BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
---------------------------------------
Trần Ánh Hồng
HOÀN THIỆN CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CÔNG NGHIỆP
XÂY DỰNG TOÀN PHÁT
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ
Hà Nội – Năm 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
---------------------------------------
Trần Ánh Hồng
HOÀN THIỆN CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CÔNG NGHIỆP
XÂY DỰNG TOÀN PHÁT
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ
CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 60340201
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LƯU THỊ HƯƠNG
Hà Nội – Năm 2016
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn. Các
doanh nghiệp muốn tồn tại, đứng vững và ngày càng phát triển, đòi
hỏi phải có một tiềm lực tài chính mạnh mẽ để tiến hành sản xuất
kinh doanh và cạnh tranh có hiệu quả. Mặt khác, hoạt động sản xuất
kinh doanh ở bất kỳ doanh nghiệp nào cũng đều gắn liền với hoạt
động tài chính. Vì vậy, việc nhận biết điểm mạnh, điểm yếu về tình
hình tài chính so với đối thủ giữ một vị trí trọng yếu trong hoạt động
quản lý của doanh nghiệp, nó quyết định tính độc lập, sự thành bại
của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh.
Do đó, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải thường
xuyên tiến hành công tác phân tích tài chính, những kết quả từ công
tác này giúp doanh nghiệp xây dựng một hướng đi đúng đắn góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và cải thiện
tình hình tài chính. Bên cạnh đó, công tác phân tích tài chính còn là
công cụ quan trọng giúp các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp như
nhà đầu tư, khách hàng, cơ quan chức năng đánh giá được năng lực
hiện tại cũng như tiềm năng phát triển trong tương lai của doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác phân tích tài
chính tại doanh nghiệp, Công ty cổ phần Công nghiệp Xây dựng
Toàn Phát đã quan tâm tới công tác phân tích tài chính. Tuy nhiên,
công tác phân tích tài chính của công ty vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu, kết quả phân tích chưa hỗ trợ đắc lực cho việc ra quyết định tài
chính. Để Công ty phát triển bền vững trong môi trường cạnh tranh,
hoàn thiện công tác phân tích tài chính là một yêu cầu cấp bách. Góp
phần đáp ứng yêu cầu đó, đề tài: “Hoàn thiện công tác phân tích
tài chính tại Công ty cổ phần Công nghiệp Xây dựng Toàn Phát”
được lựa chọn nghiên cứu.
1.
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích
tài chính tại Công ty cổ phần Công nghiệp Xây dựng Toàn Phát.
Nhằm mục tiêu đó, các nhiệm vụ cụ thể:
2.
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về công tác phân
tích tài chính doanh nghiệp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác phân tích tài chính tại
Công ty cổ phần Công nghiệp Xây dựng Toàn phát.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại
Công ty cổ phần Công nghiệp Xây dựng Toàn Phát.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu: Công tác phân tích tài chính tại Công ty
cổ phần Công nghiệp Xây dựng Toàn Phát, chủ yếu dựa trên
các Báo cáo tài chính của công ty.
- Thời gian nghiên cứu thực trạng: 2013 – 2015.
- Giải pháp đề xuất cho thời gian: 2017 – 2022.
- Đề tài được nghiên cứu trên giác độ doanh nghiệp.
3.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, các phương pháp nghiên
cứu thường được sử dụng:
- Phương pháp thu thập số liệu.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp tỷ số.
4.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục từ viết tắt,
danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày theo kết cấu
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác phân tích tài chính
doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công
ty cổ phần Công nghiệp Xây dựng Toàn Phát.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính
tại Công ty cổ phần Công nghiệp Xây dựng Toàn Phát.
5.
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC PHÂN TÍCH
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1. Hoạt động cơ bản của doanh nghiệp
1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp [1, tr.7-9]
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp
nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của
chủ sở hữu.
Doanh nghiệp là một cách thức tổ chức hoạt động kinh tế của
nhiều cá nhân. Có nhiều hoạt động kinh tế chỉ có thể thực hiện bởi
các doanh nghiệp chứ không phải bởi các cá nhân.
Ở Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp: Doanh nghiệp là tổ
chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định,
được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, nhằm mục
đích thực hiện các hoạt động kinh doanh - tức là thực hiện một, một
số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến
tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi.
Các doanh nghiệp Việt Nam bao gồm: Doanh nghiệp Nhà
nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp
danh, công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp bao gồm các
chủ thể kinh tế doanh sau đây: Kinh doanh cá thể, Kinh doanh góp
vốn, Công ty.
1.1.2. Hoạt động cơ bản của doanh nghiệp
1.1.2.1. Hoạt động sản xuất kinh doanh [1, tr.12-14]
Để tiến hành hoạt động sản xuất - kinh doanh, doanh nghiệp
phải có một lượng vốn nhất định để đầu tư các yếu tố đầu vào và sau
đó là quá trình kết hợp các yếu tố đầu vào tạo ra các hàng hóa - dịch
vụ đầu. Như vậy, trong một thời kỳ nhất định, các doanh nghiệp đã
chuyển hóa các hàng hóa, dịch vụ đầu vào thành các hàng hóa, dịch vụ đầu
ra để trao đổi (bán).
Trong số các tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ có một tài sản
đặc biệt - đó là tiền. Mọi quá trình trao đổi đều được thực hiện thông
qua trung gian là tiền và khái niệm dòng vật chất và dòng tiền phát
sinh từ đó, tức là sự dịch chuyển hàng hóa, dịch vụ và sự dịch
chuyển tiền giữa các đơn vị, tổ chức kinh tế. Như vậy, tương ứng với
dòng vật chất đi vào (hàng hóa, dịch vụ đầu vào) là dòng tiền đi ra;
ngược lại, tương ứng với dòng vật chất đi ra (hàng hóa, dịch vụ đầu
ra) là dòng tiền đi vào.
Sản xuất, chuyển hóa là một quá trình công nghệ. Một mặt,
nó được đặc trưng bởi thời gian chuyển hóa và dịch vụ, mặt khác nó
được đặc trưng bởi các yếu tố cần thiết cho sự vận hành - đó là tư
liệu sản xuất và sức lao động. Quá trình công nghệ này có tác dụng
quyết định cơ cấu vốn và hoạt động trao đổi của doanh nghiệp.
1.1.2.2. Hoạt động tài chính [4], [14]
Hoạt động tài chính là những quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp
với việc tổ chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn một
cách có hiệu quả.
Hoạt động tài chính của doanh nghiệp bao gồm từ việc đầu
tư vốn ra bên ngoài doanh nghiệp như: Cho vay; Gửi ngân hàng;
Mua cổ phiếu, trái phiếu; Góp vốn liên doanh; Cho thuê tài sản.
1.1.2.3. Hoạt động khác [4, tr.33]
Hoạt động khác là các hoạt động xảy ra không thường xuyên,
ngoài hoạt động kinh doanh thường xuyên (hoạt động sản xuất kinh
doanh và hoạt động tài chính. Bao gồm:
- Hoạt động từ thanh lý, nhượng bán tài sản cố định;
- Hoạt động đánh giá lại tài sản;
- Hoạt động khác.
1.2. Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm và mục tiêu công tác phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm [1, tr.29]
Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm,
phương pháp và công cụ để thu thập và xử lý các thông tin kế toán và
các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp, nhằm đánh giá tình
hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp người sử
dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, quyết định quản lý cho phù hợp.
Từ đó ta thấy, công tác phân tích tài chính là một quy trình
thực hiện phân tích tài chính bao gồm việc tổ chức bộ máy cho việc
phân tích, lựa chọn nguồn dữ liệu, thông tin phục vụ cho việc phân
tích, lựa chọn phương pháp phân tích và nội dung phân tích cho phù
hợp, từ đó thực hiện phân tích.
1.2.1.2. Mục tiêu công tác phân tích tài chính doanh nghiệp [9], [20]
Công tác phân tích tài chính đối với nhà quản trị doanh nghiệp
Là người trực tiếp quản lý và điều hành doanh nghiệp, nhà
quản lý hiểu rõ nhất tài chính doanh nghiệp, do đó họ có nhiều thông
tin phục vụ cho việc phân tích. Công tác phân tích tài chính doanh
nghiệp đối với nhà quản trị nhằm đáp ứng những mục tiêu sau:
- Tạo ra những chu kỳ đều đặn để đánh giá hoạt động quản
lý trong giai đoạn đã qua, việc thực hiện cân bằng tài chính, khả năng
sinh lời, khả năng thanh toán và rủi ro tài chính trong hoạt động của
doanh nghiệp.
- Đảm bảo cho các quyết định của Ban giám đốc phù hợp với
tình hình thực tế của doanh nghiệp như quyết định về đầu tư, tài trợ,
phân phối lợi nhuận.
- Cung cấp thông tin cơ sở cho những dự đoán tài chính.
- Căn cứ để kiểm tra, kiểm soát hoạt động, quản lý trong doanh nghiệp.
Công tác phân tích tài chính đối với các nhà đầu tư
Các nhà đầu tư là những người giao vốn của mình cho doanh
nghiệp quản lý sử dụng, được hưởng lợi và cũng chịu rủi ro. Các đối
tượng này quan tâm trực tiếp đến những tính toán về giá trị của
doanh nghiệp. Thu nhập của các nhà đầu tư là tiền lời được chia và
thặng dư giá trị của vốn. Hai yếu tố này phần lớn chịu ảnh hưởng của
lợi nhuận thu được của doanh nghiệp. Trong thực tế, các nhà đầu tư
thường tiến hành đánh giá khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Câu
hỏi chủ yếu phải làm rõ là: Tiền lời bình quân cổ phiếu của doanh
nghiệp là bao nhiêu? Các nhà đầu tư thường không hài lòng trước
tiền lời được tính toán trên sổ sách kế toán và cho rằng tiền lời này
chênh lệch rất xa so với tiền lời thực tế.
Công tác phân tích tài chính đối với nhà đầu tư là để đánh
giá doanh nghiệp và ước đoán giá trị cổ phiếu, dựa vào việc nghiên
cứu các báo cáo tài chính, khả năng sinh lời, phân tích rủi ro trong
kinh doanh.
Công tác phân tích tài chính đối với các tổ chức tín dụng
Các tổ chức tín dụng là những người cho doanh nghiệp vay
vốn để đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh.
Khi cho vay, họ phải biết chắc được khả năng hoàn trả tiền vay. Thu
nhập của họ là lãi suất tiền cho vay. Do đó, công tác phân tích tài
chính đối với người cho vay là xác định khả năng hoàn trả nợ của
khách hàng. Tuy nhiên, phân tích đối với những khoản cho vay dài
hạn và những khoản cho vay ngắn hạn có những nét khác nhau.
Ngoài ra, công tác phân tích tài chính đối với các cơ quan
quản lý nhà nước về kinh tế (cục thuế, các bộ chủ quản, thanh tra,
cảnh sát kinh tế, luật sư…). Dù họ công tác ở các lĩnh vực khác nhau,
nhưng họ đều muốn biết về hoạt động của doanh nghiệp để thực hiện
tốt hơn công việc của họ.
Tóm lại, công tác phân tích tài chính doanh nghiệp mà trọng
tâm là phân tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu đặc trưng tài
chính thông qua một hệ thống các phương pháp, công cụ và kỹ thuật
phân tích, giúp người sử dụng thông tin từ các góc độ khác nhau, vừa
đánh giá toàn diện, tổng hợp, khái quát, lại vừa xem xét một cách chi
tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp, để nhận biết, phán đoán, dự
báo và đưa ra quyết định tài chính, quyết định tài trợ và đầu tư phù hợp.
1.2.2. Nội dung công tác phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.2.1. Quy trình phân tích tài chính doanh nghiệp [9, tr.22-28]
Để phân tích tài chính doanh nghiệp thực sự phát huy tác dụng
trong quản lý tài chính thì hoạt động đó cần phải được thực hiện theo
một quy trình khoa học, hợp lý, phù hợp với đặc điểm kinh doanh và
mục tiêu của từng đối tượng. Tùy thuộc vào đặc điểm riêng của
doanh nghiệp mà quy trình phân tích tài chính có thể khác nhau,
nhưng nhìn chung công tác phân tích tài chính thường qua 5 bước:
- Lập kế hoạch phân tích;
- Thu thập thông tin và xử lý thông tin;
- Xác định những biểu hiện đặc trưng;
- Phân tích;
- Tổng hợp và dự đoán.
1.2.2.2. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp [1], [17]
Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng
mọi nguồn thông tin: Từ những thông tin nội bộ doanh nghiệp đến
những thông tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thông tin số lượng đến
thông tin giá trị. Những thông tin đó đều giúp cho nhà phân tích có
thể đưa ra được những nhận xét, kết luận tinh tế và thích đáng.
a) Thông tin từ hệ thống kế toán
Bảng cân đối kế toán
Báo cáo kết quả kinh doanh
Ngân quỹ (Báo cáo lưu chuyển tiền tệ)
Bản thuyết minh các báo cáo tài chính
b) Các nguồn thông tin khác
Thông tin liên quan đến tình hình kinh tế
Thông tin theo ngành
Thông tin về đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp
1.2.2.3. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp [1], [4], [9]
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các
công cụ và biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện
tượng, các mối quan hệ bên trong và bên ngoài, các luồng dịch
chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết,
nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp. Thường bao gồm các
phương pháp sau:
Phương pháp so sánh: Là phương pháp nhằm nghiên cứu sự
biến động và xác định mức biến động của chỉ tiêu phân tích.
Phương pháp tỷ số: Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn
mực các tỷ số của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Sự
biến đổi các tỷ số, cố nhiên là sự biến đổi của các đại lượng tài chính.
Về nguyên tắc, phương pháp tỷ số yêu cầu phải xác định được các
ngưỡng, các định mức, để nhận xét, đánh giá tài chính doanh nghiệp,
trên cơ sở so sánh các tỷ số của doanh nghiệp với giá trị các tỷ số tham chiếu.
Phương pháp Dupont: là phương pháp phân tích mối liên hệ
giữa các nhân tố ảnh hưởng tới chỉ tiêu tài chính cần phân tích. Bản
chất của phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh sức
sinh lời của doanh nghiệp như thu nhập sau thuế trên tổng tài sản, thu
nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu thành tích số của chuỗi các tỷ số
có mối quan hệ nhân quả với nhau. Từ đó cho phép phân tích ảnh
hưởng của các tỷ số đó đối với tỷ số tổng hợp.
1.2.2.4. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
a. Phân tích Bảng cân đối kế toán (BCĐKT) [1], [5], [14]
- Phân tích cơ cấu và biến động tài sản - vốn trong doanh nghiệp.
- Phân tích diễn biến vốn và tài sản trong doanh nghiệp.
b. Phân tích Báo cáo kết quả kinh doanh [1, tr.58-59]
c. Phân tích các nhóm chỉ tiêu tài chính cơ bản của doanh nghiệp [1], [5]
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán
+ Khả năng thanh toán ngắn hạn
+ Khả năng thanh toán nhanh
+ Khả năng thanh toán tức thời
+ Khả năng thanh toán lãi vay
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn
+ Hệ số nợ
+ Hệ số tự chủ tài chính
+ Hệ số cân đối vốn
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động
+ Vòng quay hàng tồn kho
+ Số ngày một vòng quay hàng tồn kho
+ Vòng quay khoản phải thu
+ Kỳ thu tiền bình quân
+ Hiệu suất sử dụng TSLĐ
+ Hiệu suất sử dụng TSCĐ
+ Hiệu suất sử dụng tổng TS
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời
+ Tỷ suất sinh lời trên doanh thu
+ Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản
+ Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu
d. Phân tích ảnh hưởng của các đòn bẩy [4, tr.249-252]
- Đòn bẩy hoạt động (DOL): Đòn bẩy hoạt động đo lường sự
thay đổi tỷ lệ % lợi nhuận trước thuế và lãi khi doanh thu
thay đổi 1%.
DOL=
Hay
-
%∆EBIT
%∆Doanh Thu
Q(P−V)
DOL = Q(P−V)−F
Đòn bẩy tài chính (DFL): Đòn bẩy tài chính đo lường tỷ lệ
thay đổi của thu nhập vốn cổ phần (EPS) so với sự thay đổi
của 1% lợi nhuận trước thuế và lãi.
DFL =
Hay
DFL =
DFL =
-
%∆EPS
%∆EBIT
Q(P−V)−F
Q(P−V)−F−I
EBIT
EBIT−I
Đòn bẩy tổng hợp (DTL): Đòn bẩy tổng hợp là sự kết hợp
giữa DOL và DFL để đo lường mức độ nhảy cảm của thu nhập
vốn cổ phần EPS khi doanh thu thay đổi 1%
DTL = DOL × DFL
DTL =
%∆EPS
%∆Doanh Thu
Hay
DTL =
Q(P−V)
Q(P−V)−F−I
Hoàn thiện công tác phân tích tài chính doanh nghiệp
Công tác phân tích tài chính được gọi là hoàn thiện khi kết quả
công tác phân tích giúp nhà quản trị đánh giá được toàn diện, sát
thực tình hình tài chính của doanh nghiệp, đưa ra các quyết định tài
chính kịp thời, đúng đắn.
1.2.3.
Để đánh giá mức độ hoàn thiện công tác phân tích tài chính
doanh nghiệp, nhà phân tích có thể sử dụng một số chỉ tiêu:
- Xác định được điểm mạnh, điểm yếu về tình hình tài chính
cũng như dự báo được các cơ hội, rủi ro của doanh nghiệp trong tương lai.
- Đánh giá được sát thực, toàn diện tình hình tài chính doanh nghiệp.
- Kết quả phân tích trợ giúp hữu hiệu các quyết định tài chính
của doanh nghiệp.
- Thời gian và tần suất phân tích.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác phân tích tài chính doanh nghiệp
1.3.1. Nhóm nhân tố chủ quan [6], [18]
- Chất lượng thông tin sử dụng trong công tác phân tích tài
chính.
- Nhân tố con người.
- Lựa chọn phương pháp phân tích.
- Nội dung phân tích tài chính.
- Các nhân tố khác: kỹ thuật, công nghệ; công tác kế toán,
kiểm toán, thống kê.
1.3.2. Nhóm nhân tố khách quan [6], [18]
- Hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CÔNG NGHIỆP XÂY DỰNG TOÀN PHÁT
2.1. Khái quát về Công ty cổ phần Công nghiệp Xây dựng Toàn Phát
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển CTCP Công nghiệp Xây dựng Toàn Phát
Công ty cổ phần Công nghiệp Xây dựng Toàn Phát tiền thân là
Công ty cổ phần tư vấn thiết kế, xây dựng và thương mại Nhật Minh,
được thành lập ngày 03 tháng 08 năm 2005. Công ty được thành lập
bởi một nhóm các cổ đông là các cá nhân có kinh nghiệm, năng lực
và tâm huyết, trưởng thành từ Tập đoàn Sông Đà.
Đến ngày 18 tháng 10 năm 2007, Công ty đổi tên thành Công
ty Cổ phần Công nghiệp Xây dựng Toàn Phát.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức CTCP Công nghiệp Xây dựng Toàn Phát
Bộ máy quản lý công ty được tổ chức theo mô hình trực
tuyến chức năng. Đứng đầu là Tổng Giám Đốc chịu trách nhịêm
trước Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị kết quả hoạt động
kinh doanh của công ty. Các Phó Tổng Giám Đốc phụ trách chuyên
môn có nhiệm vụ hỗ trợ Tổng Giám đốc trong công tác điều hành
hoạt động. Công ty gồm các phòng ban:
- Phòng hành chính nhân sự.
- Phòng tài chính kế toán.
- Phòng kế hoạch kỹ thuật.
- Phòng quản lý thiết bị.
- Ngoài ra, công ty còn có các chi nhánh như chi nhánh Hà
Giang, Tây Bắc, Đông Bắc, Lai Châu.
2.1.3. Các hoạt động chủ yếu của Công ty cổ phần Công nghiệp Xây dựng Toàn Phát
Công ty hoạt động chủ yếu với các ngành nghề kinh doanh sau:
Xây dựng các loại nhà;
Xây dựng công trình đường sắt và đường bộ;
Xây dựng công trình công ích;
Xây dựng công trình kỹ thuật dân dụng khác;
Phá dỡ;
Chuẩn bị mặt bằng;
Lắp đặt hệ thống điện;
Lắp đặt hệ thống cấp, thoát nước, lò sưởi và điều hòa
không khí;
Lắp đặt hệ thống xây dựng khác;
Hoàn thiện công trình xây dựng;
Hoạt động xây dựng chuyên dụng khác: xây dựng nền
móng của tòa nhà, đóng cọc, uốn thép.
2.2. Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần
Công nghiệp Xây dựng Toàn Phát
2.2.1. Quy trình phân tích
Công tác phân tích tài chính đã được công ty quan tâm
nhưng việc tổ chức hoạt động vẫn còn sơ sài, mang tính hình thức.
Chưa xây dựng được một quy trình phân tích tài chính hoàn chỉnh.
Các thông tin sử dụng chủ yếu từ các thông tin có được từ sổ
sách kế toán mà chưa có sự kết hợp với các thông tin bên ngoài. Công ty
cũng chỉ phân tích tài chính một lần duy nhất vào cuối mỗi năm.
Công tác phân tích tài chính tại CTCP Công nghiệp Xây dựng Toàn
Phát được ban giám đốc giao cho phòng tài chính kế toán thực hiện.
Hiện nay, trong công ty vẫn chưa có bộ phận chuyên trách trong
phân tích tài chính doanh nghiệp.
2.2.2. Thông tin sử dụng trong phân tích
Thông tin được công ty sử dụng trong phân tích tài chính là
các báo cáo tài chính, trong đó sử dụng bảng cân đối kế toán và báo
cáo kết quả kinh doanh là chủ yếu, các báo cáo này do phòng tài chính kế
toán của công ty tổng hợp.
Trong phân tích thường sử dụng số liệu của 2 năm, năm hiện
tại và năm liền kề trước đó. Chưa sử dụng số liệu của nhiều năm liên
tiếp để đánh giá và đưa ra nhận xét một cách tổng quát hơn.
Ngoài những thông tin có được từ các báo cáo tài chính trên,
công ty hầu như không sử dụng thêm các nguồn thông tin từ bên ngoài.
2.2.3. Phương pháp phân tích
Trong quá trình phân tích công ty chủ yếu áp dụng các
phương pháp phân tích truyền thống là phương pháp so sánh và
phương pháp tỷ số.
2.2.4. Nội dung phân tích
2.2.4.1. Phân tích Bảng cân đối kế toán
Trên cơ sở thông tin trên Bảng cân đối kế toán, Công ty phân
tích khái quát tình hình tài chính thông qua việc phân tích cơ cấu và
biến động tài sản - vốn trong doanh nghiệp.
Phân tích cơ cấu và biến động tài sản: Quy mô tổng tài sản
tăng từ 319.207 triệu đồng năm 2013 tăng lên 343.264 triệu đồng
năm 2015. Trong đó, tài sản ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
tài sản, đều trên 80%. Năm 2013 tài sản ngắn hạn chiếm 86,44%
trong tổng tài sản, năm 2014 chiếm 88,85% trong tổng tài sản, năm
2015 chiếm 84,59% trong tổng tài sản. Giá trị các khoản phải thu
tăng từ 119.508 triệu đồng năm 2013 lên 141.676 triệu đồng năm
2015. Hàng tồn kho có xu hướng giảm từ 142.849 triệu đồng năm
2013 xuống còn 133.592 triệu đồng năm 2015 nhưng vẫn cao. Vì
vậy, Công ty cần đẩy mạnh công tác thu hồi công nợ, giảm giá trị hàng
tồn kho, từ đó tăng cường vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Phân tích cơ cấu và biến động vốn: vốn của công ty chủ yếu là
vốn vay và vốn chiếm dụng của khách hàng, chiếm trên 70% tổng
nguồn vốn. Vốn chủ sở hữu chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn
của công ty. Nợ ngắn hạn gần như chiếm tuyệt đối trên 75% làm cho
công ty luôn phải chịu áp lực trả nợ trong ngắn hạn. Trong các hoạt
động đầu tư Công ty chỉ sử dụng nguồn vốn vay và sử dụng vốn lưu
động vào đầu tư tài sản. Việc này đã làm cho Công ty thiếu vốn lưu
động, gây áp lực trong công tác thanh toán cho nhà cung cấp cũng như
trả nợ ngân hàng, tăng vay ngắn hạn làm chi phí tài chính tăng.
2.2.4.2. Phân tích Báo cáo kết quả kinh doanh
Qua việc phân tích báo cáo kết quả kinh doanh của CTCP
Công nghiệp Xây dựng Toàn Phát, cho ta thấy tình hình kinh doanh
của công ty có xu hướng đi lên doanh thu thuần tăng từ 251.186 triệu đồng
năm 2013 lên 309.627 triệu đồng năm 2015. Lợi nhuận sau thuế tăng từ
7.329 triệu đồng năm 2013 lên 10.189 triệu đồng năm 2015. Tuy nhiên, các
khoản chi phí của công ty còn tương đối cao như chi phí giá vốn
hàng bán, chi phí tài chính, chi phí quản lý kinh doanh. Điều này làm
ảnh hưởng không nhỏ tới lợi nhuận của công ty. Chính vì vậy, trong
những năm tới, Công ty cần đề ra những biện pháp nhằm cải thiện
tình hình tài chính doanh nghiệp.
2.2.4.3. Phân tích các nhóm chỉ tiêu cơ bản
Công ty tiến hành phân tích cả 4 nhóm chỉ tiêu tài chính cơ bản.
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán ngắn hạn: hệ số thanh
toán ngắn hạn từ 1,10 năm 2013 tăng lên 1,12 năm 2015; hệ số thanh
toán nhanh từ 0,53 năm 2013 lên 0,61 năm 2015; hệ số thanh toán
tức thời từ 0,04 năm 2013 lên 0,05 năm 2015.
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn: hệ số nợ tuy có xu
hướng giảm từ 80,08% xuống còn 79,78% nhưng vẫn lớn hơn nhiều
so với hệ số tự chủ tài chính từ 19,92% năm 2013 tăng lên 20,22% năm 2015.
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động: vòng quay hàng tồn
kho từ 2,97 vòng năm 2013 xuống còn 1,89 vòng năm 2015, từ đó
làm cho số ngày 1 vòng quay hàng tồn kho tăng lên từ 121,10 ngày
năm 2013 lên 190,86 ngày năm 2015. Vòng quay các khoản phải thu
từ 4,20 vòng năm 2013 xuống còn 2,33 vòng năm 2015. Kỳ thu tiền
bình quân từ 85,64 ngày năm 2013 tăng lên 161,51 ngày năm 2015.
Hiệu suất sử dụng tài sản từ 0,79 năm 2013 tăng lên 0,90 năm 2015.
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời: ROS từ 2,92% năm 2013
tăng lên 3,29% năm 2015, ROA từ 2,30% năm 2013 tăng lên 2,97%
năm 2015, ROE từ 11,52% năm 2013 tăng lên 14,68% năm 2015.
2.3. Đánh giá thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty
cổ phần Công nghiệp Xây dựng Toàn Phát
2.3.1. Kết quả đạt được
Về tổ chức phân tích: Phòng tài chính kế toán đã hoàn thành
nhiệm vụ của mình là phân tích tài chính mà Ban Giám Đốc đã giao cho.
Thông tin sử dụng trong công tác phân tích: đó là những thông
tin từ trong nội bộ doanh nghiệp, lấy từ các báo cáo tài chính mà chủ
yếu là bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh do các
nhân viên Phòng tài chính - kế toán lập ra. Những thông tin được
cung cấp khá chính xác, đủ độ tin cậy và có chất lượng, đáp ứng yêu
cầu của công tác phân tích tài chính.
Về phương pháp phân tích: phương pháp chủ yếu được sử
dụng là phương pháp so sánh và phương pháp tỷ số. Công ty đã dùng
kết hợp hai phương pháp để xác định mức độ biến động của chỉ tiêu
phân tích qua các năm. Hai phương pháp này đã phát huy được hiệu
quả bởi nó đơn giản, dễ áp dụng, giúp nhà phân tích tiết kiệm được
thời gian, chi phí và mang lại hiệu quả nhất định.
Về nội dung phân tích: nhìn chung đã phản ánh được những
nét cơ bản tình hình tài chính của công ty về kết cấu tài sản, nguồn
vốn trong công ty; các chỉ tiêu tài chính cơ bản của công ty cũng đã
được đề cập như các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, khả năng cân
đối vốn, khả năng hoạt động, khả năng sinh lời. Đây là các chỉ tiêu
mà hầu hết các đối tượng sử dụng thông tin đều quan tâm.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế
Kết quả phân tích chưa làm cơ sở cho việc ra quyết định đơn
lẻ mang tính chất thời điểm chiến thuật, chưa đáp ứng được nhu cầu
một cách thường xuyên để phân tích tài chính luôn là công cụ sẵn
sàng cho việc ra quyết định ở mọi thời điểm.
Kết quả phân tích chưa chỉ ra được điểm mạnh, điểm yếu về
tình hình tài chính của công ty cũng như dự báo được các cơ hội, rủi
ro của công ty trong tương lai.
Thời gian và tần suất phân tích.
2.3.2.2. Nguyên nhân
a) Nguyên nhân chủ quan
- Quy trình phân tích chưa được tổ chức hợp lý và khoa học.
- Thông tin sử dụng trong quá trình phân tích chưa đầy đủ và chính xác.
- Phương pháp phân tích tài chính còn khá đơn điệu.
- Nội dung phân tích tài chính chưa đầy đủ và toàn diện.
- Nhận thức của lãnh đạo doanh nghiệp về tầm quan trọng của
công tác phân tích tài chính chưa đầy đủ
- Trình độ cán bộ phân tích tài chính chưa đáp ứng được yêu cầu.
b) Nguyên nhân khách quan
- Môi trường pháp lý.
- Hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành.
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC
PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
CÔNG NGHIỆP XÂY DỰNG TOÀN PHÁT
3.1. Quan điểm hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty
cổ phần Công nghiệp Xây dựng Toàn Phát
3.1.1. Định hướng phát triển của công ty
Gốc rễ của sự thành công của mỗi doanh nghiệp phải bắt đầu
từ một hướng đi đúng, phương thức quản lý phù hợp. Từ nguyên lý
này, ban lãnh đạo Công ty đã xác định cho mình một chiến lược
chung: “Lấy tiến độ công trình, chất lượng sản phẩm, an toàn lao
động và uy tín làm hàng đầu” làm phương châm hành động cho công
ty và luôn đáp ứng yêu cầu đa dạng của mọi khách hàng đến với
công ty, phấn đấu ngày càng đứng vững đi lên trên thị trường.
Với ý nghĩa đó, hướng phát triển của Công ty cổ phần Công
nghiệp Xây dựng Toàn Phát trong thời gian tới gắn với các mục tiêu
của công ty trong giai đoạn 2017 -2020:
a. Mục tiêu chiến lược
Lấy sự phát triển toàn diện của con người làm nền tảng, áp
dụng khoa học, công nghệ hiện đại, phát triển bền vững từng bước
đưa công ty trở thành doanh nghiệp mạnh trong lĩnh vực xây dựng.
b. Mục tiêu cụ thể
Phấn đấu đến năm 2020, vốn điều lệ công ty là 150.000
triệu đồng, giá trị doanh nghiệp là 2.000.000 triệu đồng, tốc độ tăng
trưởng bình quân giai đoạn từ 2017 - 2020 đạt 30% - 50%.
3.1.2. Quan điểm hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ
phần Công nghiệp Xây dựng Toàn Phát
Hoàn thiện công tác phân tích tài chính để đảm bảo cung cấp
đầy đủ, chính xác thông tin kinh tế tài chính cần thiết phục vụ cho
công tác quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Hoàn thiện công tác phân tích tài chính phải phù hợp với đặc
điểm ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Công ty cổ phần
Công nghiệp Xây dựng Toàn Phát với lĩnh vực kinh doanh chính là
thiết kế, thi công xây lắp các công trình dân dụng, công nghiệp giao
thông thủy lợi; do đó phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích phù
hợp với đặc thù doanh nghiệp xây dựng.
Hoàn thiện công tác phân tích tài chính phải phù hợp với
chuẩn mực kế toán kiểm toán Việt Nam và thế giới.
Hoàn thiện công tác phân tích tài chính vừa phải phù hợp với
luật pháp, với cơ chế, chính sách quản lý kinh tế tài chính hiện nay
đồng thời phải phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế và yêu cầu
quản lý trong giai đoạn tới.
3.2. Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty
cổ phần Công nghiệp Xây dựng Toàn Phát
3.2.1. Hoàn thiện tổ chức và quy trình phân tích
Công ty nên thành lập một bộ phận phân tích tài chính riêng,
trên cơ sở đó ban lãnh đạo công ty sẽ biết được tình hình tài chính
của công ty một cách thường xuyên và liên tục. Bộ phận phân tích
này sẽ xây dựng một quy trình phân tích tài chính hoàn chỉnh cho
công ty.
Để thực hiện tốt quy trình phân tích thì công ty cần có các biện
pháp nhằm nâng cao trình độ của cán bộ phân tích. Hiện nay, cán bộ
phân tích của công ty còn thiếu và chuyên môn chưa sâu. Vì vậy,
công ty cần tuyển thêm các cán bộ có trình độ chuyên môn về phân
tích tài chính. Những cán bộ có chuyên môn chưa sâu thì công ty có
thể cử họ đi học các khóa đào tạo ngắn hạn, dài hạn về phân tích tài
chính nhằm nâng cao trình độ chuyên môn. Hoặc công ty có thể thuê
các chuyên viên phân tích tài chính của tổ chức chuyên nghiệp đến
để tư vẫn tổ chức công tác phân tích và kết hợp phân tích tài chính tại
công ty với đội ngũ cán bộ phân tích cơ hữu nhằm học hỏi kinh
nghiệm tổ chức và phân tích của các chuyên gia.
3.2.2. Nâng cao chất lượng thông tin sử dụng trong công tác phân tích tài chính
Trong quá trình phân tích tài chính hiện nay công ty mới chỉ sử
dụng số liệu trên Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh
doanh mà chưa sử dụng tới Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Do vậy, công
ty nên sử dụng cả báo cáo lưu chuyển tiền tệ để phục vụ cho công tác
phân tích tài chính.
Bên cạnh các thông tin do phòng tài chính - kế toán cung cấp
thì công ty cũng nên thu thập thông tin thêm từ các phòng ban khác
như phòng kinh tế kế hoạch, phòng vật tư thiết bị .... để việc phân
tích được chính xác hơn.
Đối với nguồn thông tin bên ngoài: để các kết luận trong
phân tích tài chính có tính thuyết phục cao, công ty cần sử dụng các
thông tin có liên quan đến hoạt động kinh doanh.
3.2.3. Hoàn thiện phương pháp phân tích trong phân tích tài chính
Hiện nay công ty mới chỉ áp dụng hai phương pháp phân tích
truyền thống là phương pháp so sánh và phương pháp tỷ số. Việc sử
dụng hai phương pháp này chỉ dừng lại ở việc tính toán các chỉ tiêu
cơ bản chứ chưa cho thấy mối quan hệ giữa các chỉ tiêu cũng như
mức độ ảnh hưởng của các nhân tố khác đến các chỉ tiêu cần phân
tích. Chính vì thế, để nâng cao hiệu quả phân tích tài chính, công ty
nên áp dụng thêm phương pháp phân tích Dupont.
3.2.4. Hoàn thiện nội dung phân tích
3.2.4.1. Phân tích Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh của công ty từ
năm 2013-2014 có xu hướng tăng lên nhưng vẫn mang dấu âm, cụ
thể: lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh năm 2013 là
(24.128) triệu đồng, năm 2014 là (1.402) triệu đồng, tăng 22.726
triệu đồng tương ứng (94,19%) so với năm 2013. Năm 2015, lưu
chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh tiếp tục mang dấu ấm, đạt
mức (15.352) triệu đồng, giảm 13.950 triệu đồng tương ứng 995,01%
so với năm 2014.
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư năm 2013 là 6.872
triệu đồng. Đến năm 2014, giảm xuống còn 120 triệu đồng, giảm
6.752 triệu đồng tương ứng 98,25% so với năm 2013. Năm 2015 là
(21.904) triệu đồng, giảm 22.021 triệu đồng tương ứng 18350,92%
so với năm 2014.
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động tài chính
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động tài chính năm 2013 là
22.175 triệu đồng. Năm 2014 là 6.722 triệu đồng, giảm 15.453 triệu
- Xem thêm -