Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thư...

Tài liệu Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại tại việt nam (tt)

.PDF
22
77
130

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI NGUYỄN THỊ THANH TÚ ĐỀ TÀI HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2019 MỞ ĐẦU 1. Lí do lựa chọn đề tài Về mặt thực tiễn, trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, đa dạng hóa và mở rộng dịch vụ là xu hướng tất yếu tại các ngân hàng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Tại Việt Nam hiện nay, các ngân hàng thương mại không chỉ dừng lại ở việc đẩy mạnh các dịch vụ truyền thống mà ngày càng phát triển nhiều loại hình hoạt động, trong đó nhiều ngân hàng phát triển thành mô hình có tính chất hỗn hợp. Các hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại như góp vốn, mua cổ phần, đầu tư chứng khoán theo đó được đẩy mạnh, trở thành hoạt động có vị trí ngày càng quan trọng bởi lợi ích kinh tế và ý nghĩa phân tán rủi ro nhất định đối với các ngân hàng. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù của hoạt động ngân hàng nói chung và rủi ro tiềm ẩn liên quan đến vấn đề xung đột lợi ích hàm chứa trong các hoạt động đầu tư, yêu cầu cần kiểm soát chặt chẽ nhóm hoạt động này đối với ngân hàng thương mại là rất cần thiết. Sự kiểm soát này hướng đến mục tiêu không gây ảnh hưởng hoặc hạn chế thấp nhất ảnh hưởng đến hoạt động và chức năng trung gian tiền tệ của ngân hàng thương mại cũng như cả hệ thống, bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Thực tế giai đoạn vừa qua cho thấy, những bất ổn của thị trường tài chính toàn cầu đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam, làm bộc lộ những yếu kém nội tại. Yêu cầu tăng cường sự can thiệp và quản lí của Nhà nước đối với hệ thống ngân hàng do đó càng được đặt ra cấp thiết. Về mặt pháp luật, việc ban hành mới và sửa đổi Luật các Tổ chức tín dụng (năm 1997, 2004 và 2010, 2017), cùng nhiều văn bản hướng dẫn thi hành đã thiết lập một cơ sở pháp lí đầy đủ, chi tiết hơn trong điều chỉnh hoạt động ngân hàng và đảm bảo an toàn hệ thống. Tuy nhiên, một số bất cập, hạn chế, chưa thống nhất vẫn còn tồn tại trong quy định pháp luật, hay ở khía cạnh khác, quy định chưa tạo lập được sự kiểm soát cần thiết và hiệu quả đối với hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại. Những hạn chế này gây ra những hệ quả và rủi ro nhất định trên thực tế thị trường và đặt ra yêu cầu cần thiết phải hoàn thiện nhằm đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng và nền tài chính. Về mặt nghiên cứu, mặc dù là một nội dung quan trọng trong cơ cấu hoạt động của ngân hàng và thị trường tài chính, nhưng hiện nay nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại chưa thực sự được quan tâm nghiên cứu. Các công trình đã được công bố thường tập trung vào nhóm hoạt động truyền thống như huy động, cấp tín dụng hoặc dịch vụ thanh toán của ngân hàng thương mại. Pháp luật về hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại chỉ được đề cập ở từng nội dung hoạt động và chủ yếu trên giác độ kinh tế, những phân tích chuyên sâu hoặc chuyên ngành, đặc biệt về pháp luật rất hạn chế (Điểm qua nội dung các công trình này được mô tả chi tiết tại mục 2 Phần thứ nhất của Luận án). Từ những lí do trên, việc nghiên cứu thấu đáo những vấn đề lí luận và thực tiễn đối với pháp luật về hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại, từ đó xây dựng và hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động này là cấp thiết và có tính thời sự. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của Ngân hàng thương tại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ luật học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận án là xây dựng cơ sở lí luận về hoạt động đầu tư và pháp luật đối với hoạt động đầu tư của NHTM, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật hiện hành, từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật đối với hoạt động đầu tư của NHTM. Nghiên cứu, đánh giá của luận án nhằm đến mục tiêu quản lí hiệu quả, đồng thời có tính định hướng đối với hoạt động đầu tư của các NHTM hiện nay trước yêu cầu hội nhập của nền kinh tế. Với mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án được xác định là: Thứ nhất, tác giả tập trung nghiên cứu và đưa ra khái niệm về hoạt động đầu tư của NHTM, chỉ ra đặc điểm đặc thù hoạt động đầu tư của NHTM với các hoạt động ngân hàng truyền thống và các hoạt động đầu tư khác cũng như ý nghĩa hoạt động đầu tư đối với mô hình NHTM. Thứ hai, nghiên cứu và xây dựng khái niệm và xác định cấu trúc pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM từ đó xác định các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của các NHTM. Thứ ba, nghiên cứu lí luận và thực tiễn một số nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM tại Việt Nam gồm quy định về phương thức thực hiện hoạt động đầu tư, quy định về các biện pháp bảo đảm an toàn khi NHTM thực hiện các hoạt động đầu tư và quy định về quản lí nhà nước đối với hoạt động đầu tư của NHTM. Thứ tư, từ những đánh giá nội dung pháp luật thực tiễn đặt, luận án đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM tại Việt Nam, và tăng cường hiệu quả. Giải pháp vừa có tính tổng thể vừa chi tiết để đảm bảo tính khả thi. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án được xác định như sau: - Các quan điểm khoa học, học thuyết pháp lí của các tác giả cá nhân và tổ chức đã công bố trong các công trình trong nước và nước ngoài. - Hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM bao gồm: Luật các Tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thương mại và các quy định quốc tế như cam kết gia nhập WTO, Hiệp ước Basel. - Thực tiễn hoạt động đầu tư của một số NHTM tại Việt Nam và thị trường thông qua tổng hợp, phân tích số liệu báo cáo tài chính, báo cáo ngành,… Về phạm vi nghiên cứu: Nội hàm hoạt động đầu tư của NHTM có phạm vi rộng và hẹp theo quan điểm tiếp cận. Tuy nhiên, trong khuôn khổ hạn định của luận án, tác giả tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM từ khi ban hành Luật các TCTD số 47/2010/QH12 năm 2010 đến nay. Bên cạnh đó, tác giả xác định phạm vi nghiên cứu chỉ bao gồm các hoạt động góp vốn, mua cổ phần, hoạt động kinh doanh chứng khoán và hoạt động uỷ thác đầu tư. Luận án không nghiên cứu các hoạt động tín dụng đầu tư, đầu tư vào tài sản cố định, và một số hoạt động đầu tư khác như kinh doanh ngoại hối, kinh doanh vàng, đây được xác định là nội dung đã được nghiên cứu tại nhiều công trình. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; các quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về hoạt động tài chính ngân hàng. Để giải quyết hiệu quả đề tài, các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, phỏng đoán khoa học sẽ được tác giả vận dụng một cách linh hoạt nhằm đặt được mục đích nghiên cứu từng nội dung. Tại phần I, phương pháp tổng hợp được sử dụng chủ yếu nhằm tạo lập nguồn tài liệu đầy đủ cho nghiên cứu và hoàn thiện Luận án. Bên cạnh đó, phương pháp phỏng đoán được kết hợp nhằm đưa ra kết luận và đánh giá về tình hình nghiên cứu của đề tài. Tại phần II, các phương pháp nghiên cứu được sử dụng phù hợp với mục tiêu nghiên cứu của từng phần: Chương I, xác định nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về hoạt động đầu tư của NHTM và pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM, tác giả sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh pháp luật, đồng thời có vận dụng phỏng đoán khoa học. Các phương pháp trên giúp cho việc xem xét hoạt động đầu tư của các NHTM, pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM một cách đầy đủ, từ đó đánh giá khách quan, toàn diện và xác định rõ ràng phạm vi vấn đề nghiên cứu cũng như đánh giá bước đầu về yêu cầu, tiêu chí và mức độ điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động đầu tư của NHTM. Chương II, với mục tiêu nghiên cứu về trực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM tại Việt Nam, các phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và phỏng đoán khoa học sẽ được tác giả tiếp tục sử dụng là phương pháp nghiên cứu chủ đạo. Xác định các phương pháp nghiên cứu trên xuất phát từ việc xác định rõ nội dung, mục tiêu và đặc thù nội dung cũng như đối tượng nghiên cứu. Pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM được xem xét như một bộ phận của pháp luật ngân hàng, trong đó mục tiêu điều chỉnh hướng đến hạn chế rủi ro, đảm bảo an toàn hệ thống song vẫn tạo được môi trường để NHTM thực hiện quyền tự do kinh doanh. Từ việc nhận diện đặc trưng trên, trong triển khai nghiên cứu, áp dụng tư duy logic khoa học thông qua việc phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành, đồng thời so sánh pháp luật một số quốc gia trên thế giới để phán đoán các xu hướng, hệ quả có thể xảy ra sẽ có hiệu quả cao, từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật. Chương III, trên cơ sở các luận giải tại chương II và vấn đề lí luận tại chương I, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, đặc biệt vận dụng phỏng đoán khoa học nhằm đưa ra các luận điểm, luận cứ và các giải pháp có tính thực tiễn. 5. Đóng góp mới của Luận án - Là luận án tiến sĩ luật học nghiên cứu hệ thống và chuyên sâu các vấn đề lí luận và thực tiễn về pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM tại Việt Nam. - Nghiên cứu pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM một số nước trên thế giới, làm cơ sở vận dụng chọn lọc để đề xuất hoàn thiện bộ phận pháp luật này tại Việt Nam. - Đánh giá khách quan các quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM trong bối cảnh các yêu cầu đặt ra của tình hình mới. Trên cơ sở đó, Luận án chỉ ra những bất cập còn tồn tại, khẳng định tính tất yếu khách quan của việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM. - Nghiên cứu, đề xuất các kiến nghị, giải pháp phù hợp và khả thi, không chỉ trên phương diện hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM mà còn nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. 6. Ý nghĩa khoa học và tính thực tiễn của đề tài nghiên cứu Thứ nhất: hệ thống hóa vào làm rõ các vấn đề lí luận về hoạt động đầu tư của NHTM và pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM làm cơ sở xác định yêu cầu trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật điều chỉnh. Thứ hai: đánh giá tương đối toàn diện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM tại Việt Nam trong bối cảnh tình hình mới, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn thị trường, khảo sát số liệu và trong sự so sánh với pháp luật một số quốc gia trên thế giới. Trên có sở đó, Luận án chỉ ra những bất cập còn tồn tại trong nội dung pháp luật, khẳng định yêu cầu tất yếu của việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM. Thứ ba: kiến nghị sửa đổi quy định pháp luật, giải pháp phù hợp và khả thi, không chỉ trên phương diện hoàn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM mà còn nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh ý nghĩa khoa học, kết quả nghiên cứu có tính ứng dụng thực tiễn lớn, thể hiện: (i) đóng góp căn cứ cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động ngân hàng nói chung và đặc biệt pháp luật về hoạt động đầu tư của các NHTM; (ii) đóng góp vào hệ thống pháp lí để các cơ quan quản lí nhà nước quản lí và giám sát hoạt động đầu tư của NHTM hiệu quả, đảm bảo hoạt động đầu tư của các NHTM lành mạnh, từ đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của khách hàng. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, Luận án triển khai theo kết cấu gồm hai phần như sau: Phần I: Tổng quan tình hình nghiên cứu Phần II: Nội dung luận án. Phần thứ hai gồm ba chương: Chương 1: Tổng quan về hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại và vấn đề hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại tại Việt Nam Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại tại Việt Nam. PHẦN I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Đề tài “Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại tại Việt Nam” là đề tài nghiên cứu có tính mới, chưa có công trình chuyên sâu nào nghiên cứu giải quyết nội dung này. Trong một số công trình, từng khía cạnh nội dung liên quan đến hoạt động đầu tư của NHTM và pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM được đề cập song thiếu tính toàn diện. Một số sách chuyên khảo, luận án và bài báo nghiên cứu đã đưa ra đánh giá về nội dung liên quan đến hoạt động đầu tư và pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM như: xác định nội hàm và tầm quan trọng của hoạt động đầu tư do NHTM thực hiện, tính chất rủi ro đặt ra vấn đề cần thiết quản lí và điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động này. Tiếp đó, một số bất cập trong pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư cũng được chỉ ra như vấn đề hạn chế trong quản lí nguồn vốn, trong quản lí, tách bạch mối quan hệ và giao dịch giữa NHTM và công ti trực thuộc, thiếu cơ chế trong quản lí hoạt động uỷ thác đầu tư, hạn chế trong công thết lập cơ chế giám sát của cơ quan quản lí đến NHTM khi thực hiện hoạt động đầu tư,... Nhìn chung, nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM đã được nghiên cứu ở mức độ nhất định, tuy nhiên không có tính toàn diện và thực sự chuyên sâu. Do đó, kế thừa, tiếp tục nghiên cứu nội dung về hoạt động đầu tư của NHTM và pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM đảm bảo tính mới và có ý nghĩa hết sức quan trong trong hoàn thiện nội dung pháp luật này, góp phần đảm bảo an toàn thị trường tiền tệ và thị trường tài chính tại Việt Nam. PHẦN II. NỘI DUNG CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Khái quát về hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại 1.1.1 Quan niệm về hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại Đầu tư là khái niệm có nội hàm rộng. Đối với hoạt động đầu tư của NHTM cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Trong phạm vi luận án, “hoạt động đầu tư của NHTM được hiểu là việc NHTM trực tiếp bỏ vốn, tài sản nhằm góp vốn thành lập doanh nghiệp, mua bán các công cụ đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán khác hoặc uỷ thác cho bên thứ ba thực hiện các hoạt động đầu tư nhằm tìm kiếm lợi nhuận”. Dưới cách tiếp cận này, luận án cũng xác định giới hạn nghiên cứu về pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM bao gồm nội dung pháp luật điều về các nhóm hoạt động cụ thể, gồm hoạt động góp vốn, mua cổ phần; hoạt động đầu tư chứng khoán và hoạt động uỷ thác đầu tư. Các nhóm hoạt động đầu tư này của NHTM cũng là vấn đề được quan tâm trong nghiên cứu pháp luật và thực tiễn tại nhiều quốc gia trên thế giới và cũng là vấn đề còn tồn tại nhiều bấp cập tại Việt Nam.. 1.1.2. Đặc điểm hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại Hoạt động đầu tư của NHTM có đặc trưng nhất định, cụ thể (i) tính chất rủi ro; (ii) không phải là hoạt động ngân hàng cơ bản song có vai trò ngày càng quan trọng trong cơ cấu hoạt động của NHTM; (iii) nguồn vốn thực hiện hoạt động đầu tư của NHTM có tính đặc thù và thường phải đảm bảo giới hạn nhất định; (iv) thường phải tuân thủ các giới hạn và biện pháp bảo đảm an toàn trong quá trình thực hiện; (v) chịu sự quản lí chặt chẽ từ phía Nhà nước. Việc xác định và nắm rõ các đặc trưng của hoạt động đầu tư do NHTM thực hiện có ý nghĩa lớn trong đánh giá đầy đủ, toàn diện và khách quan pháp luật điều chỉnh hoạt động này, từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật phù hợp và có tính thực tiễn. 1.1.3. Phân loại hoạt động đầu tư của NHTM Hoạt động đầu tư của NHTM dựa trên các tiêu chí khác nhau có thể phân thành nhiều nhóm hoạt động: Căn cứ thời hạn hoạt động, gồm hoạt động đầu tư trung và dài hạn (thành lập công ti trực thuộc, góp vốn, mua cổ phần khác); hoạt động đầu tư ngắn hạn (đầu tư có thời hạn dưới 01 năm); hoạt động đầu tư không xác định thời hạn. Căn cứ theo phương thức thực hiện hoạt động đầu tư, hoạt động đầu tư của NHTM bao gồm hoạt động góp vốn, mua cổ phần; hoạt động đầu tư chứng khoán (không bao gồm chứng khoán vốn được xem xét trong góp vốn, mua cổ phần); hoạt động uỷ thác đầu tư. 1.1.4 Vai trò hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại - Thực hiện hoạt động đầu tư giúp NHTM có thể da dạng hoá danh mục đầu tư, góp phần tạo lập và ổn định thu nhập - Thực hiện hoạt động đầu tư góp phần cân bằng rủi ro tín dụng của NHTM - Hoạt động đầu tư góp phần tăng cường hiệu quả hoạt động ngân hàng 1.2. Quan niệm và cấu trúc pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại 1.2.1. Quan niệm về pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại Pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM là hệ thống các quy tắc xử sự, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình NHTM thực hiện, sử dụng nguồn vốn, tài sản thực hiện các hoạt động đầu tư bao gồm hoạt động góp vốn, mua cổ phần, hoạt động đầu tư chứng khoán và hoạt động uỷ thác đầu tư. 1.2.2. Cấu trúc pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại Việc xác định cấu trúc pháp luật có thể dựa trên cơ sở từ các quan hệ xã hội cơ bản phát sinh trong quá trình chủ thể thực hiện hoạt động mà pháp luật đó điều chỉnh, đồng thời xuất phát từ đặc trưng và yêu cầu đặc thù đối với nội dung pháp luật đó. Trong quá trình NHTM thực hiện hoạt động đầu tư sẽ phát sinh các nhóm quan hệ xã hội giữa ba bên: NHTM (với vai trò là nhà đầu tư); chủ thể tiếp nhận nguồn vốn đầu tư và chủ thể quản lí. Sự điều chỉnh các nhóm quan hệ này, phải đặt trong yêu cầu đặc thù của hoạt động đầu tư do NHTM thực hiện, đó là đảm bảo sự quản lí, giám sát của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư theo đúng định hướng, trong phạm vi được xác lập hướng đến an toàn hệ thống, giảm thiểu rủi ro hoạt động đối với NHTM, đồng thời đảm bảo quyền tự do kinh doanh và phát huy được tính chủ động của NHTM. Từ việc xem xét nội dung nhóm quan hệ và yêu cầu điều chỉnh đặc thù của pháp luật đối với hoạt động đầu tư của NHTM, cấu trúc pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM được xác định gồm : (i) Nhóm quy định pháp luật về phương thức thực hiện hoạt động đầu tư của NHTM (ii) Nhóm quy định pháp luật về điều kiện và trình tự thực hiện hoạt động đầu tư của NHTM (iii) Nhóm quy định pháp luật về các biện pháp nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động đầu tư của NHTM (iv) Quy định pháp luật về quản lí nhà nước đối với hoạt động đầu tư của NHTM 1.3. Khái quát về hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại 1.3.1. Quan niệm về hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại Hoàn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM là việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật ngân hàng và lĩnh vực liên quan, điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình NHTM thực hiện hoạt động đầu tư nhằm đảm an toàn hệ thống tài chính, nền kinh tế cũng như quyền tự do kinh doanh của ngân hàng. 1.3.2. Nguyên tắc cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại Trong lĩnh vực ngân hàng, sự an toàn của hệ thống được coi là mục tiêu rất quan trọng trong điều hành và quản lí, bởi vậy, trong hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của NHTM phải đảm bảo đồng thời và cân đối hai nguyên tắc cơ bản: (i) nguyên tắc đảm bảo quyền tự do kinh doanh; (ii) nguyên tắc bảo đảm an toàn hệ thống. 1.3.3. Tiêu chí hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại - Nội dung pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM phải phù hợp với quan điểm, đường lối, chính sách phát triển nền kinh tế của quốc gia và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của chính quốc gia đó. - Nội dung pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM phải dựa trên các đặc thù của hoạt động đầu tư do NHTM thực hiện. - Nội dung pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM phải đảm bảo tính hợp lí, khả thi, tính toàn diện và tính thống nhất. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM 2.1. Thực trạng pháp luật về phương thức thực hiện hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại 2.1.1. Về hoạt động góp vốn, mua cổ phần của ngân hàng thương mại Pháp luật ngân hàng Việt Nam đã tạo lập cơ sở pháp lí rõ ràng và ngày càng cụ thể về hình thức và lĩnh vực thực hiện hoạt động góp vốn, mua cổ phần của NHTM, tạo điều kiện để các NHTM thực hiện hoạt động này trên thực tế. Tuy nhiên, quy định trong hoạt động góp vốn, mua cổ phần của NHTM vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần hoàn thiện. Thứ nhất, pháp luật hiện hành chưa tạo lập được cơ chế quản lí thống nhất, toàn diện đối với các ngân hàng mẹ và các công ti liên quan. Thứ hai, pháp luật tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng quyền thực hiện hoạt động góp vốn, mua cổ phần vào “lĩnh vực khác” song chưa tạo lập được cơ chế quản lí chặt chẽ đầy đủ. 2.1.2. Về hoạt động đầu tư chứng khoán của ngân hàng thương mại Qua nghiên cứu mô hình ngân hàng trên thế giới và đánh giá tình hình thị trường Việt Nam cho thấy, trong quản lí hoạt động đầu tư chứng khoán của NHTM, việc lựa chọn mô hình ngân hàng đa năng một phần trong phát triển và quản lí hệ thống ngân hàng là hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, thực trạng và mục tiêu phát triển thị trường tài chính – tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn trước đây và hiện nay. Mặc dù vậy, một số hạn chế trong quy định liên quan đến việc thực hiện hoạt động đầu tư chứng khoán của NHTM vẫn còn tồn tại: Thứ nhất, quy định về các loại chứng khoán NHTM được thực hiện đầu tư chưa rõ ràng. Luật các TCTD năm 2010 sửa đổi bổ sung năm 2017 chỉ đề cập đến quyền thực hiện mua cổ phần và việc tham gia thị trường tiền tệ của NHTM trong đó liệt kê một số loại chứng khoán. NHNN cũng đã ban hành một số văn bản hướng dẫn, cụ thể hoá nội dung này song vẫn chưa thống nhất và chi tiết. Thứ hai, quy định về hạch toán kế toán chứng khoán của NHTM thiếu cụ thể và chuẩn mực kế toán chưa theo kịp chuẩn mực quốc tế. 2.1.3. Về hoạt động uỷ thác đầu tư của ngân hàng thương mại Nhìn chung, hiện nay pháp luật đã tạo lập được cơ sở pháp lý cơ bản cho NHTM thực hiện hoạt động uỷ thác đầu tư. Tuy nhiên, so sánh với các quốc gia khác, các quy định về uỷ thác đầu tư tại Việt Nam còn hạn chế, chủ yếu mới điều chỉnh một số nội dung cơ bản liên quan đến thực hiện giao dịch, hình thức giao dịch, chủ thể thực hiện. 2.2. Thực trạng pháp luật về điều kiện và trình tự thực hiện hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại 2.2.1 Điều kiện và trình tự thực hiện góp vốn, mua cổ phần của ngân hàng thương mại Quy định về điều kiện thực hiện hoạt động góp vốn, mua cổ phần với những bổ sung gần đây đã thể hiện sự cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ, tạo điều kiện TCTD thực hiện quyền kinh doanh, tạo động lực cho chính các NHTM đảm bảo lành mạnh chế độ tài chính nếu muốn mở rộng phạm vi hoạt động, đồng thời tạo cơ sở pháp lí cơ quan Nhà nước thực hiện chức năng quản lí. Bên cạnh đó, một số hạn chế vẫn còn tồn tại: Thứ nhất, quy định về điều kiện chưa có sự xem xét đến quy mô của ngân hàng, cùng với đó các điều kiện tài chính chưa thực sự được đảm bảo trên thực tế. Thứ hai, trong thủ tục quản lí hoạt động góp vốn, mua cổ phần chưa có sự phối hợp và thiếu thống nhất về mặt qui định giữa NHNN với cơ quan quản lí chuyên ngành trong lĩnh vực khác. 2.2.2. Điều kiện và trình tự thực hiện hoạt động đầu tư chứng khoán của ngân hàng thương mại Pháp luật hiện hành đã đặt ra điều kiện đầu tư đối với một số chứng khoán xét về tiêu chí an toàn thấp hơn trong nhóm chứng khoán được phép, đồng thời pháp luật cũng có những điều chỉnh kịp thời về điều kiện và giới hạn trong hoạt động đầu tư chứng khoán nhằm phù hợp với biến động của thị trường. Điểm hạn chế trong quy định về điều kiện và trình tự thực hiện hoạt động đầu tư chứng khoán của NHTM thể hiện như sau: Thứ nhất, pháp luật hiện hành không có quy định hướng dẫn về điều kiện nhằm đảm bảo hoạt động quản lí nội bộ, cơ chế đầu tư hiệu quả đối với đầu tư chứng khoán của NHTM. Thứ hai, trong điều kiện, trình tự thực hiện hoạt động đầu tư chứng khoán, một số thủ tục còn rườm rà, gây phiền toái, thiếu đồng bộ và không ổn định trong các qui định pháp lí. 2.2.3 Điều kiện và trình tự thực hiện hoạt động uỷ thác đầu tư Đối với hoạt động uỷ thác đầu tư, các điều kiện hiện nay được đặt ra ở mức cơ bản, chủ yếu khuyến khích cơ chế tự quản lí và chịu trách nhiệm trong hoạt động của NHTM. Tuy nhiên, trước những biến động của thị trường, các điều kiện và trình tự hiện nay chưa đủ để đảm bảo hạn chế rủi ro tài chính và các hệ quả có thể phát sinh từ việc các chủ thể liên quan lợi dụng hoạt động uỷ thác thực hiện giao dịch về vốn thiếu kiểm soát. 2.3. Thực trạng pháp luật về đảm bảo an toàn cho hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại 2.3.1 Pháp luật về giới hạn trong vốn đầu tư đối với hoạt động đầu tư của NHTM Pháp luật ngân hàng Việt Nam hiện nay đã đặt ra được quy định liên quan đến vốn, sử dụng vốn tương đối toàn diện và có tính tương đồng với nhiều quốc gia nhằm quản lí hoạt động đầu tư của NHTM. Các quy định về tỷ lệ góp vốn mua cổ phần của NHTM trong các doanh nghiệp, giới hạn tổng mức góp vốn, mua cổ phần,… đã góp phần quản lí nguồn vốn của TCTD. Tuy nhiên, cùng với ưu điểm, nội dung này vẫn bộc lộ hạn chế như các điều kiện tài chính chưa được đảm bảo tuyệt đối về độ chính xác làm giảm hiệu quả quản lí; quy định trong kiểm soát hoạt động giữa hệ thống các công ti trực thuộc ngân hàng và ngân hàng chưa được thiết lập chặt chẽ. 2.3.2 Trường hợp không được thực hiện hoạt động đầu tư Các trường hợp không được góp vốn, mua cổ phần hiện nay được pháp luật quy định khá chi tiết, không chỉ ở bản thân các NHTM mà còn đối với các công ti con, công ti liên kết của chính NHTM. Các giới hạn trong hoạt động đầu tư đã giúp loại bỏ được hình thức sở hữu chồng chéo đặc biệt sở hữu chồng chéo giản đơn. Tuy nhiên những quy định này chỉ quản lí được ở bề nổi, còn thực tế nhiều doanh nghiệp lách luật bằng cách đầu tư vòng vo nhiều cấp sau đó quay trở lại NHTM, kết quả là không thể xóa bỏ được các dạng thức sở hữu chồng chéo phức tạp. 2.3.3 Quy định khác nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại Pháp luật đã đặt ra một số giới hạn trong hoạt động đầu tư chứng khoán trực tiếp và uỷ thác đầu tư của các NHTM nhằm đảm bảo an toàn hơn cho nguồn vốn sửa dụng vào hoạt động đầu tư này, tuy nhiên, xét các quy định hiện hành, mức giới hạn trong hoạt động đầu tư chứng khoán chưa thực sự đầy đủ, chưa có quy định điều kiện, giới hạn đối với chứng chỉ quỹ hay “giấy tờ có giá khác”. Đối với hoạt động uỷ thác đầu tư, pháp luật đã đặt ra một số giới hạn, tuy nhiên, các quy định hiện nay chưa tạo được cơ sở pháp lí đầy đủ cho quản lí các giao dịch liên quan, đặc biệt thiếu các biện pháp quản lí dòng vốn đầu tư và bảo đảm an toàn vốn. 2.4 Thực trạng quy định về quản lí nhà nước đối với hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại 2.4.1 Chủ thể quản lí hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại Tương tự như pháp luật các quốc gia, Việt Nam có cơ quan chuyên trách thực hiện quản lí hoạt động ngân hàng là Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, các chủ thể khác như Bộ Tài chính, Sở Kế hoạch Đầu tư, cơ quan quản lí cạnh tranh cũng tham gia vào công tác quản lí tuỳ theo phương thức đầu tư mà NHTM thực hiện. Các chủ thể quản lí nhìn chung đã thực hiện tương đối toàn diện chức năng, nhiệm vụ của mình. Vấn đề cần xem xét trong thời gian tới đó là nâng cao tính tự chủ của NHNN, tăng cường phối kết hợp với các cơ quan chuyên ngành khác, đồng thời hạn chế sử dụng các công cụ quản lí bằng mệnh lệnh hành chính trong hoạt động quản lí. 2.4.2 Biện pháp quản lí nhà nước đối với hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại Việt Nam, tương tự nhiều quốc gia trên thế giới, áp dụng đa dạng các biện pháp quản lí nhà nước đối với NHTM nói chung và hoạt động đầu tư do NHTM thực hiện nhằm đạt mục tiêu điều tiết. Các biện pháp này bao gồm: (i) chế độ báo cáo và yêu cầu minh bạch thông tin; (ii) hoạt động thanh tra, giám sát và (iii) xử lí vi phạm. Các biện pháp quản lí linh hoạt nhìn chung đã phát huy được hiệu quả trong điều tiết thị trường, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần xem xét như sau: Thứ nhất, pháp luật và thực thi pháp luật về công bố thông tin chưa rõ ràng và chưa tạo điều kiện cho nhà đầu tư, khách hàng tiếp cận. Thứ hai, hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng trên thực tế thừa hành còn thiếu sự kết hợp thống nhất giữa các cơ quan thực hiện hoạt động thanh tra, giám sát và quản lí nhà nước trong lĩnh vực tài chính. Thứ ba, các cơ quan giám sát và thực hiện thanh tra nói chung vừa giữ chức năng giám sát, thanh tra vừa giữ chức năng ban hành chính sách, pháp luật nên có thể giảm hiệu quả thanh tra, giám sát. Thứ tư, hoạt động xử phạt vi phạm chưa tạo được tính răn đe do mức xử phạt thấp, đồng thời chưa có chế tài cụ thể đối với các tội phạm về lợi ích nhóm, thao túng doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng. CHƯƠNG III. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM 3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại tại Việt Nam Pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM là bộ phận pháp luật điều chỉnh hoạt động có nhiều nét đặc thù của chủ thể kinh doanh ngân hàng trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam. Bởi vậy, hoàn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM phải thể hiện chủ trương, định hướng phát triển thị trường tài chính của Nhà nước, đặc biệt phải dựa trên cơ sở đánh giá điều kiện riêng biệt đặc thù của nền kinh tế, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Để đảm bảo định hướng hoàn thiện pháp luật trên, một số nội dung cụ thể được xác định như sau: Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM phải phù hợp chủ trương, định hướng phát triển thị trường tài chính của Đảng và Nhà nước. Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM cần đảm bảo và phù hợp với mục tiêu tái cơ cấu hệ thống tài chính, tái cơ cấu các TCTD. Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM cần đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế và yêu cầu hội nhập đặt trong trực trạng đánh giá tình hình tài chính Việt Nam. Thứ tư, hoàn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM đảm bảo mục tiêu giảm thiểu rủi ro hoạt động, đảm bảo hài hoà lợi ích của các bên trong quan hệ đầu tư. 3.2. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại tại Việt Nam 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại 3.2.1.1. Hoàn thiện quy định về phương thức thực hiện hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại Thứ nhất, bổ sung quy định về “mô hình tập đoàn tài chính” nhằm quản lí hoạt động của NHTM và hệ thống các công ti trực thuộc. Quy định mô hình tập đoàn tài chính là xu hướng và giải pháp được áp dụng tại nhiều quốc gia và có sở tại Việt Nam nhằm quản lí, giám sát hệ thống ngân hàng và công ti trực thuộc. Thứ hai, quy định rõ loại chứng khoán được phép thực hiện hoạt động mua bán của NHTM và TCTD nói chung theo hướng liệt kê cụ thể các loại chứng khoán mà NHTM được phép mua bán. Thứ ba, cần đưa vào luật các TCTD nội dung quy định về hoạt động uỷ thác của ngân hàng, theo đó xác định cụ thể các nội dung về điều kiện, trình tự thực hiện việc thực hiện chức năng uỷ thác, phạm vi thực hiện và các quy định , giới hạn đảm bảo an toàn liên quan khi TCTD thực hiện hoạt động uỷ thác đầu tư 3.2.1.2. Hoàn thiện quy định về điều kiện và trình tự thực hiện hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại Thứ nhất, kiến nghị quy định cụ thể điều kiện thực hiện hoạt động góp vốn, mua cổ phần đối với “lĩnh vực khác”. Đề xuất, đối với hoạt động góp vốn, mua cổ phần thông thường (dưới 11% mức sở hữu cổ phần) nên được xác định làm hai trường hợp: (i) tỷ lệ góp vốn, nắm giữ cổ phần từ 5% đến 11% cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện như hoạt động, góp vốn mua cổ phần vào lĩnh vực bảo hiểm, kiều hối, chứng khoán quy định tại khoản 4 điều 4 Thông tư số 51/2018/TT-NHNN về hoạt động góp vốn, mua cổ phần vào doanh nghiệp khác; (ii) tỷ lệ nắm giữ cổ phần dưới 5% của doanh nghiệp nhận vốn góp, chỉ cần đáp ứng các điều kiện ở cơ bản thể hiện năng lực tài chính lành mạnh. Thứ hai, cần xác định rõ yêu cầu phải được chấp thuận của các cơ quan quản lí chuyên ngành như Cơ quan cạnh tranh, Cơ quan quản lí lĩnh vực chứng khoán trong điều kiện và trình tự thủ tục thực hiện hoạt động thành lập, mua lại công ti con, công ti liên kết, tạo lập sự thống nhất trong pháp luật điều chỉnh. Thứ ba, cần bổ sung quy định về điều kiện thực hiện hoạt động đầu tư chứng khoán, chú trọng đến các điều kiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư. Một số điều kiện có thểm xem xét như thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ, yêu cầu về nhân sự, chuyên môn và hoạt động quản lí phải được thực hiện đối với hoạt động mua bán chứng khoán, đặc biệt đối với trái phiếu doanh nghiệp. 3.2.1.3. Hoàn thiện các quy định về biện pháp nhằm đảm bảo an toàn khi thực hiện hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại Thứ nhất, cần thiết phải bổ sung các quy định giới hạn nghiêm ngặt hơn về mức sở hữu cổ phần và quyền tham gia lãnh đạo của mỗi cá nhân. Cụ thể: cá nhân không được thông qua những người được ủy quyền để mua hay khống chế cổ phần tại ngân hàng (truy soát nguồn gốc dòng tiền); nghiêm cấm việc các công ti và tập đoàn kinh tế đầu tư hoặc sở hữu ngân hàng, sau đó lại dùng ngân hàng đó để đầu tư vốn cho các dự án của mình; định nghĩa lại người có liên quan theo hướng hạ thấp tỷ lệ sở hữu ngân hàng phải công bố thông tin. Thứ hai, cần đặt ra yêu cầu các NHTM nói riêng và TCTD nói chung phải duy trì sự độc lập trong mô hình tổ chức, hoạt động giữa NHTM và các công ti trực thuộc. Thứ ba, sửa đổi bổ sung quy định về kế toán trong báo cáo tài chính của ngân hàng liên quan đến chứng khoán đầu tư của NHTM theo hướng tiếp cận các chuẩn mực kế toán quốc tế. Thứ tư, bổ sung quy định giới hạn và tăng cường quản lí trong hoạt động đầu tư chứng khoán của TCTD. Giải pháp cần xem xét gồm ban hành yêu cầu thiết lập cơ chế quản lí rủi ro chặt chẽ đối với tất cả hoạt động mua bán các loại chứng khoán; đặt ra yêu cầu các NHTM cần quản lí chặt chẽ, xây dựng mô hình/ đào tạo chuyên sâu về phân tích, giám sát chất lượng và cơ cấu danh mục chứng khoán. 3.2.1.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động quản lí của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam Thứ nhất, xây dựng cơ chế quản lí, giám sát hoạt động tài chính tập trung. Để thực hiện nội dung này, trước hết cần xây dựng một mô hình giám sát hợp nhất. Tiếp đó, nghiên cứu xây dựng lộ trình và biện pháp thanh tra, giám sát cụ thể cho hoạt động đầu tư, góp vốn của các NHTM. Thứ hai, cần siết chặt chế tài xử lí đối với hành vi vi phạm trong hoạt động đầu tư của NHTM nhằm tạo tính răn đe. 3.2.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại Thứ nhất, tăng cường minh bạch hóa thông tin, phát triển một môi trường kinh doanh lành mạnh, công bằng. Thứ hai, thực hiện các giải pháp nhằm kiểm soát và hạn chế tình trạng sở hữu chéo giữa các TCTD. Thứ ba, nhanh chóng hoàn thiện các tỉ lệ đảm bảo an toàn mới trên cơ sở cần tăng tốc quá trình áp dụng các tiêu chuẩn an toàn theo yêu cầu và tiêu chuẩn quốc tế (Basel II và hướng đến Basel III) vào hoạt động kinh doanh và quản lí tín dụng Việt Nam. Thứ tư, đẩy mạnh tái cơ cấu các TCTD nhằm lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng, giảm thiểu tình trạng sở hữu chồng chéo tiềm ẩn nguy cơ, tạo tiền đề xây dựng một số TCTD mạnh tầm cỡ khu vực và quốc tế theo mô hình tập đoàn tài chính ngân hàng. KẾT LUẬN CỦA LUẬN ÁN Mức độ các ngân hàng được phép tham gia vào các hoạt động đầu tư là nội dung rất quan trọng do tính nhạy cảm và ý nghĩa tác động của hoạt động này đối với sự an toàn, ổn định của hệ thống ngân hàng. Ngành ngân hàng và chứng khoán bản thân luôn tồn tại một sự cạnh tranh nhằm có được lợi thế. Sự tham gia và mức độ giới hạn tham gia của ngân hàng vào hoạt động đầu tư không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của các ngành khác mà còn ảnh hưởng đến cấu trúc thị trường vốn. Bởi vậy, nghiên cứu toàn diện vấn đề lí luận và thực tiễn nội dung này có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Dưới đây là một số kết luận chính liên qua đến kết quả nghiên cứu: Thứ nhất, việc xây dựng nội dung lí luận về hoạt động đầu tư của NHTM và pháp luật về hoạt động đầu tư của NHTM có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đánh giá các quy định pháp luật trên thực tiễn, từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật đảm bảo tính khả thi, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Việc xác định nội hàm, phạm vi và mức độ điều chỉnh pháp luật, nguyên tắc và
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan