1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa (CNH – HĐH) là một trong những mục tiêu
hàng đầu của nƣớc ta trong xu thế hội nhập toàn cầu. Phát triển công nghiệp sẽ đem
lại sự tăng trƣởng cho nền kinh tế quốc gia, trong đó khu kinh tế đặc biệt, khu chế
xuất (KCX), khu công nghiệp (KCN) giữ vai trò vô cùng quan trọng.
Khu công nghiệp góp phần giải quyết việc làm cho ngƣời lao động, tạo thuận
lợi trong thu hút đầu tƣ trong và ngoài nƣớc, tiếp nhận công nghệ tiên tiến, thúc đẩy
tăng trƣởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp, đồng
thời sẽ là cầu nối hội nhập nền kinh tế trong nƣớc với các nền kinh tế quốc tế. Ngày
24 tháng 04 năm 1997, Chính Phủ ban hành Nghị định số 36/CP về Quy chế khu
chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, tạo ra cơ sở pháp lý cho việc xây
dựng và vận hành khu công nghiệp tập trung trên phạm vi cả nƣớc. Sau một thời
gian áp dụng và hoàn thiện, ngày 14 tháng 3 năm 2008 Chính Phủ ban hành Nghị
định số 29/CP của Thủ Tƣớng Chính phủ Qui định về khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu kinh tế thay thế cho nghị định 36/CP, đây là bƣớc tiến trong công tác quản
lý nhà nƣớc đối với các KCN trên cả nƣớc.
Hòa cùng sự phát triển các khu công nghiệp trên khắp cả nƣớc, các khu công
nghiệp tại tỉnh Bình Dƣơng ra đời đã trở thành địa điểm hấp dẫn thu hút đầu tƣ
trong và ngoài nƣớc cùng với các khu công nghiệp của tỉnh Đồng Nai và Thành Phố
Hồ Chí Minh. Bình Dƣơng, Đồng Nai và Thành Phố Hồ Chí Minh tạo thành tam
giác kinh tế trọng điểm phía nam, mang lại gia tăng cho GDP quốc gia, góp phần
thực hiện mục tiêu đƣa nƣớc ta từ một nƣớc có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến
lên một nƣớc công nghiệp hiện đại, tiên tiến.
2. Tính cấp thiết của đề tài
Tỉnh Bình Dƣơng là một trong những tỉnh đứng đầu nƣớc ta về phát triển
công nghiệp cùng với Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, với tổng cộng 28 khu
2
công nghiệp đang hoạt động, có tổng diện tích qui hoạch đƣợc duyệt là 7.187,09 ha,
trong đó có khu công nghiệp Mỹ Phƣớc.
Với một tỉnh có số lƣợng khu công nghiệp nhiều và qui mô lớn nhƣ trên, việc
quản lý hiệu quả hoạt động từng khu công nghiệp là vô cùng cấp thiết, trong đó đối
tƣợng là các doanh nghiệp (DN) đang hoạt động trong khu công nghiệp. Nếu công
tác quản lý các doanh nghiệp đang hoạt động trong khu công nghiệp không đƣợc
chú trọng đúng mức thì sẽ dẫn đến hoạt động của các doanh nghiệp trong khu công
nghiệp gặp trở ngại, môi trƣờng khu công nghiệp bị ô nhiễm, an ninh khu vực
không đƣợc đảm bảo, thất thu thuế…Điều đó sẽ ảnh hƣởng xấu đến môi trƣờng đầu
tƣ tại khu công nghiệp. Ngƣợc lại, công tác quản lý các doanh nghiệp đang hoạt
động trong khu công nghiệp hiệu quả, sẽ đem lại sự phát triển mạnh mẽ cho KCN,
góp phần phát triển kinh tế tại địa phƣơng và cho cả quốc gia.
Khu công nghiệp Mỹ Phƣớc (gồm Mỹ Phƣớc 1, Mỹ Phƣớc 2, Mỹ Phƣớc 3,
Bàu Bàng, Thới Hòa) là khu công nghiệp có qui mô lớn nhất tỉnh Bình Dƣơng, có
tổng diện tích khoảng 6.200 ha (trong đó đất công nghiệp 3.000 ha, đô thị và dịch
vụ 3.200 ha) và là khu công nghiệp điển hình của tỉnh Bình Dƣơng. Với quan điểm
lần đầu tiên tại Việt Nam áp dụng mô hình xây dựng mô hình Khu công nghiệp
phức hợp, trong đó không chỉ thu hút các hoạt động sản xuất công nghiệp mà còn
có các hoạt động dịch vụ, thƣơng mại, đô thị và dân cƣ nhằm đảm bảo một sự phát
triển bền vững. Kết quả nghiên cứu tại khu công nghiệp này giúp nâng cao đƣợc
công tác quản lý khu công nghiệp, gia tăng thu hút đầu tƣ, mang lại sự thuận lợi
trong hoạt động sản xuất cho các doanh nghiệp trong KCN và góp phần phát triển
kinh tế- xã hội. Đồng thời có thể vận dụng đƣợc cho các khu công nghiệp khác
trong tỉnh Bình Dƣơng và cho các khu công nghiệp trên cả nƣớc.
Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Hoàn thiện môi trƣờng hoạt động của các
doanh nghiệp tại khu công nghiệp Mỹ Phƣớc tỉnh Bình Dƣơng đến năm 2020”
làm đề tài luận văn thạc sỹ, ngành Quản trị kinh doanh.
3
3. Mục tiêu của đề tài
Đƣa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện môi trƣờng hoạt động của các doanh
nghiệp đầu tƣ tại KCN Mỹ Phƣớc tỉnh Bình Dƣơng đến năm 2020.
4. Nội dung nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục tiêu nghiên cứu cần giải quyết các vấn đề sau:
- Thứ nhất, hệ thống hóa các cơ sở lý luận về KCN, hoạt động của doanh
nghiệp đầu tƣ trong KCN và các yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động của doanh nghiệp
đầu tƣ trong KCN.
- Thứ hai, tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng tình hình
hoạt động của các doanh nghiệp, các yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động của các doanh
nghiệp đầu tƣ tại KCN Mỹ Phƣớc, tỉnh Bình Dƣơng trong thời gian qua.
- Thứ ba, đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện môi trƣờng hoạt động các doanh
nghiệp tại KCN Mỹ Phƣớc, tỉnh Bình Dƣơng đến năm 2020. Đồng thời đƣa ra các
kiến nghị đối với Nhà Nƣớc và tỉnh Bình Dƣơng.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: Các doanh nghiệp hoạt động tại KCN Mỹ Phƣớc
tỉnh Bình Dƣơng.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về mặt không gian: đƣợc giới hạn trong KCN Mỹ Phƣớc tỉnh Bình Dƣơng.
+ Về mặt thời gian: nghiên cứu môi trƣờng hoạt động của các doanh nghiệp
tại KCN Mỹ Phƣớc tỉnh Bình Dƣơng từ năm 2009 đến năm 2012, các giải pháp đề
xuất đƣợc áp dụng từ nay đến năm 2020.
6. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
Phƣơng pháp luận:
4
Vận dụng các chủ trƣơng, chính sách của Chính Phủ về phát triển công
nghiệp, các lý thuyết về quản trị học, học thuyết về kinh tế truyền thống và hiện đại
vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam nói chung và khu công nghiệp Mỹ Phƣớc tỉnh
Bình Dƣơng nói riêng.
Nghiên cứu một số khu công nghiệp trong nƣớc và trong tỉnh Bình Dƣơng để
rút ra những bài học kinh nghiệm, đề ra các giải pháp áp dụng phù hợp vào KCN
Mỹ Phƣớc.
Phƣơng pháp nghiên cứu:
Sử dụng phƣơng pháp thống kê; phƣơng pháp đối chiếu so sánh, xử lý số liệu
và đánh giá kết quả; phƣơng pháp chuyên gia.
● Nguồn số liệu sơ cấp:
- Đối tƣợng khảo sát: 80 doanh nghiệp đang hoạt động tại KCN Mỹ Phƣớc
tỉnh Bình Dƣơng.
- Phƣơng pháp khảo sát: Tác giả gởi Bảng khảo sát trực tiếp cho trƣởng, phó
phòng hoặc Ban Giám đốc của các doanh nghiệp; hoặc gởi cho tiếp tân của các
doanh nghiệp và nhờ chuyển đến các vị trí trên, sau đó nhận lại kết quả khảo sát
trong 2 tuần. Sau khi có đầy đủ số liệu sẽ đƣợc xử lý bằng phần mềm Excel 2007
(xem phụ lục 3).
● Nguồn số liệu thứ cấp:
- Các giáo trình, sách liên quan đến đề tài.
- Các bộ luật của Quốc Hội; nghị định, thông tƣ, các báo cáo của Chính Phủ
và các Bộ - Ngành.
- Các bài báo, tạp chí, số liệu của cơ quan thống kê, internet…
- Tài liệu, báo cáo năm của Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh Bình
Dƣơng và Ban quản lý khu công nghiệp Mỹ Phƣớc.
5
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MÔI TRƢỜNG HOẠT ĐỘNG CỦA
DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ TRONG KCN
1.1. Doanh nghiệp trong khu công nghiệp
1.1.1. Khái niệm khu công nghiệp
1.1.1.1. Khu công nghiệp
Khái niệm về khu công nghiệp trên thế giới:
Hiện nay trên thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về khu công nghiệp,
khu chế xuất (đƣợc gọi chung là khu công nghiệp), trong đó có thể nêu ra một số
định nghĩa cơ bản sau:
Định nghĩa KCN của Hội nghị địa lý Thế Giới lần thứ 19 tại Thụy Điển, năm
2000:
“Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ rộng, có nền tảng là sản xuất công
nghiệp đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ; kể cả các hoạt động sản xuất công
nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thƣơng mại, văn phòng, nhà ở”.
Định nghĩa khu chế xuất của Ngân hàng Thế giới (World Bank):
“Khu chế xuất là khu có hàng rào trong khu công nghiệp, chuyên sản xuất
hàng xuất khẩu trong đó các doanh nghiệp đƣợc tạo điều kiện thƣơng mại và hoạt
động trong môi trƣờng thông thoáng”.
Định nghĩa khu chế xuất của Cơ quan nghiên cứu phát triển Công nghiệp Liên
Hiệp Quốc (UNIDO):
“Khu chế xuất là khu vực tƣơng đối nhỏ phân cách về mặt địa lý trong một
quốc gia, nhằm mục tiêu thu hút đầu tƣ vào các ngành công nghiệp xuất khẩu bằng
6
cách cung cấp cho những ngành này những điều kiện về đầu tƣ và mậu dịch thuận
lợi”.
Tóm lại, trên Thế giới hiện nay tồn tại song song 07 loại hình khu công
nghiệp nhƣ sau:
- Loại hình 1: Cảng tự do (Free Port)
Cảng Tự do đƣợc thiết lập từ những năm thế kỷ thứ 18 đến thế kỷ thứ 19, do
các chế độ thực dân tìm những con đƣờng để phát triển thƣơng mại, ở đó đƣợc lƣu
trữ hàng hóa miễn thuế với sự giảm thiểu thủ tục thuế quan.
- Loại hình 2: Khu chế xuất (Export Processing Zone)
Khu chế xuất đƣợc hình thành vào khoảng từ năm 1960, đầu tiên tại Shannon
(Ireland). Có thể hiểu khu chế xuất là công viên công nghiệp khoảng từ 40-80 ha,
bao bọc bởi một hàng rào ngăn cách, kiểm soát bởi cơ quan thuế quan hoặc Ban
quản lý khu chế xuất. Khu vực mà Nhà nƣớc cần khuyến khích dành cho những ƣu
đãi đặc biệt để họ vào xây dựng cơ sở vật chất, nhà máy xí nghiệp chuyên sản xuất
hàng cho xuất khẩu. Hàng sản xuất ở đây phần lớn đƣợc xuất khẩu ra nƣớc ngoài,
một phần tiêu thụ nội địa.
- Loại hình 3: Khu công nghiệp tập trung (Industrial Park)
Đây là khu vực tập trung những nhà đầu tƣ vào các ngành công nghiệp mà
Nhà nƣớc cần khuyến khích, ƣu đãi. Tại đây, Chính phủ nƣớc sở tại sẽ dành cho các
nhà đầu tƣ những ƣu đãi cao về thuế, về các biện pháp đối xử phi thuế quan, về
quyền chuyển lợi nhuận ra nƣớc ngoài…Trong khu công nghiệp có thể có hoặc
không có doanh nghiệp khu chế xuất.
- Loại hình 4: Đặc khu kinh tế (Special Economic Zone)
Đặc khu có hàng rào hoặc biên giới ngăn cách rõ ràng với đại lục, mọi vấn
đề kinh tế, thƣơng mại, đầu tƣ, dịch vụ…đều do chính quyền đặc khu quyết định.
Phần lớn hàng hóa sản xuất tại các đặc khu kinh tế dùng để xuất khẩu.
7
- Loại hình 5: Khu bảo thuế
Khu bảo thuế nằm trong hàng rào cứng bao bọc. Nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đƣợc
phép đƣa vào Khu bảo thuế mọi nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, công nghệ phục
vụ cho sản xuất hàng hóa tại Khu bảo thuế mà không phải đóng thuế.
Hàng sản xuất ra sẽ xuất khẩu ra nƣớc ngoài thì chịu sự điều tiết của chính
sách xuất khẩu của đặc khu. Mỗi đặc khu có một quy định khách nhau, tùy theo
trình độ phát triển kinh tế của đặc khu mình, nhƣng nói chung là chế độ ƣu đãi cao
về thuế và các chính sách phi thuế. Bởi vậy nhà đầu tƣ nƣớc ngoài rất nhiệt tình đầu
tƣ và sản xuất tại Khu bảo thuế. Chế độ ƣu đãi ngày một giảm dần theo trình độ
phát triển của đặc khu.
Có thể nói Khu bảo thuế là hình thức mở rộng phạm vi của kho ngoại quan
(Bonded Ware House). Với kho ngoại quan, hàng hóa nƣớc ngoài đƣợc đƣa vào lƣu
kho, không chịu thuế nhƣng chịu sự kiểm soát của hải quan, khi nào đƣa hàng hóa
đó vào nội địa thì mới phải làm thủ tục hải quan, nộp thuế theo luật định.
- Loại hình 6: Khu công nghệ cao (Science and Industrial Development
Zone)
Điểm khác biệt ở loại hình này là ngƣời ta huy động vào khu này các trƣờng
Đại học công nghiệp, các trung tâm nghiên cứu để thực hiện việc nghiên cứu ứng
dụng các sản phẩm mới. Các đề tài nghiên cứu đƣợc ứng dụng ngay vào cuộc sống
bởi các nhà máy xí nghiệp của họ đặt ngay trong khu vực này.
Ƣu thế của Khu Khoa học – Công nghệ này là kỹ thuật cao, độc đáo, sản
phẩm có giá trị gia tăng cao, có thị trƣờng xuất khẩu rộng rãi ở nhiều nƣớc trên thế
giới.
- Loại hình 7: Khu vực mậu dịch tự do (Free Trade Area)
Khu mậu dịch tự do là khu vực mà ở đó các hoạt động thƣơng mại đƣợc tự
do với 3 nội dung cơ bản:
- Thuế quan xuất nhập khẩu đƣợc bãi bỏ;
8
- Các biện pháp phi thuế đƣợc bãi bỏ;
- Các hoạt động thƣơng mại đƣợc đối xử bình đẳng.
Khái niệm về khu công nghiệp ở Việt Nam:
- Ngày 24 tháng 04 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định số 36/CP về
Quy chế khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, trong đó có nêu:
"Khu công nghiệp" là khu tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp
chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công
nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cƣ sinh sống; do Chính phủ hoặc
Thủ tƣớng Chính phủ quyết định thành lập, trong khu công nghiệp có thể có doanh
nghiệp chế xuất.
"Khu chế xuất" là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp chế xuất
chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu
và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cƣ sinh sống; do
Chính phủ hoặc Thủ tƣớng Chính phủ quyết định thành lập [4].
- Ngày 29 tháng 11 năm 2005 Luật Đầu tƣ đƣợc Quốc hội thông qua đã hiệu
chỉnh lại khái niệm về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao nhƣ
sau:
“Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp, và thực hiện
các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, đƣợc thành lập
theo quy định của Chính Phủ” [14].
- Hiện nay, Nghị định số 29/CP, ngày 14 tháng 3 năm 2008 của Thủ Tƣớng
Chính phủ qui định về khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, đinh nghĩa:
Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các
dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, đƣợc thành lập theo
điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này.
9
Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện
dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác
định, đƣợc thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với khu công
nghiệp quy định tại Nghị định này.
Khu công nghiệp, khu chế xuất đƣợc gọi chung là khu công nghiệp, trừ
trƣờng hợp quy định cụ thể [12].
Tóm lại, định nghĩa khu công nghiệp, khu chế xuất có những đặc điểm chung
nhƣ sau:
- Là khu tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp, chuyên sản xuất
hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp;
- Có ranh giới địa lý xác định;
- Do Chính Phủ hoặc Thủ Tƣớng chính phủ quyết định thành lập;
- Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất.
1.1.1.2. Vai trò của KCN
Trong công cuộc Công nghiệp hóa - hiện đại hóa, KCN giữ vị trí vô cùng
quan trọng trong việc phát triển kinh tế của từng địa phƣơng, vùng miền và cho
từng Quốc gia, cụ thể KCN có 6 vai trò chính sau đây:
● Thứ nhất, Phát triển công nghiệp, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế
Khu công nghiệp đƣợc coi là nơi thực hiện chính sách kinh tế mới tốt nhất,
đặc biệt là các chính sách kinh tế đối ngoại, và là đầu tàu trong sự phát triển nền
kinh tế quốc dân.
Khu công nghiệp là trọng điểm kinh tế của địa phƣơng, đóng góp nguốn thu
lớn cho ngân sách, mở mang các ngành nghề mới, tạo việc làm cho ngƣời lao động,
thu hút nguồn lao động sẵn có ở địa phƣơng. Việc xây dựng các khu công nghiệp có
thể làm thay đổi cả diện mạo một vùng kinh tế, tạo điều kiện cho dân cƣ đƣợc tiếp
cận với một nền công nghiệp hiện đại, làm thay đổi tập quán sinh hoạt địa phƣơng.
10
Các khu công nghiệp đƣợc xây dựng sẽ hình thành nên các khu dân cƣ, khu đô thị
mới, kéo theo những dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu cho sản xuất và tiêu dùng.
Phát triển khu công nghiệp sẽ là đầu tàu tăng trƣởng, thúc đẩy các ngành
nghề khác phát triển. Đồng thời, với sự hiện diện của các khu công nghiệp với nhiều
ƣu đãi buộc các doanh nghiệp phân bố rải rác trên địa bàn sẽ phải tính toán đến hiệu
quả kinh tế mà chuyển vào các khu công nghiệp. Việc quy tụ các doanh nghiệp vào
các khu công nghiệp sẽ hạn chế sự lãng phí quỹ đất, giúp cho địa phƣơng có thể tập
trung nguồn vốn để phát triển cơ sở hạ tầng trong các khu công nghiệp, thu hút vốn
đầu tƣ; các nhà đầu tƣ cũng giảm bớt chi phí tìm nơi đầu tƣ, tránh các thủ tục hành
chính rƣờm rà trong việc cấp phép đầu tƣ và hoạt động sản xuất kinh doanh.
● Thứ hai, Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng Công nghiệp hóa –
Hiện đại hóa
Khu công nghiệp hình thành và phát triển sẽ góp phần làm dịch chuyển cơ
cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, làm tăng tỷ trọng của ngành công
nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp của cả nƣớc và của địa phƣơng nơi có
các khu công nghiệp.
Các khu công nghiệp phát triển sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng
hóa trên thị trƣờng trong và ngoài nƣớc, đẩy nhanh tốc độ và kim ngạch xuất khẩu,
tăng nguồn thu ngoại tệ cho doanh nghiệp nhằm tái mở rộng sản xuất, đổi mới trang
thiết bị, tích lũy thêm kinh nghiệm trong quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh,
làm cho các doanh nghiệp ngày càng làm ăn có hiệu quả.
Khu công nghiệp đƣợc hình thành và phát triển đem lại lợi ích cho nƣớc
nhận đầu tƣ và nhà đầu tƣ bởi mục tiêu của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài là giảm chi phí,
tăng lợi nhuận.
● Thứ ba, Tiếp nhận, chuyển giao và áp dụng có hiệu quả những thành tựu của
khoa học và công nghệ, giải quyết việc bảo vệ môi trƣờng đảm bảo phát triển
bền vững
11
Các khu công nghiệp là nơi tiếp nhận chuyển giao và áp dụng có hiệu quả
nhất những thành tựu phát triển của khoa học công nghệ, áp dụng vào quá trình sản
xuất, kinh doanh và dịch vụ với một địa bàn tƣơng đối rộng, đƣợc quy hoạch theo
một kế hoạch và chiến lƣợc phát triển lâu dài của nền kinh tế; với hệ thống cơ sở hạ
tầng kỹ thuật tƣơng đối hiện đại, đồng bộ; cùng với những ƣu đãi mà Nhà nƣớc
dành cho các Khu công nghiệp trong nhập khẩu vật tƣ, thiết bị, về nguồn vốn vay,
về lãi suất… tạo điều kiện thuận lợi cho các khu công nghiệp có thể tiếp nhận công
nghệ tiên tiến, hiện đại trên Thế giới, tận dụng đƣợc lợi thế của các nƣớc đi sau để
rút ngắn dần khoảng cách về khoa học công nghệ với các nƣớc khác. Việc tiếp nhận
khoa học công nghệ đã tạo ƣu thế nổi trội của các khu công nghiệp mà các khu vực
kinh tế khác ít hoặc không có cơ hội. Điểm khác biệt chủ yếu của khu công nghiệp
với vùng ngoài khu công nghiệp là khu công nghiệp có cơ sở hạ tầng kỹ thuật đƣợc
xây dựng và yêu cầu các doanh nghiệp khu công nghiệp trong sản xuất phải bảo vệ
môi trƣờng đảm bảo phát triển bền vững.
Phát triển các Khu công nghiệp tập trung là phƣơng thức tốt nhằm tập trung
nguồn lực vào một “Vùng lãnh thổ” tạo ra cơ hội giúp cho các doanh nghiệp giảm
thiểu các chi phí sản xuất, kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa
và dịch vụ trên thị trƣờng.
● Thứ tư, Tạo việc làm và thu nhập cho ngƣời lao động
Tình trạng khan hiếm nguồn lao động và giá nhân công cao ở các nƣớc tƣ
bản phát triển đã đặt các nƣớc này trƣớc sự lựa chọn giải pháp đầu tƣ vào khu công
nghiệp của các nƣớc đang phát triển nhằm sử dụng lao động dƣ thừa và giá nhân
công rẻ ở các quốc gia này.
Mở mang khu công nghiệp để tạo nhiều hơn chỗ làm việc là một trong những
mục tiêu quan trọng của các nƣớc đang phát triển. Thực tiễn cho thấy, khu công
nghiệp là nơi thực hiện chiến lƣợc toàn dụng lao động trong các quốc gia, đặc biệt
là các quốc gia đang phát triển.
12
Các khu công nghiệp vừa là nơi du nhập kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và học
tập kinh nghiệm quản lý vừa là môi trƣờng đào tạo huấn luyện ra những ngƣời quản
lý có trình độ cao, có bản lĩnh, kinh nghiệm và những công nhân có tay nghề cao, có
ý thức, tác phong công nghiệp do đƣợc tiếp cận với những dây chuyền công nghệ
tiên tiến với kỹ thuật cao, buộc các nhà quản lý và ngƣời lao động phải tự rèn luyện
và không ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn.
● Thứ năm, Tăng cƣờng thu hút đầu tƣ, phát triển ngành nghề và vùng lãnh
thổ
Với những ƣu đãi lớn về giá thuê đất, về chính sách tài chính linh động và
các thủ tục hành chính giản đơn sẽ là lợi thế để các chủ đầu tƣ giảm thiểu chi phí
đầu tƣ, chi phí sản xuất kinh doanh và các chi phí hành chính. Các chủ đầu tƣ không
mất nhiều thời gian đi khảo cứu địa bàn, tiết kiệm thời gian để giải phóng mặt bằng,
xin giấy phép xây dựng… điều này đôi khi có thể làm mất đi cơ hội đầu tƣ do thời
gian nghiên cứu khảo sát thị trƣờng bị kéo dài.
Khu công nghiệp đƣợc thành lập, hoạt động và quản lý tốt, thu hút đƣợc
nhiều nhà đầu tƣ và vốn đầu tƣ tạo những khoản thu rất lớn từ việc chuyển nhƣợng
quyền sử dụng đất, cho thuê nhà xƣởng, các khoản từ thu thuế…
Xây dựng khu công nghiệp sẽ tạo điều kiện dẫn dắt công nghiệp phụ trợ, các
dịch vụ cần thiết từ dịch vụ công nghiệp, tài chính, ngân hàng, cung cấp nguyên liệu
đến dịch vụ lao động trong khu công nghiệp, đồng thời việc thu hút lao động tạo
nên khu dân cƣ tập trung hình thành các đô thị, thành phố công nghiệp, giúp phân
bố và sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực của địa phƣơng.
Xây dựng các khu công nghiệp tập trung còn là một biện pháp hữu hiệu nâng
cao hiệu quả vốn đầu tƣ. Đối với các nƣớc đang phát triển, do thiếu vốn, chƣa cho
phép cùng một lúc hoàn thiện toàn bộ hệ thống cơ sở hạ tầng. Vì vậy, việc xây dựng
và phát triển các khu công nghiệp là một giải pháp tốt nhằm tập trung nguồn lực
vốn rất hạn hẹp vào một số khu vực trọng điểm có nhiều lợi thế hơn các khu vực
khác trên địa bàn lãnh thổ.
13
● Thứ sáu, Khu công nghiệp hình thành và phát triển sẽ là cầu nối hội nhập
nền kinh tế trong nƣớc với nền kinh tế quốc tế
Sự hình thành các khu công nghiệp có tác dụng làm thúc đẩy sự phát triển
kinh tế trong nƣớc, phát huy tác dụng lan tỏa dẫn dắt của khu công nghiệp. Khu
công nghiệp còn là nơi sản xuất hàng hóa xuất khẩu hƣớng ra thị trƣờng thế giới, là
cửa ngõ khai thông nền kinh tế trong nƣớc với bên ngoài, góp phần đẩy nhanh quá
trình tham gia vào phân công lao động quốc tế, hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Thông qua việc thành lập khu công nghiệp, nƣớc chủ nhà muốn đẩy mạnh
hoạt động ngoại thƣơng. Với những ƣu đãi vƣợt trội, cơ chế quản lý thông thoán, vị
trí xây dựng thuận lợi cho vận chuyển, lƣu thông hàng hóa, sẽ giảm chi phí sản
xuất, tạo điều kiện cho việc sản xuất và xuất khẩu hàng hóa.
Đánh giá vai trò của khu công nghiệp, Thủ tƣớng Phan Văn Khải đã nói:
“Phát triển Khu công nghiệp là một giải pháp quan trọng nhằm tạo thuận lợi cho
đầu tư kinh doanh, tiết kiệm nguồn lực xây dựng kết cấu hạ tầng, góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm an ninh quốc phòng”. [13].
1.1.2. Doanh nghiệp trong KCN
- Theo Luật doanh nghiệp sửa đổi bổ sung năm 2009, định nghĩa:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch
ổn định, đƣợc thành lập hoặc đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện các hoạt đông kinh doanh [11].
- Theo Điều 2, Luật doanh nghiệp tƣ nhân, định nghĩa:
Doanh nghiệp là một đơn vị kinh doanh thành lập nhằm mục đích thực hiện
một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tƣ, từ sản xuất để tiêu thụ
sản phẩm, hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trƣờng, với mục tiêu cuối cùng là sinh lợi.
- Theo Nghị định số 36/CP về Quy chế khu chế xuất, khu công nghiệp, khu
công nghệ cao:
14
"Doanh nghiệp KCN" là doanh nghiệp đƣợc thành lập và hoạt động trong
KCN, gồm doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ.
"Doanh nghiệp chế xuất" là doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu,
thực hiện các dịch vụ chuyên cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu
đƣợc thành lập và hoạt động theo Quy chế này [4].
Có nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, mỗi loại hình doanh nghiệp có
đặt trƣng riêng có khả năng đem lại cho chủ sở hữu những lợi thế và những hạn chế
khác nhau. Theo Luật doanh nghiệp năm 2009, có 3 loại hình doanh nghiệp hoạt
động tại Việt Nam.
Doanh nghiệp nhà nƣớc:
Doanh nghiệp nhà nƣớc là tổ chức kinh tế do nhà nƣớc đầu tƣ vốn thành lập
và tổ chức quản lý các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực
hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà nƣớc giao.
Doanh nghiệp tƣ nhân:
Doanh nghiệp tƣ nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Công ty:
Công ty là doanh nghiệp gồm các thành viên góp vốn đƣợc hƣởng lợi nhuận
và chịu trách nhiệm về các khoản nợ các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp
trong phạm vi vốn góp hoặc trong số vốn đã cam kết tham gia vào doanh nghiệp
hoặc chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình.
Có 3 loại công ty nhƣ sau:
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn: gồm Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên và Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
+ Công ty cổ phần.
+ Công ty hợp danh [11].
15
1.1.3. Quyền hạn và nhiệm vụ của doanh nghiệp trong KCN
Theo Nghị định 36/CP năm 1997 về ban hành Qui chế khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu công nghệ cao, qui định:
Doanh nghiệp KCN có đủ cơ sở pháp lý hoạt động trong KCN sau khi đƣợc
cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền ra quyết định chấp thuận đầu tƣ hoặc cấp giấy
phép đầu tƣ và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài thì giấy phếp đầu tƣ có giá
trị là giấy đăng ký kinh doanh theo quy định tại Điều 60 Luật Đầu tƣ nƣớc ngoài tại
Việt Nam.
Đối với các nhà đầu tƣ trong nƣớc khi đầu tƣ vào KCN phải có quyết định
thành lập doanh nghiệp theo quy định hiện hành đối với mỗi loại hình doanh
nghiệp.
Thời hạn hoạt động của doanh nghiệp KCN không quá 50 năm và không
vƣợt quá thời hạn hoạt động của Công ty phát triển hạ tầng KCN, đƣợc tính từ ngày
doanh nghiệp đƣợc cấp có thẩm quyền ra quyết định chấp thuận đầu tƣ hoặc cấp
giấy phép đầu tƣ vào KCN. Trƣờng hợp đặc biệt thời hạn hoạt động của doanh
nghiệp KCN có thể vƣợt quá thời hạn hoạt động của Công ty phát triển hạ tầng
KCN, nhƣng phải đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ chấp thuận trên cơ sở đề nghị của Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh và cơ quan ra quyết định chấp thuận đầu tƣ hoặc cấp giấy
phép đầu tƣ.
● Quyền hạn của doanh nghiệp trong KCN:
+ Thuê lại đất trong KCN theo quy định hiện hành đối với mỗi loại hình
doanh nghiệp để xây dựng nhà xƣởng và các công trình kiến trúc phục vụ sản xuất kinh doanh. Thời hạn thuê đất trong KCN phù hợp với thời hạn hoạt động của các
doanh nghiệp KCN ghi trong quyết định chấp thuận đầu tƣ hoặc giấy phép đầu tƣ.
+ Sử dụng có trả tiền các công trình kết cấu hạ tầng, các tiện nghi tiện ích
công cộng, các dịch vụ trong KCN.
16
+ Tổ chức sản xuất kinh doanh, thực hiện các dịch vụ phù hợp với quyết định
chấp thuận đầu tƣ hoặc giấy phép đầu tƣ, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, hợp
đồng, điều lệ doanh nghiệp.
+ Xuất nhập khẩu trực tiếp theo quy định của pháp luật.
+ Thuê các tiện ích công cộng, các phƣơng tiện sản xuất kinh doanh và dịch
vụ ngoài KCN.
+ Trong thời hạn đƣợc phép sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp KCN có
quyền chuyển nhƣợng phần vốn của mình theo đúng quy định của pháp luật hiện
hành. Việc chuyển nhƣợng vốn chỉ có hiệu lực sau khi đƣợc cơ quan ra quyết định
chấp thuận đầu tƣ hoặc cấp giấy phép đầu tƣ chuẩn y hợp đồng chuyển nhƣợng vốn.
● Nhiệm vụ của doanh nghiệp trong KCN:
+ Tuân thủ pháp luật, Điều lệ quản lý KCN, quyết định chấp thuận đầu tƣ
hoặc giấy phép đầu tƣ, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
+ Đăng ký với Ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh: Số lƣợng, khối lƣợng
sản phẩm xuất khẩu và tiêu thụ tại thị trƣờng trong nƣớc (đối với doanh nghiệp
KCN); số lƣợng phế phẩm, phế liệu còn giá trị thƣơng mại từ doanh nghiệp chế
xuất bán vào thị trƣờng trong nƣớc và hàng hoá từ thị trƣờng trong nƣớc đƣợc mua
chuyển vào doanh nghiệp chế xuất (đối với doanh nghiệp chế xuất). Đối với doanh
nghiệp khu công nghệ cao, ngoài việc đăng ký các nội dung nêu trên tùy theo loại
hình doanh nghiệp, còn phải đăng ký việc chuyển giao công nghệ cao.
+ Thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nƣớc.
+ Mở tài khoản ngoại tệ và tài khoản đồng Việt Nam tại Ngân hàng đƣợc
phép hoạt động tại Việt Nam. Đƣợc mở tài khoản tại các Ngân hàng nƣớc ngoài để
tiếp nhận vốn vay nếu bên cho vay nƣớc ngoài yêu cầu phải mở tài khoản vốn vay
tại Ngân hàng nƣớc ngoài và đƣợc Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam chấp thuận.
+ Thực hiện chế độ kế toán, thống kê, bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
17
+ Tuân thủ các quy định về an ninh, trật tự, bảo đảm an toàn lao động, vệ
sinh công nghiệp, bảo vệ môi sinh, môi trƣờng và phòng chống cháy, nổ.
+ Thực hiện báo cáo định kỳ và hàng năm về Ban quản lý khu công nghiệp
cấp tỉnh [4].
1.2. Hoạt động của doanh nghiệp trong KCN
1.2.1. Ngành nghề kinh doanh
Cơ cấu ngành nghề trong công nghiệp đƣợc phát triển trên cơ sở tiềm năng
và lợi thế phát triển của từng chuyên ngành về vốn, nhân lực, công nghệ, nguyên vật
liệu và trình độ quản lý, nhằm tạo ra sản phẩm với chi phí đầu vào hợp lý, có khả
năng cạnh tranh, mang lại lợi nhuận và tích lũy cao cho chuyên ngành nói riêng và
toàn bộ công nghiệp nói chung.
Tại Việt Nam, quá trình phát triển công nghiệp đã hình thành các chuyên
ngành sau:
- Ngành chế biến nông – lâm - thủy sản và đồ uống;
- Ngành chế biến gỗ;
- Ngành hóa chất - phân bón;
- Ngành dệt may;
- Ngành da giày;
- Ngành chế tạo các thiết bị thông tin liên lạc;
- Ngành cơ khí chế tạo;
- Ngành ô tô và xe máy;
- Ngành đóng tàu;
- Ngành hóa dầu…
18
Sự phát triển cơ cấu chuyên ngành trong công nghiệp thể hiện trình độ phát
triển cao, thấp của nền công nghiệp quốc gia. Những ngành thuộc lĩnh vực kỹ thuật
cao nhƣ: cơ khí chế tạo, ô tô và xe máy, đóng tàu, hóa dầu… sẽ đem lại lợi thế cạnh
tranh nhất định trên thị trƣờng và gia tăng lợi nhuận. Ngƣợc lại những ngành nghề
thủ công, tỉ lệ chất xám ít nhƣ: chế biến thủy sản, chế biến gỗ, dệt may, da giày…
mặt dù dùng nhiều nhân lực nhƣng đem lại lợi nhuận thấp. Vì vậy, việc chọn lựa
ngành nghề cần đầu tƣ vào KCN vừa phù hợp với điều kiện địa phƣơng vừa đảm
bảo yếu tố công nghệ, vừa đem lại lợi nhuận cao là hƣớng đi bền vững và phát triển
cho từng KCN.
1.2.2. Sản phẩm - Thị trƣờng
Cơ cấu sản phẩm công nghiệp là tổng thể các sản phẩm vật chất kỹ thuật, các
loại hình hoạt động phục vụ sản xuất công nghiệp. Cơ cấu sản phẩm công nghiệp
bao gồm:
- Sản phẩm tƣ liệu công nghiệp;
- Sản phẩm tiêu dùng công nghiệp.
Sản phẩm tƣ liệu công nghiệp là sản phẩm tƣ liệu sản xuất do ngành công
nghiệp cung ứng. Ví dụ: các loại máy móc công cụ, máy động lực (máy nổ dieze,
máy phát điện), máy truyền dẫn (băng tải, dây chuyền), vật tƣ cơ bản (sắt, thép, xi
măng…). Sản phẩm tƣ liệu công nghiệp có vai trò quan trọng, làm nền tảng cơ sở
để phát triển các lĩnh vực công nghiệp nói riêng, cũng nhƣ phát triển các lĩnh vực
kinh tế khác nói chung. Trong quá trình Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở Việt
Nam, phát triển sản xuất sản phẩm tƣ liệu công nghiệp có ý nghĩa quan trọng hàng
đầu, nhằm bảo đảm cơ sở bền vững để phát triển một nền công nghiệp tự chủ của
Việt Nam.
Sản phẩm tiêu dùng công nghiệp là sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng
trong các lĩnh vực thuộc công nghiệp, các lĩnh vực thuộc ngành kinh tế khác trong
cơ cấu kinh tế, cũng nhƣ các lĩnh vực tiêu dùng trong đời sống kinh tế - xã hội của
19
nhân dân (nhu cầu ăn, mặc, ở, giải trí…). Trong phát triển kinh tế - xã hội nhu cầu
tiêu dùng trong sản xuất và đời sống ngày càng đa dạng và nâng cao, đòi hỏi các sản
phẩm công nghiệp tiêu dùng ngày càng phong phú, đa dạng hóa, chất lƣợng cao, giá
cả hợp lý, nhằm thỏa mãn không ngừng nhu cầu tiêu dùng của đời sống kinh tế - xã
hội, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa tiêu dùng Việt Nam, giảm dần tỷ
trọng nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng công nghiệp, sao cho sản phẩm công nghiệp
tiêu dùng Việt Nam làm chủ thị trƣờng trong nƣớc trong quá trình Công nghiệp hóa
- Hiện đại hóa và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế [13].
Thị trƣờng là nơi chuyển giao quyền sở hữu sản phẩm, dịch vụ hoặc tiền tệ
nhằm thỏa mãn nhu cầu của hai bên cung và cầu về một loại sản phẩm nhất định
theo thông lệ hiện hành, từ đó xác định rõ số lƣợng và giá cả cần thiết của sản
phẩm, dịch vụ. Thực chất, thị trƣờng là tổng thể các khách hàng tiềm năng cùng có
một yêu cầu cụ thể nhƣng chƣa đƣợc đáp ứng và có khả năng tham gia trao đổi để
thỏa mãn nhu cầu đó.
Thị trƣờng đƣợc chia thành 3 loại: thị trƣờng hàng hóa – dịch vụ, thị trƣờng
lao động, thị trƣờng tiền tệ [2].
1.2.3. Công nghệ sản xuất
Công nghệ đƣợc hiểu là các phƣơng pháp, phƣơng tiện và bí quyết công
nghệ, nhằm làm ra một sản phẩm công nghiệp nhất định. Theo tổ chức phát triển
công nghiệp của liên hợp quốc UNIDO (United nations industry development
organization), công nghiệp có 4 thành phần cơ bản:
- Thành phần 1: Trang thiết bị, bao gồm thiết bị máy móc, khí cụ, nhà xƣởng.
- Thành phần 2: Kỹ năng và tay nghề, liên quan tới kinh nghiệm nghề nghiệp
của từng ngƣời hoặc từng nhóm ngƣời.
- Thành phần 3: Thông tin liên quan tới các bí quyết, các quy trình, các
phƣơng pháp, các dữ liệu, các bản thiết kế…
20
- Thành phần 4: Tổ chức thể hiện trong việc bố trí, sắp xếp, điều phối, quản
lý thị trƣờng…
Bốn thành phần trên của công nghệ liên quan mật thiết với nhau, tạo ra sức
mạnh tổng hợp của công nghệ trong pháp triển công nghiệp. Trong bối cảnh phát
triển, đổi mới công nghệ nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại, một sản phẩm có thể đƣợc chế tạo ra bởi phƣơng pháp công nghệ khác
nhau với hiệu quả khác nhau.
Theo khuyến cáo của Liên Hợp Quốc, các nƣớc đang phát triển nên lựa chọn
“công nghệ thích hợp”. Công nghệ thích hợp đƣợc hiểu không phải công nghệ đắt
tiền nhất, nhƣng phải là công nghệ tiên tiến, cho khả năng sản phẩm có khả năng
cạnh tranh trên thị trƣờng dự tính. Công nghệ thích hợp đƣợc du nhập bằng hoạt
động “chuyển giao công nghệ”. Công nghệ chuyển giao vào Việt Nam theo quy
định của Nghị định số 11/2005/NĐ-CP ngày 02/02/2005 của Chính phủ phải là:
- Công nghệ tạo ra sản phẩm mới và cần thiết tại Việt Nam hoặc để sản xuất
hàng xuất khẩu;
- Công nghệ nâng cao tính năng kỹ thuật, chất lƣợng sản phẩm vào việc sản
xuất;
- Công nghệ nhằm tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu, khai thác và sử dụng có
hiệu quả tài nguyên thiên nhiên;
- Nghiêm cấm việc chuyển giao công nghệ có ảnh hƣởng xấu đến môi trƣờng
sinh thái, an toàn lao động [3].
Việc xem xét các dự án đầu tƣ nƣớc ngoài cần chú ý đến vấn đề sử dụng
công nghệ mới tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh của hàng hóa của các doanh
nghiệp khu công nghiệp. Áp dụng công nghệ mới tạo điều kiện cho các doanh nhiệp
Việt Nam tiếp cận, học tập, sử dụng công nghệ mới để nâng cao chất lƣợng sản
phẩm với giá thành cạnh tranh khi chúng ta đã gia nhập WTO là một trong những
yêu cầu khi thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài.
- Xem thêm -