Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoàn thiện công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội tỉnh ...

Tài liệu Hoàn thiện công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội tỉnh hòa bình

.PDF
120
20
59

Mô tả:

LỜI CAM ĐOAN Tác giả của đề tài: “Hoàn thiện công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2009-2012" xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được tập hợp từ nhiều tài liệu, tự thu thập các thông tin liên quan để đưa ra các giải pháp với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc hoàn thiện công tác chi trả các chế độ BHXH tại BHXH tỉnh Hòa Bình. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của luận văn. Hà Nội, ngày tháng năm 2014 Tác giả luận văn Bùi Thị Huệ LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian làm việc nghiêm túc, luận văn thạc sỹ của tôi đã được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo TS. Vũ Quang. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo TS. Vũ Quang trong suốt quá trình nghiên cứu và viết đề tài đã nhiệt tình chỉ bảo phương hướng nghiên cứu và truyền đạt cho tôi những kinh nghiệm, kiến thức quý báu để tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể các thầy, cô giáo trong Viện Kinh tế và Quản lý - trường Đại học Bách Khoa Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, đóng góp ý kiến giá trị cho luận văn của tôi. Bên cạnh đó, tôi xin chân thành cảm ơn Viện đào tạo sau Đại học - Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, cơ quan BHXH tỉnh Hòa Bình và các Phòng nghiệp vụ thuộc BHXH tỉnh Hòa Bình đã tạo điều kiện cho tôi nghiên cứu và cung cấp số liệu thực tế để tôi hoàn thành luận văn thạc sỹ này Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới sự quan tâm, động viên của gia đình, bạn bè và đồng nghiệp trong thời gian vừa qua đã giúp tôi có thời gian và nghị lực đề hoàn thành tốt nhất luận văn tốt nghiệp này. Tác giả Bùi Thị Huệ LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chính sách bảo hiểm xã hội đã được Đảng, Nhà nước ta thực hiện từ năm 1960 của thế kỉ XX. Kể từ đó đến nay, chính sách bảo hiểm xã hội đã được phát huy, đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của những người lao động. Bảo hiểm xã hội (BHXH) luôn có mặt khi người lao động gặp những rủi ro: ốm đau, bệnh tật, tai nạn, tuổi già và những khó khăn khác trong cuộc sống. Chi Bảo hiểm xã hội là khâu cuối cùng trong việc thực hiện các chế độ Bảo hiểm xã hội và liên quan trực tiếp đến cuộc sống của người lao động. Chỉ có chi đúng, chi đủ, chi kịp thời và an toàn đến tay người tham gia Bảo hiểm xã hội mới đảm bảo quyền lợi của họ cũng như phát huy hết vai trò của chính sách Bảo hiểm xã hội. Công tác chi trả Bảo hiểm xã hội phản ánh chất lượng của dịch vụ bảo hiểm xã hội và trong một trừng mực nhất định, nó còn thể hiện tính ưu việt của một chế độ xã hội. Thuộc hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bảo hiểm xã hội tỉnh Hòa Bình được thành lập ngày 01-10-1997, có nhiệm vụ thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội. Từ tháng 01-2003 thực hiện thêm chính sách Bảo hiểm y tế trên địa bàn tỉnh. Đối tượng tham gia bảo hiểm ngày càng đông vì vậy vấn đề chi trả cũng gặp nhiều khó khăn, chẳng hạn như: đối tượng quản lý và nguồn kinh phí chi trả phức tạp, phương tiện và chi phí chi trả chưa đáp ứng đủ nên ảnh hưởng không nhỏ đến sự an toàn trong quá trình vận chuyển. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên và mong muốn được tìm hiểu và đóng góp một số ý kiến nhằm góp phần giải quyết những khó khăn đó nên em chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2009-2012” để làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích của đề tài là nghiên cứu Tổng hợp và hệ thống hóa công tác chi trả chế độ BHXH tại tỉnh Hòa Bình Phân tích thực trạng tổ chức công tác chi trả chế độ BHXH tại tỉnh Hòa Bình 1 giai đoạn 2009-2012. Từ đó rút ra những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến công tác chi trả chế độ BHXH Đề xuất một số giải pháp hữu hiệu nhằm hoàn thiện tổ chức công tác chi trả chế độ BHXH tại tỉnh Hòa Bình 3.Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những hoạt động có liên quan tới tố chức công tác chi trả chế độ BHXH tại tỉnh Hòa Bình - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện công tác chi trả chế độ BHXH tại tỉnh Hòa Bình 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nêu trên, trong quá trình nghiên cứu, tác giả lựa chọn và sử dụng các phương pháp: Phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê và phương pháp nghiên cứu hệ thống 5. Đóng góp mới của Luận văn Luận văn đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về BHXH và vai trò của công tác chi trả chế độ BHXH làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu, phân tích thực trạng, đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện công tác chi trả chế độ BHXH của tỉnh Hòa Bình 6. Kết cấu của Luận văn Ngoài lời mở đầu và kết luận bao gồm 3 chương như sau: Chương I: Lý luận chung về Bảo hiểm xã hội và công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội. Chương II: Thực trạng công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2009-2012. Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Hòa Bình. 2 CHƢƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CÔNG TÁC CHI TRẢ CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI 1.1. Khái quát chung về Bảo hiểm xã hội 1.1.1 Khái niệm về Bảo hiểm xã hội BHXH đã hình thành rất lâu, hệ thống BHXH đầu tiên được thiết lập tại Đức vào năm 1850 và sau đó được hoàn thiện với chế độ bảo hiểm ốm đau; bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp; bảo hiểm tuổi già, tàn tật và sự hiện diện của cả ba thành viên xã hội: người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Kinh nghiệm về BHXH ở Đức sau đó được lan dần sang nhiều nước trên thế giới. Trong quá trình phát triển, các chế độ BHXH và đối tượng BHXH ngày càng được mở rộng. Theo đó, khái niệm BHXH cũng có nhiều thay đổi và ngày càng được hoàn chỉnh. Cho đến nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về BHXH và cũng có rất nhiều khái niệm BHXH được đưa ra. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra một định nghĩa về BHXH được chấp nhận rộng rãi nhất: Bảo hiểm xã hội: Là hình thức bảo trợ mà xã hội dành cho các thành viên của mình thông qua nhiều biện pháp công nhằm tránh tình trạng khốn khó về mặt kinh tế và xã hội do bị mất hoặc giảm đáng kể thu nhập vì bệnh tật, thai sản, tai nạn lao động, mất sức lao động và tử vong, chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình có con nhỏ [41]. Ở nước ta, hệ thống ASXH mà đặc biệt là cơ chế BHXH đã hình thành rất sớm, ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Về nội dung thực hiện, xét từ năm 1945 đến nay, Việt Nam gần như thực hiện đầy đủ các chế độ cần có của cơ chế BHXH và rất nhiều cơ chế khác của ASXH mà các quốc gia khác trên thế giới đang thực hiện, thể hiện nét ưu việt và sáng tạo trong hệ thống ASXH của Việt Nam. Hiện nay, hệ thống này tương đối phức tạp, bao gồm: BHXH; cứu trợ xã hội; ưu đãi xã hội; chăm sóc xã hội; dịch vụ xã hội và các đảm bảo khác cung cấp bởi người sử dụng lao động. 3 Dưới góc độ kinh tế, BHXH được coi là quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được dồn tích từ sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước theo quy định của pháp luật, nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết những nhu cầu sinh sống thiết yếu của người lao động và gia đình họ khi họ gặp những rủi ro dẫn đến việc giảm hoặc mất khả năng thanh toán từ thu nhập theo lao động. Với góc độ xã hội, BHXH được coi là sự liên kết của những người lao động xuất phát từ lợi ích chung của xã hội, của người lao động và người sử dụng lao động. Khi tham gia quan hệ này, người lao động sẽ được hưởng một khoản trợ cấp nhất định nếu có những biến cố rủi ro, trên cơ sở tự đóng góp của các bên. Nghiên cứu về BHXH, nhiều tác giả nước ngoài cũng đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về BHXH áp dụng riêng trong điều kiện của các nước đang phát triển. Các tác giả có chung một quan điểm là BHXH không chỉ dừng lại ở việc mất đột ngột thu nhập theo dự kiến mà còn tính đến cả việc ngăn chặn, giảm nghèo kinh niên và mang lại mức sống tối thiểu. Cách tiếp cận BHXH mà mỗi nước lựa chọn còn tùy thuộc vào mục tiêu chính sách quốc gia và điều kiện cụ thể của nền kinh tế. Mặc dù khái niệm BHXH của Việt Nam được xác định trong từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam cũng tương tự như khái niệm BHXH mà ILO đưa ra, nhưng thực tế trong quá trình thảo luận, xây dựng chính sách, cũng có nhiều định nghĩa BHXH khác do các tổ chức quốc tế và trong nước đưa ra, đề cập đến các mặt khác nhau của BHXH ở Việt Nam. Trong đó, có nhiều định nghĩa quá rộng hoặc quá chung chung, không thể áp dụng trong điều kiện thực tế ở Việt Nam. Khái niệm BHXH được sử dụng trong toàn bộ nghiên cứu của luận văn này là khái niệm BHXH đã được ghi trong Luật BHXH được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/06/2006. Bảo hiểm xã hội: Là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội [33]. 4 Bảo hiểm xã hội bắt buộc: Là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia [33]. 1.1.2 Vai trò của Bảo hiểm xã hội Bảo hiểm xã hội có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, vai trò đó được thể hiện qua các mặt sau: - Đối với người lao động: Trong giai đoạn hiện nay khi đất nước đang ngày càng hoàn thiện quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa thì những “rủi ro” như ốm đau, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, thai sản, mất việc làm… lại diễn ra một cách thường xuyên và ngày càng phổ biến hơn và phức tạp hơn. Khi những rủi ro này xảy ra sẽ gây ra những khó khăn cho người lao động cả về vật chất lẫn tinh thần, ảnh hưởng không tốt cho cả xã hội. Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước, BHXH sẽ góp phần giúp cho cá nhân người lao động gặp phải rủi ro, bất hạnh bằng cách tạo ra cho họ những thu nhập thay thế, những điều kiện lao động thuận lợi… giúp họ ổn định cuộc sống, yên tâm công tác, tạo cho họ một niềm tin vào tương lai. Từ đó, góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao động cũng như chất lượng công việc cho doanh nghiệp nói riêng và cho toàn xã hội nói chung. - Đối với người sử dụng lao động: Để có được sản phẩm phục vụ cho cuộc sống của con người và sự phát triển của xã hội thì cần phải có người tạo ra sản phẩm và nhờ vào quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm cần thiết cho con người, cho xã hội. Những người biết vận dụng sức lao động của công nhân để tạo ra sản phẩm cho xã hội đó chính là người sử dụng lao động. Muốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh được đảm bảo thì người chủ sử dụng lao động phải tạo được mối quan hệ tốt với người lao động, giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm của người sử dụng lao động thật tốt để người lao động yên tâm tham gia lao động sản xuất và có niềm tin vào cuộc sống, từ đó lao động sản xuất hăng hái hơn, tạo ra nhiều sản phẩm tốt hơn làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của người sử dụng lao động đạt kết quả cao. Muốn vây, chủ sử 5 dụng lao động phải tham gia đóng BHXH cho người lao động của mình để BHXH đảm bảo những khoản chi trả cần thiết, kịp thời đến người lao động khi họ gặp phải những rủi ro bất chắc như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp... Việc tham gia đóng BHXH cho người lao động của chủ sử dụng lao động là góp phần vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát triển hơn, nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp cũng như nâng cao thu nhập cho người lao động và góp phần vào phát triển kinh tế. - Đối với nền kinh tế: Góp phần gắn bó giữa giới chủ và giới thợ từ đó làm cho thị trường lao động phát triển lành mạnh, bền vững. Đặc biệt là mâu thuẫn vốn có của giới chủ và giới thợ về cơ bản được giải quyết và đây là tiền đề rất quan trọng giúp cho người lao động nâng cao năng suất lao động, phát huy sáng tạo, góp phần làm cho sản xuất ngày càng phát triển. Nhờ có chính sách BHXH mà quỹ BHXH được hình thành và tồn tích lại theo thời gian và bắt đầu những năm 60 của thế kỷ 20 quỹ BHXH ở các nước, đặc biệt là các nước phát triển đã trở thành một khâu tài chính trung gian vô cùng quan trọng góp phần đầu tư, phát triển, tăng trưởng kinh tế cho đất nước. - Đối với xã hội: Thứ nhất: cần phải khẳng định rằng hoạt động BHXH là một hoạt động dịch vụ, cơ quan BHXH là một “doanh nghiệp” sản xuất ra những dịch vụ “bảo hiểm” cho người lao động, một loại dịch vụ mà bất kỳ ai cũng cần đến. Thứ hai: với tư cách là một trong những chính sách xã hội của Nhà nước, BHXH sẽ bảo hiểm cho người lao động, hoạt động BHXH sẽ giải quyết những “trục trặc”, “rủi ro” xảy ra đối với người lao động góp phần phục hồi năng lực làm việc, khả năng sáng tạo của sức lao động. Sự góp phần này tác động trực tiếp đến việc nâng cao năng suất lao động cá nhân, đồng thời góp phần tích cực vào nâng cao năng suất lao động xã hội. BHXH đã gián tiếp tác động đến chính sách tiêu dùng của quốc gia làm tăng sự tiêu dùng cho xã hội. 6 Thứ ba: với tư cách là quỹ tiền tệ tập trung, nhằm tác động mạnh đến hệ thống tài chính ngân sách Nhà nước, tới hệ thống tín dụng tiền tệ ngân hàng. Chính vì vậy, đặt ra một yêu cầu cho quỹ BHXH là phải tự bảo tồn và phát triển quỹ bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hình thức đầu tư phát triển tiền “nhàn rỗi” của quỹ. Phần này có tác động không nhỏ tới sự phát triển của đất nước, góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, góp phần tăng thu nhập cá nhân cho người lao động nói riêng và tăng tổng sản phẩm quốc nội cũng như tăng tổng sản phẩm quốc dân nói chung. Thứ tư: BHXH góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội, là công cụ phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Sự phân phối lại thu nhập này được phân phối theo hai cách: là phân phối theo chiều dọc và phân phối theo chiều ngang; phân phối giữa những người khỏe với người già, giữa nam với nữ, giữa người đang được hưởng trợ cấp với người chưa được hưởng trợ cấp và phân phối lại theo chiều ngang là mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế xã hội, giữa người có thu nhập cao với người có thu nhập thấp. Về mặt kinh tế, nhờ có tổ chức phân phối lại thu nhập mà đời sống của người lao động và gia đình họ luôn được đảm bảo trước những bất trắc, rủi ro xã hội. Về mặt xã hội do có sự “san sẻ rủi ro” của BHXH, người lao động chỉ phải đóng một khoản nhỏ trong thu nhập của mình vào quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có một lượng vật chất đủ lớn trang trải những rủi ro xảy ra, ở đây BHXH thực hiện nguyên tắc “lấy số đông bù số ít”. Tuy nhiên, tính kinh tế và xã hội của BHXH không tách rời nhau mà đan xen lẫn nhau. Khi nói đến bảo đảm kinh tế cho người lao động và gia đình họ là nói lên tính xã hội của BHXH, ngược lại khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lại đủ trang trải mọi rủi ro xã hội thì đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH. 1.1.3 Bản chất, chức năng của BHXH 1.1.3.1. Bản chất của Bảo hiểm xã hội Với những vai trò của BHXH đã nêu ở trên thì bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây: - BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là 7 trong xã hội mà sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt qua trạng thái kinh tế của mỗi nước. - Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết. - Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lao đông- bệnh nghề nghiệp… Hoặc có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như tuổi già, thai sản… Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động. - Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp những biến cố, rủi ro, sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ của Nhà nước. - Mục tiêu của BHXH là thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Nếu xét về yếu tố lịch sử thì BHXH được hình thành từ những năm 50 của thế kỷ 19. Tuy nhiên bây giờ vẫn chưa có một khái niệm thật chuẩn mực về BHXH vì các nhà khoa học và các nhà nghiên cứu vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau: - Nếu đứng trên góc độ tài chính: thì BHXH là quá trình san sẽ rủi ro, san sẻ tài chính giữa các bên tham gia theo quy định thống nhất của pháp luật Nhà nước. Sự san sẻ rủi ro giữa những người khỏe mạnh với những người gặp sự kiện bảo hiểm, những người giàu với những người nghèo thông qua sự đóng góp vào quỹ tiền tệ tập trung, nằm ngoài ngân sách Nhà nước. Qũy này được hình thành chủ yếu 8 do người lao động và người sử dụng đóng góp là chủ yếu, Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm và từ các nguồn khác nữa. - Nếu đứng trên góc độ pháp lý: BHXH là một cơ chế pháp định bảo vệ người lao động và gia đình họ thông qua việc sử dụng tiền đóng góp của người lao động tham gia bảo hiểm và gia đình họ khi người lao động gặp rủi ro. Khi người lao động hoặc gia đình họ gặp phải rủi ro, hoặc sự kiện bảo hiểm thì quỹ BHXH sẽ chi trả một khoản tiền giúp họ ổn định cuộc sống. - Theo tổ chức lao động quốc tế ILO: “BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với tất cả các thành viên của mình với những khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm nhiều về thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già và chết, y tế, thai sản”. - Thế giới quan niệm: “BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an toàn xã hội”. - Mối quan hệ giữa các bên tham gia BHXH cũng được xuất phát trên cơ sở quan hệ lao động và quan hệ quản lý xã hội, cụ thể: + Bên tham gia BHXH: có thể bao gồm người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước và có thể chỉ có người lao động và nhà nước. + Bên BHXH: thông thường là cơ quan chuyên trách do nhà nước đứng ra thành lập và bảo trợ, cơ quan này tổ chức hoạt động theo đúng khuôn khổ pháp luật. + Bên được bảo hiểm chính là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết. Cơ sở chủ yếu của các mối quan hệ giữa các bên chính là quỹ tài chính BHXH vì quỹ này do tất cả các bên tham gia đóng góp và mức đóng của từng bên là do sự thỏa thuận giữa các bên sau đó được tiến hành luật hóa và cụ thể thực hiện. Đứng trên bình diện xã hội thì BHXH là quá trình sử dụng một phần tổng sản phẩm quốc nội để đảm bảo an toàn về kinh tế cho người lao động và toàn xã hội. 9 Bởi vậy, quỹ tài chính BHXH là điều kiện tiên quyết để san sẻ rủi ro, san sẻ tài chính cho các bên tham gia. Mục đích chính của BHXH là nhằm thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của người lao động và gia đình họ trong trường hợp người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục đích này được tổ chức lao động quốc tế cụ thể hóa như sau: + Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất đi để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ. + Chăm sóc sức khỏe chống lại bệnh tật. + Xây dựng điều kiện sống đáp ứng nhu cầu của dân cư, nhu cầu đặc biệt của người già và trẻ em. Tất cả những mục đích nói trên, thế giới ngày nay đều thừa nhận và cho rằng góp phần đảm bảo ASXH cho từng nước và toàn thế giới. Qua đây có thể thấy, BHXH góp phần thực hiện mục tiêu đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ. BHXH là quá trình sử dụng thu nhập cá nhân và tổng sản phẩm trong nước(GDP) để thỏa mãn nhu cầu an toàn kinh tế cho người lao động và an toàn xã hội. BHXH mang cả bản chất kinh tế và cả bản chất xã hội. 1.1.3.2. Chức năng của Bảo hiểm xã hội - Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì quy cho cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm hoặc mất khả năng lao động tạm thời, làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn hưởng theo đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH. - Phân phối và phân phối lại thu nhập giữa người lao động tham gia BHXH. 10 Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà có cả người sử dụng lao động. Các bên tham gia phải đóng góp vào quỹ BHXH. Qũy này được dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Như vậy theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những người có thu ngập cao và những người có thu nhập thấp… Thực hiện chức năng này có nghĩa BHXH đã góp phần thực hiện công bằng xã hội. - Góp phần kích thích người lao động hăng hái tham gia lao động sản xuất từ đó nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khỏe mạnh thì hăng hái sản xuất, lao động thì được chủ sử dụng lao động trả tiền công, khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và khi về già thì được BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ luôn được đảm bảo giúp họ yên tâm lao động sản xuất. Giúp tăng năng suất lao động xã hội. - Gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa người lao động và xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động. Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó được điều hòa và giải quyết. Đối với Nhà nước và xã hội thì chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn. 1.1.4 Đối tƣợng của BHXH Tuy BHXH ra đời rất lâu, nhưng đối tượng Bảo hiểm xã hội vẫn có nhiều quan điểm chưa thống nhất. Đôi khi còn nhầm lẫn giữa đối tượng của BHXH với đối tượng tham gia BHXH. BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau, bệnh tật, tai nạn, già yếu… Chính vì vậy, đối tượng của BHXH là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất 11 khả năng lao động, mất việc làm của những người tham gia BHXH. Còn đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động.Tuy vậy, tùy theo điều kiện kinh tế xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc là một bộ phận người lao động tham gia BHXH. Người lao động tham gia BHXH nhằm đảm bảo cuộc sống cho chính họ và gia đình họ khi họ gặp phải rủi ro hoặc sự kiện bảo hiểm. Còn người sử dụng lao động họ tham gia bảo hiểm để bảo hiểm cho người lao động mà họ sử dụng nhằm ổn định sản xuất. Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH đều thực hiện BHXH đối với các viên chức Nhà nước, những người làm công ăn lương. Vì khi đó BHXH chưa phát triển và những đối tượng này chỉ có một khoản thu nhập cố định đó là tiền lương của họ. Nếu họ không may gặp phải rủi ro, hoặc sự kiện bảo hiểm thì họ sẽ bị mất thu nhập, và không thể trang trải cuộc sống. Khi tham gia BHXH nếu họ không may gặp phải sự kiện bảo hiểm thì được quỹ BHXH chi trả giúp họ ổn định cuộc sống. 1.1.5 Các chế độ của BHXH Chế độ BHXH là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với người lao động. Nói cách khác, đó là một hệ thống các quy định được pháp luật hóa về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng cho từng trường hợp BHXH cụ thể. Chế độ BHXH thường được biểu hiện dưới dạng các văn bản pháp luật và dưới luật, các thông tư, điều lệ… Tuy nhiên, dù có cụ thể đến đâu thì các chế độ BHXH cũng khó có thể bao hàm được đầy đủ mọi chi tiết trong quá trình thực hiện chính sách BHXH. Vì vậy, khi thực hiện mỗi chế độ thường phải nắm vững những vấn đề mang tính cốt lõi của chính sách BHXH, để đảm bảo tính đúng đắn và nhất quán trong toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH. Tại hội nghị quốc tế về lao động hàng năm, tổ chức quốc tế về lao động (ILO) đã thông qua công ước 102 (6/1952), công ước đầu tiên về những quy phạm tối thiểu của BHXH gồm 9 chế độ trợ cấp như sau: 1. Chăm sóc y tế 12 2. Trợ cấp ốm đau 3. Trợ cấp tuổi già 4. Trợ cấp thất nghiệp 5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp 6. Trợ cấp gia đình 7. Trợ cấp thai sản 8. Trợ cấp tàn tật 9. Trợ cấp tử tuất. Tùy theo điều kiện kinh tế xã hội của từng nước mà hệ thống này có thể thực hiện được toàn bộ hoặc cũng có thể thực hiện được một số chế độ nào đó. Nhưng một quốc gia được gọi là có hệ thống chế độ BHXH ít nhất thực hiện được 3 chế độ trong đó ít nhất phải có một trong sáu chế độ sau chế độ (2) Trợ cấp ốm đau; (3) Trợ cấp thất nghiệp; (4) Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; (8) Trợ cấp cho người tàn phế; (9) Trợ cấp tử tuất; Chăm sóc y tế (1) Các chế độ bảo hiểm xã hội gồm có - Bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm các chế độ sau đây: + ốm đau; +Thai sản; + Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; + Hưu trí; +Tử tuất. - Bảo hiểm xã hội tự nguyện bao gồm các chế độ sau đây: + Hưu trí; + Tử tuất. - Bảo hiểm thất nghiệp bao gồm các chế độ sau đây: + Trợ cấp thất nghiệp; + Hỗ trợ học nghề; + Hỗ trợ tìm việc làm. Có nhiều yếu tố khoa học tác động đến điều kiện, thời gian và mức hưởng trợ 13 cấp trong từng chế độ, cũng như khả năng áp dụng bao nhiêu chế độ trong một hệ thống: như tiền lương, thu nhập của người lao đông, hệ thống tài chính quốc gia… Thời gian hưởng và mức hưởng trợ cấp BHXH nói chung phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và thời gian đóng phí BHXH của người lao động trên cơ sở tương ứng giữa đóng và hưởng. Đồng thời khả năng thanh toán còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán của quỹ tài chính BHXH. Để hình thành hệ thống chế độ này cần phải dựa trên những cơ sở nhất định như: cơ sở sinh học, cơ sở môi trường và điều kiện lao động, cơ sở kinh tế xã hội, luật pháp của từng nước. Sau đây là đặc điểm hệ thống các chế độ: - Chế độ chăm sóc y tế: Người lao động là người tạo ra của cải vật chất hoặc tinh thần cho xã hội bởi vậy muốn xã hội phát triển ổn định, bền vững thì trước hết quan tâm đến sức khỏe cho họ kể cả khi bình thường hay khi ốm đau, tai nạn. Bởi vậy, tổ chức lao động quốc tế coi đây là chế độ đầu tiên trong 9 chế độ BHXH. Mục đích là để bảo vệ và phục hồi cải thiện sức khỏe cho người lao động, từ đó tái sản xuất sức lao động cho họ giúp họ làm việc một cách bình thường. Đồng thời còn giúp bản thân gia đình họ ứng phó với các nhu cầu phát sinh cá nhân để đảm bảo cuộc sống. Chế độ này có đối tượng rất rộng bởi vì không chỉ có người lao động tham gia BHXH mà thậm chí cả vợ hoặc chồng con cái họ bởi lẽ nếu những người này được chăm sóc y tế có cuốc sống khỏe mạnh bình thường thì bản thân người lao động cũng yên tâm, phấn khởi tham gia sản xuất. Góp phần nâng cao năng suất lao động cá nhân. Đây là chế độ đặc thù trong 9 chế độ có đối tượng rộng nhưng BHXH sẽ tiến hành chi trả trợ cấp theo tất cả những chi phí phát sinh trong suốt thời gian điều trị chăm sóc những người được bảo vệ. Tuy nhiên để tránh chuộc lợi BHXH người ta quy định người tham gia BHXH phải có ít thất 1 thời gian nhất định có đóng BHXH. Đây là chế độ BHXH ngắn hạn vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính chất không hoàn trả. Những nước thiết lập quỹ BHYT thì mức phí phải nộp phụ thuộc chủ yếu 3 yếu tố: số người tham gia BHXH; số người được chăm sóc y tế 14 hàng năm; chi phí bình quân một người được chăm sóc y tế hàng năm. - Chế độ trợ cấp ốm đau: Ốm đau là loại rủi ro rất phổ biến trong cuộc sống của mỗi con người và hầu như ai cũng gặp phải. Khi bị ốm đau bản thân người ốm và gia đình gánh chịu những chi phí phát sinh và nếu tham gia BHXH thì chế độ chăm sóc y tế gánh vác. Nếu ốm đau còn điều trị dài ngày thì nghỉ ốm sẽ mất thu nhập và thu nhập bị gián đoạn, khoản chế độ này sẽ được bù đắp hoặc thay thế bởi chế độ ốm đau. Bởi vậy mục đích của chế độ này là nhằm đảm bảo tính liên tục về thu nhập cho người lao động và gia đình họ, giúp họ ổn định cuộc sống. Việc quy định mức trợ cấp và thời gian trợ cấp tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của từng nước. Chế độ này cũng là chế độ trợ cấp ngắn hạn, vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính không hoàn trả. - Chế độ trợ cấp thất nghiệp Thất nghiệp là loại rủi ro nghề nghiệp mà trong cơ chế thị trường người lao động rất hay gặp phải đây là loại rủi ro có tác động rất lớn đến tất cả vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước… thất nghiệp do nhiều nguyên nhân khác nhau và hậu quả vô cùng nặng nề bởi vậy ngày nay tất cả các nước, tất cả các nhà kinh tế, nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng thất nghiệp là vấn đề nan giải khó giải quyết. Thất nghiệp luôn đi đôi với lạm phát. Mục đích của chế độ này góp phần ổn định thu nhập và tâm lý cho người lao động cũng như gia đình họ giúp người lao động bị thất nghiệp sớm có cơ hội và điều kiện quay trở lại thị trường lao động. Góp phần ổn định kinh tế xã hội của mỗi nước bởi vì thất nghiệp ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả những lĩnh vực này… Nếu quan sát thực trạng triển khai Bảo hiểm thất nghiệp ở tất cả các nước trên thế giới thì mức trợ cấp thất nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào những yếu tố sau: quỹ BHXH, tình hình biến động của thị trường lao động; chế độ tiền lương của quốc gia. Điều kiện kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ. Mức trợ cấp thất nghiệp luôn luôn nhỏ hơn tiền lương, tiền công trước khi bị thất nghiệp nhưng phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động và gia đình họ trong thời gian 15 người lao động bị thất nghiệp. Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp ngắn hay dài phụ thuộc vào thời gian tham gia BHXH của người lao động trước đó và tổ chức lao động khuyến cáo thời gian trợ cấp có thể 13-26 tuần trong 1 năm. Chế độ trợ cấp thất nghiệp cũng được coi là chế độ trợ cấp ngắn hạn, vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính không hoàn trả. Hiện nay, Bảo hiểm thất nghiệp được triển khai dưới 2 dạng chủ yếu đó là: triển khai độc lập với BHXH hoặc coi đó là một chế độ của BHXH. - Chế độ trợ cấp TNLĐ-BNN Đây là một trong những chế độ được triển khai sớm nhất trên thế giới cũng như ở Việt Nam bởi vì nó đáp ứng nhu cầu thực tế trước mắt của mọi người lao động, bởi lẽ đây là loại rủi ro có thể phát sinh bất cứ lúc nào, ở đâu. Hiện nay, trên thế giới có 178 nước triển khai chế độ này. Mục đích là góp phần đảm bảo thu nhập cho người lao động, gia đình họ khi không may gặp tai nạn lao động…, phục hồi khả năng lao động cho người lao động từ đó giúp họ sớm quay lại thị trường lao động, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cả người lao động và người sử dụng lao động, trách nhiệm này thực hiện cả khi người lao động còn khỏe mạnh lẫn cả khi bị tan nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Đây là chế độ vừa mang tính ngắn hạn, vừa mang tính dài hạn nên việc quản lý rất khó khăn nó liên quan đến ngành nghề, giới tính, thời điểm xảy ra tai nạn, nơi sảy ra tai nạn… Bởi vậy khi luật hóa chế độ này phải hết sức cụ thể và sát với thực tiễn. - Trợ cấp hưu trí Trong hệ thống 9 chế độ thì chế độ trợ cấp hưu trí là một chế độ quan trọng nhất. Vì chế độ này liên quan đến tất cả người lao động trong xã hội từ khi bước vào độ tuổi lao động đến khi người ta chết. Đặc biệt là mức đóng và mức hưởng của chế độ này luôn luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng mức phí và trong tổng quỹ BHXH. Ngoài ra hoạt động thu, chi của chế độ này cũng có liên quan đến tất cả các cơ quan, các hoạt động BHXH. Chính vì vậy, chế độ hưu trí được đa số các nước áp dụng và cũng là một chế độ được thực hiện sớm nhất. 16 Đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người lao động sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ lao động đối với xã hội. Thể hiện sự quan tâm của chính phủ, người sử dụng lao động không chỉ khi họ còn trẻ khỏe mà cả khi họ đã già yếu không thể lao động được nữa. Sự quan tâm này không chỉ thuần túy là nghĩa vụ và trách nhiệm mà còn là đạo lý của mỗi dân tộc, mỗi một chế độ chính trị xã hội. Ngoài ra, giúp cho người lao động tiết kiệm cho bản thân ngay từ trong quá trình lao động để đảm bảo ổn định cuộc sống khi về già, từ đó giảm bớt gánh nặng cho gia đình và người thân và cho xã hội. Đối tượng, mức trợ cấp và khoảng thời gian trợ cấp phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội của từng nước. Chế độ hưu trí là chế độ trợ cấp dài hạn được thực hiện ngoài quá trình lao động. Số tiền trợ cấp thông thường được cơ quan BHXH chi trả định kỳ theo tháng cho người về hưu. Chế độ hưu trí là chế độ mang tính chất hoàn trả và ít nhiều có sự tách biệt qúa trình đóng và hưởng vì người lao động tham gia đóng phí bảo hiểm trong suốt quá trình lao động và được hưởng trợ cấp khi về hưu. Điều này thể hiện tính kế thừa liên tục giữa các thế hệ người lao động để hình thành quỹ hưu trí. Vì vậy, việc xác định mức đóng, mức hưởng rất phức tạp. - Trợ cấp gia đình Chế độ này nhằm hỗ trợ cho người lao động đông con có điều kiện vật chất tối thiểu cần thiết để chăm sóc và nuôi dạy con cái. Khuyến khích người lao động tham gia BHXH và tạo nguồn lao động tương lai. Góp phần tạo sự bình đẳng trong xã hội và từ đó tạo sự ASXH, tính đến hết năm 2010 trên thế giới có trên 86 nước thực hiện trợ cấp gia đình. Đây là chế độ liên quan đến việc làm vì vậy đối tượng được trợ cấp chỉ bao gồm những người đang lao động và gia đình họ. Trong đó, chỉ có những lao động đông con mới được hưởng trợ cấp và trách nhiệm chủ yếu thuộc về người sử dụng lao động. Những người sử dụng lao động phải có trách nhiệm đối với người lao động đông con gặp hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống bằng cách bổ xung các quyền lợi 17 cho người được trợ cấp. Cụ thể là bổ sung vào tiền lương, tiền công thậm trí là bằng hiện vật thiết yếu. Tuy nhiên phần trợ cấp này là bao nhiêu và hình thức chi trả như thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước. - Trợ cấp thai sản So với nam giới thì lao động nữ mang một số đặc điểm là thể chất tình trạng sức khỏe và tâm sinh lý có những đặc điểm khác hẳn với nam giới và thông thường là kém hơn nam giới. Bởi vậy, nó liên quan đến công việc mà nữ giới đảm nhiệm. Những công việc này ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng làm vợ, làm mẹ của lao động nữ. Nên nó chịu ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách BHXH. Vậy khi thiết kế chính sách BHXH cần phải chú ý đến chính sách sử dụng lao động nữ và chính sách đãi ngộ đối với họ. Trong hệ thống chính sách BHXH, lao động nữ không chỉ là đối tượng tham gia BHXH được hưởng trợ cấp mà họ còn là đối tượng nghiêm cứu để hoàn thành toàn bộ hệ thống BHXH nói chung. Thực hiện tốt chế độ trợ cấp thai sản sẽ bù đắp thay thế được nguồn thu nhập cho lao động nữ khi họ sinh đẻ và nuôi con nhỏ. Tái sản xuất cho lao động nữ và những thế hệ lao động kế tiếp, góp phần thực hiện quyền bình đẳng nam nữ và quyền phụ nữ nói chung. - Trợ cấp tàn tật Thực hiện chế độ này nhằm góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi người lao động không may bị tàn tật, từ đó góp phần đảm bảo an sinh xã hội, khuyến khích người lao động hăng hái tham gia BHXH. Đây cũng là một chế độ thể hiện tính nhân đạo nhất. Chế độ này vừa mang tính hoàn trả vừa mang tính không hoàn trả. Tuy nhiên, đây cũng là chế độ rất dễ bị lạm dụng trong khâu giám định y khoa. - Trợ cấp tử tuất Đây là một chế độ bảo hiểm nhân đạo nhất trong tổng số 9 chế độ BHXH cho nên hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thực hiện, thực hiện chế độ này nhằm góp phần khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống cho gia đình người lao động không may bị chết. Khuyến khích những người còn sống tham gia BHXH và góp phần đảm bảo ASXH cho đất nước. Chế độ này thường được các nước chia làm 2 phần: 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan