hưởng hoa
hồng, và không bị ràng buộc gì cả đối với người mua lẫn người bán.
Việc chuyển tiền xem như hoàn tất khi thanh toán hết số tiền cho
người thụ hưởng; trước thời điểm này, số tiền trong tài khoản vẫn
thuộc quyền sở hữu của người chuyển tiền và người này có quyền
huỷ bỏ lệnh chuyển tiền mà người thụ hưởng không khiếu nại gì với
ngân hàng. Như vậy, việc trả tiền phụ thuộc vào thiện chí của người
mua, quyền lợi của người xuất khẩu không đảm bảo.
17
Trong quan hệ mua bán, thanh toán quốc tế, phương thức chuyển
tiền chỉ được chọn làm phương tiện thanh toán đối với các nhà kinh
doanh xuất nhập khẩu, cung ứng dịch vụ có quan hệ thân thiết, tin
cậy lẫn nhau, vì khâu thanh toán này dễ làm nảy sinh việc chiếm
dụng vốn của người bán, nếu bên mua cố tình dây dưa, kéo dài việc
ra lệnh thanh toán, trong khi phương thức chuyển tiền, đặc biệt là
chuyển tiền điện, là phương thức thanh toán nhanh nhất hiện nay.
Có hai hình thức chuyển tiền: chuyển tiền băng thư (mail
transfer, M/T) và chuyển tiền bằng điện báo (telegraphic transfer,
T/T). Hình thức chuyển tiền có lợi cho người xuất khẩu vì nhận tiền
nhanh, không có lợi cho người nhập khẩu vì chi phí cao.
* Phương thức ghi sổ (open account):
Phương thức thanh toán này được thực hiện bằng cách người
xuất khẩu mở một tài khoản, trên đó ghi các khoản tiền mà người
nhập khẩu nợ về tiền mua hàng hoá hay những khoản chi phí khác có
liên quan đến việc mua hàng. Người nhập khẩu định kỳ (hàng tháng,
quí hay nửa năm một lần) thanh toán khoản nợ của mình trên tài
khoản cho người xuất khẩu.
Đặc điểm:
- Đây là một phương thức thanh toán chỉ có hai bên tham gia thanh
toán là người mua và người bán, ngân hàng không tham gia với chức
năng là người mở tài khoản và thực thi thanh toán.
- Chỉ mở tài khoản đơn biên, không mở tài khoản song biên. Nếu
người mua mở tài khoản để ghi chép, thì tài khoản ấy chỉ là tài khoản
theo dõi, không có giá trị thanh quyết toán giữa hai bên.
Phương thức này chỉ áp dụng trong trường hợp hai bên mua bán
thực sự tin cậy lẫn nhau hay trong các giao dịch nhỏ thường xuyên,
phổ biến sử dụng trong phương thức mua bán hàng đổi hàng thường
18
xuyên trong một thời kỳ nhất định, hoặc dùng cho thanh toán tiền
hàng, hàng gửi bán ở các nước, hay để trả tiền lệ phí dịch vụ sân bay,
bến bãi, kho cảng...
Phương thức này thực chất là một hình thức tín dụng thương
nghiệp.
Phương thức ghi sổ thường được áp dụng trong buôn bán nội địa,
rất ít dùng trong buôn bán quốc tế bởi không đảm bảo đầy đủ cho
người xuất khẩu kịp thời thu tiền hàng.
* Phương thức nhờ thu (collection of payment)
Phương thức thanh toán nhờ thu hay còn gọi là uỷ thác thu được
thực hiện theo “quy tắc thống nhất về thu chứng từ thương mại” do
phòng thương mại quốc tế ban hành năm 1967 và có điều chỉnh lại
năm 1978. Đây là phương thức thanh toán mà qua đó tổ chức xuất
khẩu sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ gửi hàng, giao chứng từ hàng
hoá uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền trên cơ sở
hối phiếu do mình lập ra ở người nhập khẩu thông qua ngân hàng
phục vụ người nhập khẩu. Người nhập khẩu khi nhận được giấy báo
nhờ thu của ngân hàng, phải tiến hành ngay việc chi trả tiền để nhận
lại chứng từ hàng hoá và đi lãnh hàng.
Trong mối quan hệ này, ngân hàng ở cả hai bên nước nhà nhập
khẩu lẫn nhà xuất khẩu, chỉ tham gia với tư cách là người trung gian
đi thu tiền hộ, có nhận giữ các chứng từ có liên quan đến hàng hoá
đã gửi đi, nhưng không bị ràng buộc trách nhiệm, phải kiểm tra các
chứng từ gửi nhờ thu, cũng như việc giấy nhờ thu có được nhà nhập
khẩu
chấp
nhận
và
thanh
toán
hay
không.
Phương thức thanh toán này hoàn toàn dựa vào sự tín nhiệm lẫn
nhau giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu, nó có bảo đảm hơn hai
hình thức séc và chuyển tiền ở chỗ, nhà xuất khẩu yêu cầu ngân hàng
19
bên mua không giao chứng từ đi lãnh hàng cho nhà nhập khẩu, khi
người này chưa thanh toán tiền. Tuy nhiên, tốc độ thanh toán vẫn
chậm, rủi ro cho bên xuất khẩu lớn. Trường hợp nhà nhập khẩu
không chịu thanh toán, từ chối nhận hàng vì lý do giá mua sản phẩm
đó đang xuống thấp mà người bán không chấp nhận giảm giá, và
nhất là vì lô hàng nhập về không còn phù hợp thị hiếu người tiêu
dùng, người bán chỉ còn cách nhờ ngân hàng bên mua lấy hàng cất
vào kho, mua bảo hiểm và tìm nguồn tiêu thụ hết số hàng này.
Trường hợp ngân hàng không nhận làm công việc này, nhà xuất
khẩu sẽ phải xử lý ra sao khi hàng hoá đã cách xa mình hàng vạn
kilomét?
* Phương thức tín dụng chứng từ
Một trong những phương thức thanh toán quốc tế được sử dụng
phổ biến hiện nay đó là phương thức tín dụng chứng từ.
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thỏa thuận, trong đó
một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách
hàng (người xin mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho
người khác (người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp
nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi
người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù
hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng.
Thư tín dụng (letter of credit - L/C) là một phương tiện rất
quan trọng trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Không
mở được thư tín dụng thì phương thức này không được xác lập và
người bán không thể giao hàng cho người mua. Thư tín dụng còn là
một văn bản pháp lý trong đó ngân hàng đứng ra cam kết trả tiền cho
người bán trong một thời hạn nhất đinh được quy định trong thư tín
dụng.
20
- Xem thêm -