Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoàn thiện danh mục cho vay tại ngân hàng đầu tư và phát triển việt na...

Tài liệu Hoàn thiện danh mục cho vay tại ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam chi nhánh hải vân.

.PDF
106
129
77

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hệ thống ngân hàng thương mại của nước ta từ khi ra đời cho đến nay đã phát triển không ngừng và góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên các ngân hàng thương mại còn hoạt động theo loại hình ngân hàng cổ điển với hoạt động cho vay là chủ yếu và phương pháp tiếp cận phân tích tín dụng trong cho vay là phân tích tín dụng truyền thống chú trọng cho vay riêng lẻ chứ chưa thực sự quan tâm xây dựng và hoàn thiện danh mục cho vay tổng quát. Mặc khác hoạt động cho vay thương mại trước đây cũng thường đi kèm với giả định rằng người cho vay có đủ khả năng dự báo được kết quả của từng khoản tín dụng, và do vậy không cần quản lý một danh mục các khoản cho vay ở mức độ rủi ro chấp nhận được. Càng tìm hiểu kỹ về hoạt động của công ty thì ngân hàng càng cảm thấy hoàn toàn tin tưởng vào khả năng của mình trong việc dự kiến tình hình hoạt động trong tương lai của người vay. Kết quả là họ ngày càng cảm thấy hài lòng với những khoản cho vay rất lớn đối với từng người vay. Vì lý do này, và còn nhiều lý do khác nữa, danh mục cho vay của các ngân hàng thương mại trở nên kém đa dạng hơn. Thêm nữa, do tỷ lệ tăng trưởng của danh mục cho vay thương mại trước đây thường không cao, nên các ngân hàng cho vay cũng chậm chễ trong việc tự động hóa hoạt động của bộ phận hỗ trợ, một công việc đáng ra sẽ đóng góp được cho quá trình phát triển những kỹ thuật thông tin quản lý mới. Trên thực tế, các ngân hàng thương mại lại dành ưu tiên cho việc tự động hóa hoạt động của bộ phận xử lý khoản cho vay và kế toán, thay vì bộ phận chịu trách nhiệm xây dựng và giám sát danh mục cho vay. Đồng thời, hệ thống thông tin cần có để giám sát danh mục cho vay thương mại lại chưa được phát triển một cách nhanh chóng như đối với các danh mục đầu tư tài chính khác, ví dụ như đầu tư cổ phiếu, trái phiếu và cho vay tiêu dùng. 2 Do vậy, cùng với việc nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng thì việc xây dựng và hoàn thiện danh mục cho vay của NHTM là xu thế tất yếu trong hoạt động kinh doanh của các NHTM nước ta, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, đồng thời cũng là mục tiêu nhằm quản lý tốt các hình thức cho vay trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. NHĐT&PT-HV cũng không nằm ngoài thực trạng chung đó, việc xây dựng và hoàn thiện danh mục cho vay nhằm giúp chi nhánh có được bức tranh tổng thể về hoạt động cho vay của mình, thực hiện cho vay đồng thời giám sát nhằm phát hiện kịp thời những dấu hiện bất thường. Từ đó đưa ra được những giải pháp cụ thể để xử lý nhằm làm danh mục cho vay của chi nhánh được phù hợp với điều kiện hoạt động của mình và thu về lợi nhuận cao nhất với mức rủi ro thấp nhất. Từ tính thực tế tất yếu khách quan là cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện danh mục cho vay của các NHTM nói chung và thực tế còn tồn tại trong công tác tín dụng của NHĐT & PT-HV nói riêng trong những năm qua. Chính vì vậy, đề tài “Hoàn thiện danh mục cho vay tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Hải Vân” đã được chọn làm đối tượng nghiên cứu trong luận văn này. 2. Mục đích nghiên cứu - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung về danh mục cho vay và hoàn thiện danh mục cho vay trong hoạt động kinh doanh của NHTM. - Xem xét, phân tích và đánh giá thực trạng về danh mục cho vay tại NHĐT&PT-HV từ năm 2009 – 2011. 3 - Đề xuất giải pháp và đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện danh mục cho vay tại NHĐT&PT-HV trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng danh mục cho vay tại NHĐT&PT-HV trong giai đoạn từ năm 2009 đến 2011. Đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện danh mục cho vay trong thời gian tới. 4. Phương pháp nghiên cứu - Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với phương pháp nghiên cứu thống kê, so sánh, phân tích,… đi từ cơ sở lý thuyết đến thực tiễn nhằm giải quyết và làm sáng tỏ mục đích đặt ra trong luận văn. - Phương pháp phân tích và tổng hợp. - Các phương pháp thống kê mô tả (như phân tích biến động, số tương đối, phân tích cơ cấu, so sánh theo chiều ngang,…) - Phương pháp diễn dịch và quy nạp. - Phương pháp logic và lịch sử. 5. Những đóng góp của luận văn - Luận văn đã định hướng về những vấn đề lý luận chung trong việc xây dựng và hoàn thiện danh mục cho vay tại NHĐT&PT-HV. - Phân tích và đánh giá thực trạng cho vay tại NHĐT&PT-HV trong giai đoạn từ năm 2009 – 2011 phân theo nhiều tiêu chí khác nhau như theo kỳ hạn, loại hình doanh nghiệp, theo quy mô doanh nghiệp, theo hình thức đảm bảo…. 4 - Đưa ra những nhóm giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện danh mục cho vay tại NHĐT&PT-HV trong thời gian tới. 6. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương. Chương 1: Cơ sở lý luận về danh mục cho vay của ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng danh mục cho vay tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Hải Vân trong giai đoạn từ năm 2009 đến 2011. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện danh mục cho vay tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Hải Vân 5 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DANH MỤC CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 Tổng quan về hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại Theo định nghĩa NHTM của Peter Rose: Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. [13, Tr. 20] Căn cứ Luật các tổ chức tín dụng do Quốc Hội khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ 7 ngày 16 tháng 06 năm 2010, có hiệu lực thi hành vào ngày 01 tháng 01 năm 2011 thì NHTM được định nghĩa như sau: Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh theo quy định của luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận. Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ như: nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản cho khách hàng. Như vậy, NHTM là một trung gian tài chính quan trọng đứng giữa người đi vay và người cho vay, thông qua đó kiếm lợi nhuận cho mình. 1.1.1 Khái niệm, phân loại của hoạt động cho vay 1.1.1.1 Khái niệm hoạt động cho vay Cho vay là một quan hệ kinh tế phát sinh giữa các chủ thể trong nền kinh tế với nhau. Trong đó, chủ thể này cho chủ thể khác quyền sử dụng một lượng giá trị hay hiện vật với điều kiện mà hai bên thoả thuận. [12, Tr. 41] 6 Cho vay là một sự nhường quyền sử dụng một khoản tiền giữa ngân hàng và khách hàng được thoả thuận có hoàn trả gốc và lãi trong một thời gian nhất định. Hay định nghĩa như sau: Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. [2, Tr. 19] Định nghĩa trên được các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác áp dụng để làm tiền đề căn bản cho các hoạt động cho vay của mình. 1.1.1.2  Phân loại cho vay Căn cứ thời hạn cho vay Theo tiêu thức này hoạt động cho vay có thể phân thành 03 loại sau: + Cho vay ngắn hạn: là loại hình cho vay có thời hạn dưới một năm. Mục đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động. + Cho vay trung hạn: là loại hình cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Mục đích của loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định. +Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ vào các dự án đầu tư, mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất.  Căn cứ vào mục đích cho vay Theo tiêu thức này hoạt động cho vay có thể phân thành các loại sau: + Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công nghiệp và thương mại. 7 + Cho vay tiêu dùng cá nhân. + Cho vay kinh doanh bất động sản. + Cho vay hỗ trợ sản xuất nông nghiệp và các khoản cho vay dành cho nông dân. + Cho vay khác …  Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng hay căn cứ vào tính chất đảm bảo của khoản vay + Cho vay có bảo đảm bằng tài sản: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền vay như: Cầm cố, thế chấp, hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác… + Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: là loại cho vay không có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba mà chỉ dựa vào uy tín của khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.  Căn cứ vào phương thức cho vay + Cho vay từng lần: mỗi lần cho vay vốn khách hàng và ngân hàng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. + Cho vay theo hạn mức tín dụng: ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. + Cho vay theo dự án đầu tư: ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống. + Cho vay đồng tài trợ: một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng. Trong đó, có 8 một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác để thực hiện. + Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: ngân hàng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của ngân hàng. + Cho vay theo hạn mức thấu chi: là việc ngân hàng thoả thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng trong phạm vi hạn mức tín dụng.  Căn cứ vào phương thức hoàn trả nợ vay Theo tiêu thức này hoạt động cho vay có thể chia thành các loại sau: + Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần khi đáo hạn. + Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ. + Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà tuỳ khả năng tài chính của người đi vay có thể trả nợ bất kỳ lúc nào.  Căn cứ vào quan hệ giữa ngân hàng với người vay + Cho vay trực tiếp: người nhận nợ vay (người được giải ngân) đồng thời cũng là người trả nợ gồm: cho vay thấu chi, cho vay trực tiếp từng lần, luân chuyển, trả góp,… + Cho vay gián tiếp: là người nhận nợ vay (người được giải ngân) không phải là người trả nợ cuối cùng. 1.1.2 Vai trò của hoạt động cho vay 9 Hoạt động cho vay của ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế xã hội tại khu vực ngân hàng phục vụ, bởi vì hoạt động cho vay của ngân hàng thúc đẩy tăng trưởng của các doanh nghiệp tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Hơn nữa, thông qua các khoản cho vay của ngân hàng, thị trường sẽ có thêm thông tin về chất lượng tín dụng của từng khách hàng và nhờ đó giúp cho họ có khả năng nhận thêm các khoản tín dụng mới từ những nguồn khác với chi phí thấp hơn. Như vậy, có thể nhìn nhận thấy vai trò của hoạt động cho vay tác động tương hỗ đối với hai chủ thể lớn trong nền kinh tế là: * Đối với nền kinh tế - Tín dụng ngân hàng góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế, thực hiện chiến lược kinh tế của nhà nước. - Kích thích tính năng động linh hoạt của các doanh nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh đáp ứng yêu cầu hội nhập. - Tín dụng ngân hàng giúp tăng nhanh vòng quay của vốn, giảm lượng tiền mặt trong lưu thông. - Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình mở rộng quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế. - Điều hoà vốn, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng trong nền kinh tế. * Đối với bản thân NHTM - Là nghiệp vụ mang lại nguồn thu lớn nhất và chủ yếu cho ngân hàng trong quá trình hoạt động của mình. rủi ro. Là hoạt động mang lại rủi ro nhất cho ngân hàng nên cần được quản trị 10 Tóm lại: Tín dụng ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế, với định lượng của Đảng và Nhà nước, các NHTM hiện nay đã và đang xây dựng một chiến lược về thị trường nhằm ngày càng nâng cao chất lượng tín dụng, nâng cao chất lượng cho vay nhằm phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của chính bản thân ngân hàng và quá trình phát triển chung của đất nước. 1.1.3 Nguyên tắc cho vay Hoạt động cho vay giữ vai trò quan trọng trong các hoạt động của ngân hàng thương mại. Chất lượng của hoạt động cho vay có ý nghĩa sống còn đối với NHTM. Do vậy, khi cho vay cần tuân theo những nguyên tắc nhất định nhằm hạn chế rủi ro có thể xảy ra, cụ thể những nguyên tắc chính yếu là: - Sử dụng vốn vay đúng mục đích Vốn vay ngân hàng cấp cho các doanh nghiệp, cá nhân là nhằm đáp ứng các nhu cầu kinh doanh và tiêu dùng. Nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân phải gắn với mục đích hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Chính mục đích vay có ảnh hưởng đến chất lượng của các khoản vay. Để được vay vốn bên đi vay phải giải trình với ngân hàng về mục đích vay vốn, kế hoạch vay vốn, số vốn vay, kế hoạch sản xuất kinh doanh. - Hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng thời hạn đã thoả thuận Thực hiện vai trò trung gian của mình, ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Với tư cách là người đi vay, ở quan hệ này ngân hàng thực hiện các hành vi giao dịch cho chính bản thân mình. Bởi vậy, ngân hàng có trách nhiệm trả tiền cho người gửi cả gốc và lãi. Với tư cách là người cho vay, ngân hàng có quyền quyết định cho người khác vay và yêu cầu người đi vay phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn theo thỏa thuận đã được ký kết trong hợp đồng tín dụng. [6, Tr. 10] 11 1.2 Danh mục cho vay của Ngân Hàng Thương Mại 1.2.1 Khái niệm danh mục cho vay Danh mục cho vay là tổng hợp tất cả các khoản cho vay của ngân hàng được xây dựng tại một thời điểm nhất định. Danh mục cho vay là tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất của các ngân hàng, giá trị của một danh mục cho vay không chỉ phụ thuộc vào lợi nhuận thu được của các khoản vay mà còn thể hiện ở chất lượng của các khoản vay hay chính là khả năng hoàn trả gốc và lãi của người đi vay. [11, Tr. 4] 1.2.2 Cơ cấu danh mục cho vay Cơ cấu cho vay của ngân hàng là tỷ trọng dư nợ cho vay từng bộ phận trong tổng dư nợ, các bộ phận này được xem xét theo nhiều tiêu chí khác nhau (theo địa lý, theo kỳ hạn, mục đích, loại hình doanh nghiệp, ngành nghề, quy mô, mức rủi ro,..) các bộ phận này tạo thành cơ cấu danh mục cho vay của ngân hàng. Cơ cấu cho vay của từng ngân hàng thường không giống nhau, cơ cấu tổng hợp và rất khác nhau giữa các tổ chức. Nhân tố chủ yếu tạo nên sự khác nhau trong danh mục cho vay giữa các ngân hàng là đặc điểm của thị trường nơi ngân hàng hoạt động. Mỗi ngân hàng phải có trách nhiệm đáp ứng nhu cầu tín dụng của khách hàng trong thị trường của mình. Nếu một ngân hàng hoạt động tại một thành phố thì việc chú trọng cho vay các DNNVV và các hộ gia đình là đối tượng khách hàng chủ yếu. Nếu ngân hàng hoạt động tại khu công nghiệp thì sẽ phải đáp ứng các nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp lớn có quy mô kinh doanh rộng. Tuy nhiên, ngân hàng không phụ thuộc hoàn toàn vào khu vực hoạt động của mình, họ có thể mua lại toàn bộ hoặc một phần các khoản cho vay từ ngân hàng khác, hoặc tham gia với các ngân hàng khác để cung cấp một 12 khoản cho vay hay sử dụng các hợp đồng phái sinh tín dụng để hạn chế những thay đổi bất lợi bắt nguồn từ danh mục cho vay, do biến động của nền kinh tế trong khu vực nơi ngân hàng hoạt động. Các biện pháp này có thể giúp ngân hàng giảm bớt rủi ro tổn thất tín dụng khi thị trường hoạt động của ngân hàng nảy sinh những vấn đề kinh tế tiêu cực. Nhìn chung, các ngân hàng được Chính phủ cấp giấy phép chủ yếu hoạt động trong thị trường đã lựa chọn và phần lớn danh mục cho vay đều bắt nguồn từ những thị trường này. Quy mô ngân hàng cũng là một nhân tố quan trọng quyết định cấu trúc danh mục cho vay của từng ngân hàng, đặc biệt là quy mô vốn chủ sở hữu được sử dụng để xác định mức cho vay vốn tối đa đối với một khách hàng. Ngân hàng có vốn lớn thường cung cấp các khoản tín dụng có giá trị lớn cho các công ty. Trong khi đó, các ngân hàng nhỏ thường tập trung vào nghiệp vụ tín dụng bán lẻ với những khoản tín dụng nhỏ. Quy mô khách hàng cũng như quy mô ngân hàng đều có tác động tương quan về thu nhập giữa các loại hình cho vay khác nhau, chẳng hạn như: các ngân hàng lớn thường cho vay đối với những khách hàng lớn với lãi suất thấp hơn do chất lượng tài chính tốt hơn, đảm bảo an toàn vốn vay hơn của khách hàng vay vốn và do sự canh tranh gay gắt trên thị trường cho vay kinh doanh quy mô nhỏ với lãi suất cao hơn. Ngoài ra kinh nghiệm và trình độ quản lý cũng góp phần tạo ra cơ cấu trong danh mục cho vay của ngân hàng. Bên cạnh đó, cơ cấu cho vay của một ngân hàng còn phụ thuộc vào tương quan giữa khoản thu nhập dự tính trên các khoản tín dụng và thu nhập dự tính từ các tài sản khác. Với điều kiện các yếu tố khác không đổi, nhìn chung một ngân hàng muốn cung cấp những khoản vay mang tỷ lệ thu nhập dự tính cao nhất sau khi đã tính tới toàn bộ chi phí và rủi ro tổn thất tín dụng. Có một phương pháp mà các nhà quản lý ngân hàng thường vận dụng để đánh 13 giá thu nhập dự tính so với các yếu tố chi phí là thiết lập hệ thống kế toán chi phí, tính toán toàn bộ nguồn thu dự tính cùng với các chi phí trực tiếp và gián tiếp liên quan tới mỗi khoản vay. Đó là một chương trình có tên phân tích hàm chi phí (FCA). Chương trình này thu thập số liệu về tài sản, thu nhập, chi phí và các khoản thu từ dịch vụ để tính toán tỷ lệ thu nhập và chi phí dự tính của khoản vay. Giống như một quy tắc chung, một ngân hàng nên cung cấp các loại hình cho vay mà ngân hàng có lợi thế nhất, có lẽ bởi vì các ngân hàng này nắm rõ khách hàng của mình hơn các ngân hàng khác, vì vậy mỗi ngân hàng cần xây dựng cho mình một danh mục cho vay cụ thể trong từng giai đoạn, để làm sao có thể mang lại hiệu quả kinh doanh cao nhất với mức rủi ro kiểm soát được theo định hướng chiến lược đã đề ra. [13, Tr. 345-347] 1.2.3 Mục tiêu của việc xây dựng danh mục cho vay Chúng ta cần xác định các mục tiêu hoạt động của mình trong những phạm vi nhất định, bởi vì các danh mục đầu tư nói chung và cho vay thương mại luôn chịu tác động của rủi ro tập trung và rủi ro kinh tế. Tính chất ổn định của lợi nhuận thu được có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều so với phát triển nhanh. Trên thực tế, tình trạng thị trường biến động liên tục đã ảnh hưởng nhiều đến tổ chức cho vay thương mại, nên chúng ta sẽ cố gắng đạt được mức độ sinh lời ổn định, chỉ dao động trong khoảng cho phép. Chúng ta sẽ không thể đạt được các mục tiêu hoạt động của mình nếu như chất lượng danh mục cho vay không được kiểm soát trong phạm vi dung sai hết sức hẹp. Do đó, việc đạt được mục tiêu tín dụng sẽ là một phần quan trọng trong quá trình đánh giá chất lượng hoạt động của từng người. Ngân hàng cần thực hiện các mục tiêu tín dụng như sau trong toàn bộ danh mục cho vay của mình: 14 + Duy trì danh sách các khoản nợ cần chú ý trong khoảng 10% của tổng dư nợ. + Dư nợ quá hạn không vượt quá 5% / tổng dư nợ đối với thời gian quá hạn từ 30-89 ngày; chúng ta sẽ không để phát sinh nợ quá hạn từ 90 ngày trở lên. + Tỷ lệ các khoản cho vay không hoạt động (non-performing loans – NPL) sẽ không vượt quá 3% / tổng dư nợ. + Số tiền xóa nợ ròng sẽ nằm trong khoảng 0,3 % / tổng dư nợ. Tỷ lệ sinh lời hợp lý và ổn định sẽ là mục tiêu hàng đầu của danh mục cho vay thương mại, và chúng ta chỉ có thể đạt được mục tiêu này nếu như không để xảy ra tình trạng tập trung tín dụng quá mức dễ gây rủi ro khi có những biến động không tốt từ thị trường. [11, Tr. 9] 1.2.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến việc xây dựng danh mục cho vay 1.2.4.1 Nhóm nhân tố thuộc về phía ngân hàng + Khả năng thẩm định cho vay Thẩm định cho vay là một khâu quan trọng trong quy trình cho vay của ngân hàng. Thẩm định là việc đánh giá, thẩm tra, dự đoán về độ chính xác, an toàn và hiệu quả của hợp đồng tín dụng. Công việc này rất cần tính chặt chẽ chính xác, có thực tế nhưng cũng cần linh hoạt, sự nhạy cảm nghề nghiệp để tránh phần nào những quyết định sai lầm. Việc thẩm định mà quá quyết tắc, cứng rắn, kém linh hoạt có thể dẫn đến việc ngân hàng bỏ qua nhiều cơ hội. Ngân hàng phải luôn cân nhắc giữa tính an toàn và tính sinh lời trong mọi công việc, tuy nhiên khi đã chọn ra được mục đích cụ thể thì cần có hướng đi đồng bộ lên mọi khâu của quy trình. + Tình hình huy động vốn của ngân hàng 15 Đặc trưng của ngân hàng là đi vay để cho vay, bởi vậy nếu không đi vay được tức là ngân hàng không có vốn để cho vay. Nguồn vốn huy động được càng lớn và đa dạng thì càng tạo điều kiện cho hoạt động cho vay phát triển. Tương tự như vậy, chi phí trong hoạt động huy động vốn cũng ảnh hưởng lớn đến lãi suất cho vay, vì lãi suất cho vay phải đủ sức trang trải cho chi phí đầu vào. Chất lượng hoạt động cho vay cũng phụ thuộc vào chất lượng huy động vốn, chúng phải song song với nhau. Nếu ngân hàng huy động được nhiều vốn mà không cho vay hết thì sẽ dẫn tới tình trạng đọng vốn, chi phí trả lãi gia tăng trong khi thu nhập không tăng hoặc thấp hơn chi phí vốn, ngân hàng sẽ không có lãi. + Chất lượng cán bộ tín dụng Hoạt động tín dụng là lĩnh vực gặp rất nhiều rủi ro của ngân hàng và vai trò của người cán bộ tín dụng ở đây là vô cùng quan trọng đối với chất lượng của một khoản vay. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động của ngân hàng cũng ngày càng phức tạp và tinh vi, đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải có đủ trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức. Trong đó trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng là yếu tố quan trọng nhất vì nó đảm bảo quá trình thực thi nhiệm vụ nhanh chóng, chính xác, linh hoạt trong mọi tình huống khi cho vay. Thêm vào đó, những hiểu biết mang tính tổng hợp sẽ tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng thực hiện công việc tốt hơn, đặc biệt là trong khâu thẩm định. Mặt khác, khách hàng của ngân hàng ngày càng phong phú, hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau, do đó cán bộ tín dụng cũng phải có trình độ hiểu biết nhiều lĩnh vực để có thể đánh giá phân tích chính xác về khách hàng và dự án xin vay. + Thông tin tín dụng Để hoạt động tín dụng thực sự có hiệu quả cần nắm bắt được các thông tin tín dụng chính xác kịp thời. Các thông tin tín dụng bao gồm những thông 16 tin về tài chính, uy tín, trình độ quản lý, năng lực pháp lý, thông tin về kinh tế xã hội. Sự chính xác, kịp thời và đầy đủ của các thông tin sẽ giúp ngân hàng đưa ra các quyết định đúng đắn với khách hàng, lựa chọn món vay có lợi cho khách hàng và quản lý kiểm soát món vay một cách dễ dàng hơn. + Kiểm soát nội bộ Một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong cho vay là sự thiếu trách nhiệm và đạo đức của cán bộ tín dụng đã lợi dụng sự sơ hở trong quản lý để thực hiện động cơ riêng. Vì vậy công tác kiểm soát nội bộ là cần thiết để điều chỉnh các cán bộ tín dụng thực hiện đúng pháp luật, cơ chế, chính sách cho vay mà ngân hàng đã định hướng, đồng thời phát hiện nhanh chóng những sai sót, lệch lạc trong hoạt động cho vay, nhằm giúp tìm được giải pháp khắc phục kịp thời gây ảnh hưởng xấu đến tài sản của ngân hàng. 1.2.4.2 Nhóm nhân tố thuộc về khách hàng Chất lượng tín dụng không chỉ phụ thuộc vào bản thân ngân hàng mà còn phụ thuộc nhiều vào chính khách hàng, cụ thể là: + Tình hình tài chính của khách hàng Thể hiện ở thu nhập hàng tháng của khách hàng cao hay thấp, ổn định hay không, tính chất công việc có nguy hiểm hay không, các tài sản mà khách hàng đang sở hữu...Tình hình tài chính là một cơ sở quan trọng để ngân hàng lựa chọn khách hàng, nó thể hiện khả năng hoàn trả món vay đúng thời hạn của khách hàng và tất nhiên là làm giảm rủi ro cho chính ngân hàng. + Dòng tiền mặt Đó là yếu tố quan trọng xác định nguồn trả nợ cho ngân hàng, dòng tiền mặt phụ thuộc vào từng đối tượng khách hàng. Một doanh nghiệp thì dòng tiền có thể là từ doanh thu bán hàng hoặc thu nhập, dòng tiền từ bán tài sản…Đối với cá nhân, dòng tiền mặt chính là thu nhập từ lương, một số khoản thu nhập khác. 17 + Năng lực Khách hàng phải có đủ năng lực vay vốn và có đủ tư cách pháp lý trong việc ký kết hợp đồng vay vốn. + Uy tín của khách hàng Quan hệ của ngân hàng và khách hàng ngoài việc dựa trên tình hình tài chính còn phải dựa vào uy tín của hai bên, một khách hàng có uy tín đã có quan hệ từ lâu với ngân hàng, luôn trả nợ đúng hạn, nhân thân gia đình, quan hệ xã hội tốt bao giờ cũng được đánh giá cao hơn và rủi ro gặp phải với nhóm khách hàng này bao giờ cũng nhỏ hơn. + Tính cách Cần xác định khách hàng có mục tiêu rõ ràng khi xin vay và có trả nợ nghiêm túc. Trách nhiệm, tính trung thực, mục đích vay vốn nghiêm túc và kế hoạch trả nợ rõ ràng là những tiêu chuẩn tạo dựng lên tính cách của khách hàng. + Tài sản thế chấp Khách hàng vay phải có tài sản thế chấp tương xứng với khoản vay và phải đáp ứng đủ các điều kiện về tài sản đảm bảo của ngân hàng như giá trị cao, đăng ký giao dịch đảm bảo theo yêu cầu và phải có bảo hiểm cho tài sản. 1.2.4.3 Nhóm nhân tố khác + Môi trường kinh tế Môi trường kinh tế là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn tới chất lượng tín dụng. Cụ thể, một môi trường kinh tế tốt, với các điều kiện thuận lợi sẽ khiến cho khách hàng sản xuất kinh doanh tốt, như vậy khả năng họ hoàn lại vốn vay sẽ cao hơn. Một môi trường kinh tế tốt cũng khiến cho khách hàng yên tâm đi vay để mở rộng sản xuất kinh doanh. + Môi trường tự nhiên 18 Một môi trường tự nhiên ổn định không thiên tai, chiến tranh và dịch bệnh là một điều kiện cần thiết trong mọi lĩnh vực kinh doanh, điều kiện tự nhiên tốt đảm bảo cho việc khách hàng sẽ không vì những tác động khách quan dẫn tới không có khả năng trả nợ, làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. + Môi trường pháp lý Hoạt động của ngân hàng cũng như các hoạt động sản xuất kinh doanh khác, đều phải thực hiện trên cơ sở các điều khoản quy định của pháp luật. Một môi trường pháp lý phù hợp sẽ tạo điều kiện cho khách hàng dễ dàng hơn trong vay vốn, nhưng đồng thời cũng hỗ trợ cho ngân hàng trong những trường hợp đặc biệt như là rủi ro khi khách hàng muốn quỵt nợ hay khi có hành vi gian lận thụt két của cán bộ ngân hàng. Nó là công cụ điều tiết vĩ mô, làm ổn định xã hội nói chung và đảm bảo nâng cao trong hoạt động cho vay cũng như chất lượng danh mục cho vay nói riêng. [11, Tr. 34-38] 1.2.5 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng danh mục cho vay của NHTM Để phản ánh về chất lượng danh mục cho vay của NHTM, có rất nhiều chỉ tiêu, nhưng nói chung người ta thường lấy: - Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ, tỷ lệ nợ đã xóa, đã xử lý trên tổng dư nợ. - Tỷ lệ và cơ cấu tài sản đảm bảo. - Cơ cấu dư nợ các khoản vay ngắn - dài hạn trong tương quan cơ cấu nguồn vốn của tổ chức tín dụng, - Dư nợ cho vay các lĩnh vực rủi ro cao tại thời điểm đó: bất động sản, cổ phiếu ... - Số dư dự thu lãi trên tổng dư nợ, 19 - Chi phí dự phòng tín dụng hay số dư dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng dư nợ. - Tỷ trọng cho vay 20 khách hàng lớn nhất….[3], [9] Nhưng về cơ bản thì các tiêu chí đánh giá chia theo hai loại sau: 1.2.5.1 Chỉ tiêu định tính Trong quá trình đánh giá chất lượng danh mục cho vay, ngoài những chỉ tiêu có thể lượng hoá được thì còn có rất nhiều yếu tố mà không thể lượng hoá được. Các chỉ tiêu định tính thể hiện qua quy chế, chế độ, thể lệ tín dụng, qua độ thoả mãn của khách hàng đối với sản phẩm của khách hàng, độ tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng. [3, Tr. 26] 1.2.5.2 Các chỉ tiêu định lượng. * Chỉ tiêu tổng dư nợ và kết cấu nợ Tổng dư nợ là một chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền ngân hàng cấp cho nền kinh tế tại một thời điểm. Tổng dư nợ bao gồm dư nợ cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động của ngân hàng yếu kém, không có khả năng mở rộng, khả năng tiếp thị của ngân hàng kém, trình độ cán bộ công nhân viên thấp. Mặc dù vậy, không có nghĩa là chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng danh mục cho vay càng cao bởi vì đằng sau những khoản cho vay còn những rủi ro tín dụng mà ngân hàng phải gánh chịu. Chỉ tiêu tổng dư nợ phản ánh quy mô danh mục cho vay của ngân hàng, sự uy tín của ngân hàng đối với doanh nghiệp. Tổng dư nợ của ngân hàng khi so sánh với thị phần tín dụng của ngân hàng trên địa bàn sẽ cho chúng ta biết được dư nợ của ngân hàng là cao hay thấp. Kết cấu dư nợ phản ánh tỷ trọng của các loại dư nợ trong tổng dư nợ. Phân tích kết cấu dư nợ sẽ giúp ngân hàng biết được ngân hàng cần đẩy mạnh cho vay theo loại hình nào để cân đối với thực lực của ngân hàng. Kết cấu dư 20 nợ khi so với kết cấu nguồn huy động sẽ cho biết rủi ro của loại hình cho vay nào là nhiều nhất. * Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn Nợ quá hạn là hiện tượng phát sinh từ mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình cho ngân hàng đúng hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của ngân hàng thương mại ở một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm. Tyû leä nôï quaù haïn  Dö nôï quaù haïn Toång dö nôï cho vay Quy định hiện nay của NHNN cho phép dư nợ quá hạn của các NHTM không được vượt quá 5%. Nợ quá hạn (non performing loan – NPL) là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và / hoặc lãi đã quá hạn. Một cách tiếp cận khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện để được gia hạn nợ. Để đảm bảo quản lý chặt chẽ, các khoản nợ quá hạn trong hệ thống NHTM Việt Nam được phân loại theo thời gian và được phân chia theo thời hạn thành các nhóm sau: + Nợ quá hạn dưới 90 ngày – Nợ cần chú ý + Nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày – Nợ dưới tiêu chuẩn. + Nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày – Nợ nghi ngờ. + Nợ quá hạn trên 360 ngày – Nợ có khả năng mất vốn. Tỷ trọng nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay Nợ xấu (hay nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi, nợ không thể đòi,…) là khoản nợ mang các đặc trưng sau:
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan