Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý ở việt nam hiện đại...

Tài liệu Hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý ở việt nam hiện đại

.PDF
129
260
105

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THUỲ LINH HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THUỲ LINH HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TSKH ĐÀO TRÍ ÚC Hà Nội – 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thuỳ Linh MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu .............................................................. 1 2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 3 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 4 3.1. Mục tiêu...................................................................................................... 4 3.2. Nhiệm vụ .................................................................................................... 4 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5 5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 6 6. Tính mới và những đóng góp của đề tài ....................................................... 7 CHƢƠNG 1...................................................................................................... 9 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...................................... 9 1.1. KHÁI NIỆM CÔNG LÝ VÀ MỐI LIÊN HỆ GIỮA CÔNG LÝ VÀ PHÁP LUẬT ..................................................................................................... 9 1.1.1 Khái niệm công lý .................................................................................... 9 1.1.2. Mối quan hệ giữa công lý và pháp luật ................................................. 12 1.2. NỘI HÀM VÀ ĐẶC ĐIỂM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ ................ 14 1.2.1. Nội hàm quyền tiếp cận công lý............................................................ 14 1.2.2. Đặc điểm quyền tiếp cận công lý .......................................................... 16 1.3. NHỮNG BẢO ĐẢM PHÁP LÝ CHO QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ 17 1.3.1. Hệ thống các quyền và nghĩa vụ công dân ........................................... 17 1.3.2. Hệ thống các cơ quan tƣ pháp ............................................................... 18 1.3.3. Năng lực tiếp cận công lý của công dân ............................................... 20 1.4. KHUNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ ................. 21 1.4.1. Nội dung pháp luật về quyền tiếp cận công lý ...................................... 21 1.4.2. Cấu trúc của khung pháp luật về quyền tiếp cận công lý ..................... 28 1.5. TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOÀN THIỆN CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ ............................................................... 35 1.5.1. Tính toàn diện ....................................................................................... 35 1.5.2. Tính đồng bộ, thống nhất ...................................................................... 36 1.5.3. Tính phù hợp và khả thi ........................................................................ 39 1.5.4. Tính hiệu lực ......................................................................................... 39 1.5.5. Tính tƣơng thích với các văn bản quốc tế về quyền tiếp cận công lý mà Việt Nam đã tham gia, ký kết và phê chuẩn ................................................... 40 1.5.6. Tính hoàn thiện về mặt kỹ thuật............................................................ 41 1.6. KINH NGHIỆM ĐẢM BẢO QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ Ở MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI ................................................................. 42 1.6.1. Pháp luật một số quốc gia về bảo đảm quyền tiếp cận công lý ............ 42 1.6.2. Hoạt động của một số cơ quan, tổ chức hỗ trợ pháp lý ........................ 48 CHƢƠNG 2.................................................................................................... 51 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................................ 51 2.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN PHÁT LUẬT BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ Ở VIỆT NAM ............................................. 51 2.2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ ................................................... 56 2.2.1. Khả năng tiếp cận thông tin pháp luật của ngƣời dân ........................... 56 2.2.2. Công tác xét xử của Toà án ................................................................... 59 2.2.3. Tƣ vấn và trợ gúp pháp lý ..................................................................... 71 2.3. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ ĐỐI VỚI MỘT SỐ ĐỐI TƢỢNG ĐẶC BIỆT ....................................................... 78 2.3.1. Phụ nữ ................................................................................................... 78 2.3.2. Ngƣời nghèo .......................................................................................... 82 CHƢƠNG 3.................................................................................................... 90 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ CHO NGƢỜI DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..................................................................................................... 90 3.1. PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ CHO NGƢỜI DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY................ 90 3.1.1. Bảo đảm quyền bình đẳng, phát huy vai trò và khả năng của ngƣời dân trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc .................................... 90 3.1.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật .................................................................................................................. 91 3.1.3. Bảo đảm sự phù hợp của hệ thống pháp luật nƣớc ta với các công ƣớc quốc tế ............................................................................................................. 94 3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ CHO NGƢỜI DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ......................... 97 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền đƣợc xét xử công bằng .............. 99 3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về thủ tục hành chính tại Toà án....................... 101 3.2.3. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án các cấp ................................................................................................................. 103 3.2.4. Hoàn thiện pháp luật về đảm bảo nguyên tắc xét xử độc lập của Thẩm phán ............................................................................................................... 106 3.2.5. Hoàn thiện pháp luật về trợ giúp pháp lý và tƣ vấn pháp luật ............ 109 KẾT LUẬN .................................................................................................. 114 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 116 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TCN : Trƣớc Công nguyên UNDP : Ủy ban về Đảm bảo pháp lý cho ngƣời nghèo UDHR : Tuyên ngôn thế giới về quyền con ngƣời năm 1948 ICCPR : Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 ICESCR : Công ƣớc quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá năm 1966 CEDAW : Công ƣớc Liên hợp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm1979 CRC : Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 ICRMW : Công ƣớc quốc tế về quyền của ngƣời lao động di trú và các thành viên trong gia đình của họ năm 1990 ILO : Công ƣớc số 97 về di trú tìm việc làm năm 1949 của tổ chức Lao động quốc tế TAND : Toà án nhân dân TANDTC : Toà án nhân dân tối cao BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự 2004 VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Qua quá trình tổng kết lý luận và thực tiễn sau hơn 20 năm đổi mới, một trong những nội dung đặc trƣng của Nhà nƣớc pháp quyền Xã hội chủ nghĩa đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta thừa nhận là yêu cầu tôn trọng và bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi ngƣời. Việc quan tâm và thúc đẩy quyền con ngƣời luôn là ƣu tiên của Đảng và Nhà nƣớc ta, là nền tảng đƣợc phản ánh nhất quán và xuyên suốt trong mọi chính sách, luật pháp của Nhà nƣớc Việt Nam. Trên cơ sở đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc Cải cách tƣ pháp đến năm 2020 đã một phần hiện thực hoá nội dung đặc trƣng nói trên với yêu cầu hệ thống tƣ pháp phải đƣợc hoàn thiện để hƣớng tới mục tiêu bảo vệ công lý, lẽ phải, lẽ công bằng “ […] các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người […]. Đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý”. Điều này cho thấy quyết tâm của Nhà nƣớc Việt Nam trong việc thiết lập, bảo đảm và thực hiện quyền tiếp cận công lý cho mọi ngƣời dân trong bối cảnh Việt Nam đang xây dựng nhà nƣớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Tại Việt Nam, các quy định về quyền tiếp cận công lý không đƣợc đề cập trực tiếp trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật mà đƣợc quy định gián tiếp trong các văn bản có giá trị pháp lý khác nhau, chủ yếu là trong hệ thống văn bản pháp luật về tố tụng nhƣ Luật tố tụng hình sự, Luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính. Các văn bản này nhìn chung đã điều chỉnh các quan hệ cơ bản liên quan đến vấn đề tiếp cận công lý, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm và thực hiện quyền tiếp cận công lý cho ngƣời dân thông qua các bảo đảm pháp lý về mặt tố tụng, chẳng hạn nhƣ bình đẳng về tƣ cách 1 trƣớc tòa án, quyền đƣợc xét xử công khai bởi một tòa án không thiên vị, đƣợc lập ra theo đúng pháp luật; quyền đƣợc bào chữa; quyền đƣợc kháng cáo... Tuy nhiên, so với yêu cầu bảo vệ và phát triển quyền tiếp cận công lý trong tình hình mới thì pháp luật về quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam còn nhiều điểm trống hoặc còn mờ nhạt. Nhiều vấn đề cơ bản liên quan đến quyền tiếp cận công lý đã đƣợc pháp luật Việt Nam đề cập nhƣng chƣa toàn diện, chƣa phát huy hiệu quả trên thực tế; cụ thể: Thứ nhất, Thiếu các quy định đặc thù đảm bảo quyền tiếp cận công lý cho nhóm ngƣời yếu thế, dễ bị tổn thƣơng trong xã hội bao gồm các đối tƣợng nhƣ phụ nữ, ngƣời nghèo, ngƣời khuyết tật, ngƣời nhiễm HIV, ngƣời dân tộc thiểu số – những đối tƣợng mà cần đƣợc tiếp cận công lý nhất nhƣng trên thực tế lại dễ dàng bị xâm hại nhất, có ít điều kiện tiếp cận hệ thống tƣ pháp chính thống nhất [53,tr17-21]; Thứ hai, Các yếu tố đảm bảo cho quyền tiếp cận công lý của dân chúng trong nhà nƣớc pháp quyền vẫn còn gặp trở ngại nhƣ: (i) một số quy định của pháp luật vẫn có những yếu tố làm giảm đi tính độc lập xét xử của tòa án và thẩm phán, (ii) các quy định về thẩm quyền của tòa án chƣa bao quát hết các tranh chấp trong xã hội dẫn đến thực trạng ngƣời dân có tranh chấp mà không tìm đƣợc nơi phân xử hoặc phân xử không bằng con đƣờng tƣ pháp, và khi đó quyền tiếp cận công lý không đƣợc đảm bảo trên thực tế, (iii) các quy định về thủ tục tƣ pháp còn rƣờm rà, gây khó khăn cho ngƣời dân. Từ những hạn chế này, có thể khẳng định yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền tiếp cận công lý là thiết thực và cấp thiết, đặc biệt là trong bối cảnh chúng ta đang xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân với đòi hỏi tối thƣợng là ghi nhận, bảo vệ, bảo đảm các quyền con ngƣời. Nhƣ vậy, từ yêu cầu khách quan của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay, học viên đã chọn Đề tài “Hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay” để thực hiện Luận văn Thạc sỹ Luật học. 2 2. Tình hình nghiên cứu Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về lý luận hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền tiếp cận công lý cũng nhƣ thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý. Trên phạm vi quốc tế, các công trình nghiên cứu về quyền tiếp cận công lý đã bắt đầu xuất hiện từ đầu những năm 1990. Các tổ chức quốc tế có rất nhiều công trình, dự án nghiên cứu về quyền tiếp cận công lý dƣới nhiều khía cạnh, góc độ nghiên cứu khác nhau, ví dụ nhƣ các nghiên cứu của Tổ chức hợp tác phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA) [66], của Chƣơng trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) [68;69;70;71], của Ngân hàng Thế giới (WB) [63], của Chƣơng trình công lý quốc tế (WJP) [73],… Ngoài ra, các học giả nƣớc ngoài cũng có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này nhƣ các công trình của các học giả đến từ Đại học Harvard [66], Đại học Tilburg [63;64] và nhiều nghiên cứu khác của các tác giả khác [65]. Tại Việt Nam, vấn đề quyền tiếp cận công lý còn khá mới mẻ. Đến nay, chƣa có công trình nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về quyền tiếp cận công lý. Tài liệu về vấn đề này chủ yếu là các báo cáo, khảo sát của Chƣơng trình phát triển Liên Hợp quốc (UNDP) thực hiện từ năm 2004 trở lại đây, công trình nghiên cứu của một số tác giả khác dƣới dạng bài viết học thuật, báo cáo tham luận tại các Hội thảo về quyền tiếp cận công lý, bài viết đăng trên Tạp chí Luật học, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội,... Theo thống kê của tác giả luận văn, đến nay UNDP đã thực hiện 04 khảo sát tại Việt Nam về các vấn đề liên quan đến quyền tiếp cận công lý vào các năm 2004, 2011 và 2013 [52; 53; 55; 56]. Ngoài ra, Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trƣờng cũng đã thực hiện 01 báo cáo vào năm 2010 đánh giá 3 về quyền tiếp cận công lý tuy nhiên chỉ mới thực hiện nghiên cứu trên đối tƣợng là phụ nữ dân tộc thiểu số [58]. Các bài viết, công trình nghiên cứu chuyên sâu về quyền tiếp cận công lý không nhiều, có thể kể đến các công trình nghiên cứu của Tiến sỹ Vũ Công Giao (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội) [22; 23], Thạc sỹ Đinh Thế Hƣng (Viện Nhà nƣớc và Pháp luật) [26; 27; 28], Thạc sỹ Nguyễn Xuân Tùng (Bộ Tƣ pháp) [46; 47; 48],...và bài viết, nghiên cứu của nhiều tác giả khác đƣợc đăng trên các tạp chí pháp luật, đƣợc trình bày tại một số Hội thảo về quyền tiếp cận công lý nhƣ tại Hội thảo về quyền tiếp cận công lý do Hội Luật gia Việt Nam tổ chức vào tháng 7/2008, Đại hội Luật gia dân chủ thế giới tổ chức tại Việt Nam tháng 9/2009, Hội thảo Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về quyền tƣ pháp của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn 2011-2020 tổ chức vào tháng 3/2010. Trên cơ sở tham khảo các công trình nghiên cứu nêu trên, luận văn mở rộng phạm vi nghiên cứu, phƣơng pháp nghiên cứu để đƣa ra những kết luận mới mang tính tổng quát, có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam, Luận văn tập trung đánh giá pháp luật về quyền tiếp cận công lý và việc thực hiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay để từ đó đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ Phù hợp với mục tiêu tổng quát trên, luận văn sẽ giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau đây: 4 Một là, nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam; khái quát hoá khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò của pháp luật về quyền tiếp cận công lý từ đó xây dựng hệ thống tiêu chí hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý. Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về quyền tiếp cận công lý và việc thực hiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay; các ƣu điểm và hạn chế, bất cập cũng nhƣ nguyên nhân của các hạn chế, bất cập để đề xuất giải pháp khắc phục hiệu quả. Ba là, đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt là trong bối cảnh xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế nhằm góp phần vào việc đổi mới căn bản, toàn diện hệ thống pháp luật ở Việt Nam nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 48-NQ/CP ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/CP ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận về quyền tiếp cận công lý; thực trạng thực hiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý; quan điểm của Đảng về hoàn thiện pháp luật về tiếp cận công lý; pháp luật về quyền tiếp cận công lý ở một số nƣớc, một số văn kiện quốc tế về quyền tiếp cận công lý. Các nội dung này nằm trong công trình nghiên cứu của một số tác giả, các báo cáo của các tổ chức quốc tế và Viêt Nam, các văn bản pháp luật có liên quan ban hành trong các giai đoạn khác nhau. Luận văn tập trung nghiên cứu về hoàn thiện pháp luật trong bối cảnh xây dựng nhà nƣớc pháp quyền và hội nhập quốc tế áp dụng chủ yếu cho một nhóm đối tƣợng yếu thế trong xã hội nhƣ phụ nữ, ngƣời nghèo, ngƣời khuyết 5 tật, ngƣời dân tộc thiểu số,…Trên cơ sở các nghiên cứu và thực tiễn, luận văn khái quát hoá về các đặc điểm, vai trò (trong đó nhấn mạnh vai trò của Toà án), tiêu chí hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý cùng với các quan điểm, nội dung và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý trong bối cảnh xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Các giải pháp đƣợc định hƣớng cho giai đoạn 2015 – 2020, là giai đoạn Việt Nam tập trung thực hiện thắng lợi Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị khoá IX và Kết luận số 92-KL/TW ngày 12 tháng 3 năm 2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW nêu trên. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Các phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử dụng trong luận văn là các phƣơng pháp của triết học Mác – Lênin, trọng tâm là phƣơng pháp phân tích và tổng hợp, kết hợp lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phƣơng pháp của các khoa học chuyên ngành nhƣ phƣơng pháp của lý thuyết hệ thống, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp của khoa học thống kê. Việc sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu trong luận văn cụ thể nhƣ sau: (i) Phƣơng pháp thống kê, phân tích đƣợc sử dụng ở Lời mở đầu để tái hiện bức tranh toàn cảnh về tình hình nghiên cứu liên quan đến Đề tài Luận văn; (ii) Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh đƣợc sử dụng ở Chƣơng 1 nhằm làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò của quyền tiếp cận công lý; (iii) Phƣơng pháp thống kê, phân tích tài liệu đƣợc sử dụng ở Chƣơng 2 để thấy rõ những ƣu điểm và các hạn chế, bất cập của pháp luật về quyền tiếp cận công lý cũng nhƣ việc thực hiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay; (iv) Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp đƣợc sử dụng trong Chƣơng 3 để đảm bảo tính thuyết phục trong các lập luận. Ngoài ra, phƣơng 6 pháp của triết học Mác – Lênin đƣợc sử dụng ở tất cả các chƣơng để rút ra các kết luận khoa học của luận văn. 6. Tính mới và những đóng góp của đề tài Luận văn có những đóng góp và điểm mới sau: Một là, luận văn sẽ trình bày và phân tích các cách tiếp cận khác nhau về khái niệm “quyền tiếp cận công lý”, sự hình thành và phát triển trong nhận thức về tiếp cận công lý ở Việt Nam và trên thế giới. Trên cơ sở đó, đƣa ra một định nghĩa tổng quát, phù hợp với phạm vi, thời điểm và mục đích nghiên cứu của luận văn, đó là xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay. Hai là, luận văn phân tích các đặc điểm của pháp luật về quyền tiếp cận công lý, nội dung của pháp luật về quyền tiếp cận công lý đồng thời làm rõ vai trò của pháp luật vê quyền tiếp cận công lý. Ngoài các vai trò nhƣ pháp luật chung, pháp luật về quyền tiếp cận công lý chính là cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo quyền làm chủ của ngƣời đối với những quyền con ngƣời, quyền cơ bản khác của công dân, bởi lẽ chỉ khi có quyền này, các quyền khác mới đƣợc bảo vệ. Ba là, luận văn xây dựng hệ thống tiêu chí hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam. Cùng với các tiêu chí chung của việc hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý để đảm bảo tính toàn diện, tính đồng bộ, tính thống nhất; phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của Việt Nam và xu thế hội nhập quốc tế; luận văn cũng đề xuất các tiêu chí riêng của việc hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý nhằm khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của quyền tiếp cận công lý đối với việc đảm bảo các quyền cơ bản khác của con ngƣời, đảm bảo xây dựng một nền dân chủ thực chất, một Nhà nƣớc pháp quyền thật sự của dân, do dân và vì dân. 7 Bốn là, Luận văn gợi mở các vấn đề cần tham khảo trong quá trình hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam trong bối cảnh xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, các vấn đề phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và truyền thống văn hoá lịch sử văn hoá Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu pháp luật về quyền tiếp cận công lý nƣớc ngoài, đặc biệt là các văn kiện quốc tế quy định về quyền tiếp cận công lý và các văn kiện khuyến nghị của các tổ chức nhân quyền quốc tế. Năm là, luận văn đã khái quát hoá sự phát triển của pháp luật về quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam qua các giai đoạn cụ thể. Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về quyền tiếp cận công lý cũng nhƣ thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, xác định rõ ƣu điểm và các hạn chế, bất cập đồng thời chỉ rõ nguyên nhân của các hạn chế, bất cập làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam. Sáu là, luận văn đã đƣa ra hệ thống các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay. Các nhóm giải pháp cơ bản đó là: (i) Sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành về quyền tiếp cận công lý; (ii) Tăng cƣờng các điều kiện bảo đảm cho việc hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý; (iii) Nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quyền tiếp cận công lý. Các nhóm giải pháp đƣợc đề xuất đều hƣớng đến mục tiêu trọng tâm hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận công lý bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất, minh bạch với kỹ thuật pháp lý cao theo hƣớng chuẩn hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn bao gồm 03 Chƣơng, 11 tiết. 8 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. KHÁI NIỆM CÔNG LÝ VÀ MỐI LIÊN HỆ GIỮA CÔNG LÝ VÀ PHÁP LUẬT 1.1.1 Khái niệm công lý Trong nền khoa học pháp lý thế giới, công lý (justice) là khái niệm có nội hàm rộng, tuỳ thuộc vào từng nền văn hoá và từng giai đoạn phát triển của xã hội trong lịch sử. Ngay từ thời cổ đại, các nhà triết học đã đƣa ra nhiều định nghĩa khác nhau về công lý. Theo Plato, công lý là một khái niệm thể hiện phẩm hạnh và sự hài hoà của cộng đồng, là kết quả của sự đồng tâm hợp tác giữa những cá nhân có đức hạnh tham gia giải quyết các vấn đề của cộng đồng và quốc gia. Công lý xuất phát từ sự hài hoà và nó hƣớng tới những ngƣời khác thông qua những hành vi nhân hậu và tử tế [59]. Còn theo Aristotle thì công lý là việc đối xử bình đẳng với những ngƣời ngang nhau và bất bình đẳng với những ngƣời không ngang hàng, tƣơng xứng với sự khác nhau về địa vị của họ. Theo ông, công lý đƣợc chia thành “công lý cải tạo” nơi mà toà án sửa chữa lỗi lầm do một bên phạm phải đối với bên khác và “công lý phân phối” - cách thức, nỗ lực cố gắng để công bằng với mỗi ngƣời, đúng theo những gì mà ngƣời đó xứng đáng. Theo Aristotle, công lý phân phối chính là mối quan tâm chủ yếu, hàng đầu của các nhà lập pháp [58]. Cicero, nhà lý luận chính trị La Mã lại cho rằng công lý là một phẩm hạnh quan trọng nhằm giữ xã hội thắt chặt bên nhau, nó cho phép chúng ta theo đuổi những điều tốt đẹp chung vì sự tồn tại của xã hội. Theo ông, chức năng đầu tiên của công lý là giữ cho mỗi ngƣời khỏi làm những điều ác, có hại cho ngƣời khác. Augustine, nhà triết học có ảnh hƣởng lớn đầu tiên thời trung cổ 9 lại cho rằng công lý cao hơn nhà nƣớc và là vĩnh cửu. Công lý tự nhiên cao hơn luật pháp. Luật pháp không công bằng thì không phải là luật pháp (Unjust laws are not laws). Thomas Aquinas, nhà triết học và thần học Italia trong truyền thống kinh viện chủ nghĩa, cũng cho rằng một đạo luật công bằng là một đạo luật dựa trên và không đối lập với các quyền tự nhiên. Bất công chính là những hành vi liên quan đến việc vi phạm các quyền tự nhiên nhƣ các tội giết ngƣời, hành hung, trộm cắp, bắt cóc, nô lệ, hiếp dâm, gian lận hoặc các hành vi gây ảnh hƣởng sai lệch nhất định đến sự phân phối thịnh vƣợng, thu nhập. Những lý luận về tự do và công lý này đã tiếp tục đƣợc phát triển trong trào lƣu tƣ tƣởng Ánh sáng từ giữa thế kỷ XVIII với các đại biểu ƣu tú nhƣ Montesquieu (1689-1755), Voltaire (1694-1778), Jean Jacques Rousseau (1712-1778), Thomas Jefferson (1743-1826),… [60]. Không chỉ trong lĩnh vực triết học, ngay từ thời kỳ cổ đại, công lý đã đƣợc coi là vấn đề quan trọng đối với các nhà làm luật. Bộ luật Hammurabi, bộ luật thành văn cổ xƣa nhất của nhân loại (ra đời khoảng từ 1792 - 1750 TCN) đã coi công lý và chính nghĩa là cơ sở của nền cai trị nhân từ, công bằng nhằm đem lại sự thái bình và hạnh phúc chân chính cho ngƣời dân [38]. Với tuyên bố “Công lý bùng nổ để bảo vệ kẻ yếu”, bộ luật Hammurabi đã áp dụng triệt để nguyên tắc báo thù Talion, theo đó kẻ phạm tội sẽ phải chịu hình phạt ngang bằng với thiệt hại đã gây ra. Tuy nhiên, cách hiểu về công lý này có phần cực đoan. Quan niệm về công lý cũng thay đổi theo truyền thống văn hóa của nơi đó. Tại phƣơng Tây, công lý đã xuất hiện nhƣ một khát vọng về tự do, công bằng, chính nghĩa. Ƣớc nguyện về những giá trị công lý chân chính trong thời kỳ này đƣợc khắc hoạ rõ nét tại nhiều tác phẩm nổi tiếng nhƣ hình ảnh nữ thần công lý Thémis trong thần thoại Hy Lạp [29] hay hình tƣợng bất hạnh của nàng Antigone trong vở kịch Antigone của kịch gia Sophocle (496-406 10 TCN), nàng đã vì tình thƣơng, lẽ phải và đạo lý đã chống lại đạo luật cƣờng quyền của vua Creon [15]. Theo quan niệm của ngƣời châu Phi, công lý là sự ứng xử phù hợp với truyền thống của tiền nhân. Ở Ấn Độ, ngƣời Hindous coi công lý là sự tôn trọng và chấp nhận trật tự, đẳng cấp trong xã hội. Đến thời kỳ hiện đại, khái niệm công lý dần mang tính thực tiễn hơn. Dựa trên luận đề căn bản “Công lý là công bằng” (Justice as fairness), John Rawls (1921 - 2002) - một trong những triết gia Tây phƣơng về Triết học chính trị hàng đầu của thế kỷ 20 trong tác phẩm “Học thuyết công bằng” (1971) đã viết rằng: Công lý là đức hạnh thứ nhất cho các định chế xã hội cũng như chân lý là của các hệ thống tư tưởng. Một lý thuyết dù có lộng lẫy đến đâu nhưng nếu nó sai thì phải bị bác bỏ cũng như luât pháp và định chế có hoàn chỉnh đến đâu cũng cần phải dẹp bỏ nếu nó là bất công. Cũng theo Jonl Rawls, công lý là sự công bằng và công lý chính là chuẩn mực của một xã hội lý tƣởng. Chuẩn mực của công bằng trong một thể chế xã hội cụ thể chính là nguyên tắc phân chia quyền lợi và nghĩa vụ cho mỗi cá nhân. Theo ông, công bằng chỉ có đƣợc khi con ngƣời tự nguyện cùng tham dự vào quá trình hợp tác xã hội để làm sao mỗi cá nhân giành đƣợc lợi ích nhiều hơn so với khi họ sống đơn lẻ. Tại Việt Nam, tƣ tƣởng về một nền công lý đích thực, chân chính đã đƣợc truyền bá kể từ khi Nguyễn Ái Quốc tiến hành cuộc đấu tranh nhằm vạch trần nền “công lý thực dân” giả tạo. Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925), Nguyễn Ái Quốc viết: “Ở Đông Dương có hai thứ công lý. Một thứ cho người Pháp, một thứ cho người bản xứ. Người Pháp thì được xử như ở Pháp. Người An Nam thì không có hội đồng bồi thẩm, cũng không có luật sư người An Nam. Thường thường người ta xử án và tuyên án theo giấy tờ, vắng mặt người bị cáo. Nếu có vụ kiện cáo giữa người An Nam và người Pháp thì lúc nào người Pháp cũng có lý cả mặc dù tên này ăn cướp hay giết 11 người…”. Nhƣ vậy, Nguyễn Ái Quốc đã đề cao sự công bằng, công lý “thực chất” mà tại đó mọi ngƣời dân có quyền đƣợc tiếp cận các dịch vụ pháp lý một cách bình đẳng với nhau. Quan điểm về một hệ thống pháp luật dựa trên nền tảng dân chủ, nhân bản, công lý đó đƣợc các nhà làm luật Việt Nam tiếp tục kế thừa và phát huy. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc Cải cách tƣ pháp đến năm 2020 và Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định yêu cầu xây dựng cơ quan tƣ pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý và quyền con ngƣời. Công lý ở đây đƣợc hiểu là yêu cầu xử lý các vụ việc bằng các thủ tục tố tụng công bằng, hợp pháp nhằm bảo vệ lợi ích của xã hội và bảo vệ các quyền con ngƣời một cách nghiêm minh. Như vậy, trong suốt tiến trình phát triển của nhân loại, khái niệm công lý đã đƣợc phân tích, đánh giá trên nhiều khía cạnh khác nhau. Tựu chung lại, công lý đƣợc hiểu là một giá trị xã hội với nội dung là sự công bằng và lẽ phải, phù hợp với lợi ích chung, với đạo lí, đƣợc xã hội và pháp luật thừa nhận. 1.1.2. Mối quan hệ giữa công lý và pháp luật Mối quan hệ biện chứng giữa công lý và pháp luật thể hiện ở những điểm cơ bản sau: Pháp luật giúp cho công lý được thực thi. Nếu không có pháp luật, công lý sẽ không được bảo vệ, tuân thủ và thực thi trên thực tế. Dựa trên các yêu cầu, đòi hỏi của công lý, pháp luật thể chế hoá chúng thành các nguyên tắc xử sự chung có tính bắt buộc đối với mọi cá nhân. Ngƣời dân sẽ dựa trên các nguyên tắc đó để vận dụng giải quyết các vấn đề cá nhân, bảo vệ các quyền chính đáng của mình. Nhà nƣớc dựa trên các quy định của pháp luật để đem lại công bằng, lẽ phải cho ngƣời dân, đặc biệt là các đối tƣợng yếu thế nhƣ phụ nữ, trẻ em, ngƣời cao tuổi, ngƣời tàn tật, ngƣời dân tộc thiểu số,… Có thể 12 nói, nhờ có pháp luật mà công lý đƣợc bảo vệ, tuân thủ và thực thi. Tuy nhiên, trên thực tế, trong một số trƣờng hợp công lý không thể đạt đƣợc do những nguyên tắc nhất định của pháp luật và chúng ta phải chấp nhận Toà án đã làm hết trách nhiệm của mình. Ví dụ: Một ngƣời có hành vi trộm cắp, nhƣng toà án không thể tìm đƣợc bằng chứng để kết tội ngƣời đó thì toà án buộc phải tuyên bố ngƣời đó không có tội. Ở đây, Toà án đã tuân thủ luật pháp để đƣa ra phán quyết, phán quyết này không đem lại công lý cho số đông nhƣng lại đảm bảo đƣợc công lý cho một cá nhân và Toà án đã làm hết trách nhiệm của mình trong việc xét xử. Ngược lại, công lý giúp cho luật pháp luôn là những luật lệ đúng đắn. Nếu không có công lý, luật pháp sẽ trở nên tàn bạo, hà khắc. Bởi lẽ, pháp luật đƣợc xây dựng, ban hành bởi một hệ thống cơ quan quyền lực. Nếu pháp luật chỉ hoàn toàn dựa trên lợi ích của giai cấp thống trị thì nhiều khi không đảm bảo đƣợc nhu cầu của ngƣời dân đối với sự công bằng. Do đó, để pháp luật phù hợp với nhu cầu, lợi ích của ngƣời dân, những nhà làm luật luôn phải đề cao các giá trị công lý thông qua việc chuyển tải đầy đủ những giá trị đạo đức, nhân văn, nhân đạo, dân chủ, công bằng, bảo đảm và bảo vệ các quyền con ngƣời. Đạo luật Đracông năm 621 TCN là một ví dụ điển hình về sự khắc nghiệt của luật pháp khi nó không dựa trên nền tảng những giá trị công lý, ví dụ nhƣ chỉ phạm tội trộm cắp vặt nhƣ lấy trộm rau quả cũng bị xử tử. Có thể nói, công lý liên quan mật thiết với pháp luật nhưng không thể đồng nhất công lý là pháp luật. Chỉ khi nào pháp luật chuyển tải đƣợc toàn những giá trị của công lý thì lúc đó, pháp luật mới là biểu hiện của công lý. Ngƣợc lại, một pháp luật không bảo vệ cho kẻ yếu chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi cho thiểu số kẻ mạnh có quyền lực ấy là pháp luật bất công. Trong một số xã hội, luật pháp đôi khi đi chệch hƣớng hoặc đối nghịch với công lý, điển hình nhƣ một số nhà nƣớc quân chủ phong kiến Trung Hoa với tƣ tƣởng sử dụng 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan