Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hòa giải tranh chấp đất đai tại ủy ban nhân dân cấp xã theo pháp luật đất đai từ...

Tài liệu Hòa giải tranh chấp đất đai tại ủy ban nhân dân cấp xã theo pháp luật đất đai từ thực tiễn huyện phục hòa, tỉnh cao bằng

.DOC
84
3
136

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐÀM THỊ PHƯỢNG HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHỤC HÒA, TỈNH CAO BẰNG Ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính Mã số: 8.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐỖ THỊ KIM ĐỊNH Hà Nội, 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. Tác giả luận văn ĐÀM THỊ PHƯỢNG MỤC LỤC MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI..................................................................................................8 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã.....................................................................................................................8 1.2. Thẩm quyền, nguyên tắc, trình tự, thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã...................................................................................................... 18 1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến hòa giải tranh chấp đất đai............................27 Chương 2. THỰC TRẠNG HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI UBND CẤP XÃ THEO PHÁP LUẬT TẠI HUYỆN PHỤC HÒA, TỈNH CAO BẰNG....................................................................................................... 31 2.1. Thực trạng pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã........31 2.2. Thực tiễn hòa giải tranh chấp đất đai theo pháp luật tại UBND huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng....................................................................................38 Chương 3. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT TẠI UBND CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHỤC HÒA, TỈNH CAO BẰNG................62 3.1. Quan điểm, định hướng tăng cường hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã................................................................................................. 62 3.2. Giải pháp tăng cường hiệu quả hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã......................................................................................................................... 65 KẾT LUẬN........................................................................................................76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................78 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Nghĩa tiếng Việt LĐĐ Luật Đất đai SDĐ Sử dụng đất TCĐĐ Tranh chấp đất đai TAND Tào án nhân dân UBND Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người, là tư liệu sản xuất trực tiếp phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người. C.Mác Các Mác đã viết: “Đất đai là tài sản mãi mãi với loài người, là điều kiện cần để sinh tồn, là điều kiện không thể thiếu được để sản xuất, là tư liệu sản xuất cơ bản của sản xuất vật chất” [9,tr.7]. Trung thành với học thuyết Mác, V.I.Lênin cho rằng, đất đai là cơ sở cực kỳ quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội; là một tài sản quý giá của toàn thể nhân dân. Kể từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, các quan hệ đất đai cũng phát triển hết sức đa dạng, phức tạp, đòi hỏi pháp luật đất đai phải có những cơ chế điều chỉnh phù hợp. Nhiều quan hệ trước kia bị nghiêm cấm, nay pháp luật cho phép thực hiện. Các giao dịch dân sự về đất đai được xác lập như chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn .v.v. bằng giá trị quyền sử dụng đất. Cũng từ đó mà số lượng và đối tượng của tranh chấp đất đai có sự thay đổi, đặc biệt là những năm gần đây tình hình tranh chấp đất đai ngày càng gia tăng về số lượng và phức tạp về tính chất, nhất là những vùng đang đô thị hóa nhanh. Tranh chấp đất đai để lại các hệ lụy xấu phá vỡ sự đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Để ngăn ngừa nguy cơ tiềm ẩn sự mất ổn định chính trị và duy trì khối đại đoàn kết toàn dân, công tác hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là UBND cấp xã) luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Vì tăng cường công tác hòa giải ở cơ sở nhất là hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã là một trong những biện pháp hữu hiệu để hạn chế các bên tranh chấp khởi kiện ra Tòa án để giải quyết tranh chấp đất đai. Pháp luật đất đai qua các thời kỳ: Luật Đất đai 1 (LĐĐ) năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013 đều có các quy định về hòa giải tranh chấp đất đai tại cơ sở. Chính sách, pháp luật về đất đai của Đảng và Nhà nước ta có nhiều thay đổi qua các năm, các thời kỳ, song bên cạnh đó còn nhiều quy định không nhất quán, Luật Đất đai và các văn bản dưới luật được thay thế, sửa đổi, bổ sung liên tục qua đó dẫn tới việc giải thích, hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền chưa đầy đủ, kịp thời. Do đó, tình hình hòa giải tranh chấp đất đai nói chung còn gặp nhiều khó khăn, dẫn đến có vụ việc tranh chấp, khiếu kiện đất đai kéo dài, vượt cấp, giải quyết không dứt điểm gây bức xúc cho người dân, giảm niềm tin của nhân dân đối với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trong vài năm trở về đây, công tác quản lý đất đai trên cả nước cũng như địa bàn tỉnh Cao Bằng nói chung và tại UBND huyện Phục Hòa nói riêng, nhất là công tác khiếu kiện về đất đai, giải quyết tranh chấp đất đai diễn biến vô cùng phức tạp và khó khăn. Để công tác quản lý đất đai thực tiễn đi vào cuộc sống của người dân và tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tôn trọng, chấp hành pháp Luật Đất đai của mọi tầng lớp nhân dân cũng như công tác hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã nói chung và trên địa bàn huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng nói riêng ngày càng có hiệu quả hơn. Vì thế, việc đi sâu, nghiên cứu, tìm hiểu và đưa ra các giải pháp tăng cường hiệu quả chất lượng trong công tác hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã là một việc làm có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Với ý mục đích đó, tôi đã lựa chọn đề tài: Hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã theo pháp luật đất đai từ thực tiễn huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng làm Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật . 2 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Do nhu cầu sử dụng đất, giá trị về quyền sử dụng đất ngày càng tăng làm cho giá đất tăng lên một cách nhanh chóng, đôi lúc chỉ vì một mâu thuẫn nhỏ trong việc quản lý, sử dụng đất đất đai đã là nguyên nhân phát sinh tranh chấp gay gắt. Tình trạng tranh chấp đất đai ngày càng phức tạp, khó xử lý, tồn đọng, kéo dài, việc giải quyết tranh chấp còn nhiều bất cập thiếu thống nhất trong thực hiện. Có thể nói cho đến thời điểm này vấn đề đất đai vẫn là chủ đề “nóng, nhạy cảm, phức tạp” gây nhiều tranh cãi, bức xúc trong xã hội. Qua nghiên cứu, tìm hiểu tác giả được biết có rất nhiều các công trình, bài viết lớn nhỏ nghiên cứu khoa học về xoay quanh vấn đề: làm thế nào để giải quyết tranh chấp đất đai có hiệu quả nhất, trong đó có các bài viết về hòa giải tranh chấp đất đai tại cơ sở (đặc biệt là cấp xã, phường, thị trấn). Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu và các bài viết này được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, mục đích nghiên cứu khác nhau và dẫn đến quan điểm khác nhau, kết quả nghiên cứu khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu, cách tiếp cận vấn đề. Có thể kể đến các công trình: Bài viết về “Hòa giải tranh chấp đất đai theo Điều 135 Luật Đất đai năm 2003 và một số vấn đề đặt ra” của tác giả Mai Thị Tú Oanh đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 21, tháng 11/2012. Tác giả nêu các quy định của pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai. Thông qua đó nêu ra được những bất cập, chồng chéo, thiếu cụ thể của các quy định pháp luật và nêu quan điểm của mình khi vận dụng pháp luật để giải quyết; Bài viết về“Hòa giải ơ cc sơ khi có tranh chấp quyền sư ddng đất”, của tác giả Tưởng Duy Lượng (2007), đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 4/2007. Tác giả phân tích những quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp quyền sử dụng đất, tầm quan trọng của công tác hòa giải và những bất cập khi tiến hành hòa giải đối với loại tranh chấp này; Bài viết “Pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã và một số kiến nghị”, của tác giả Dương 3 Tấn Thanh – Trần kim Yến (TAND thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh) viết trên Tạp trí Tòa án nhân dân (điện tử) ngày 01/11/2019. Trong phạm vi bài viết, các tác giả trình bày một số quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã. Nêu một số khó khăn, bất cập trong thực tiễn và kiến nghị giải pháp cụ thể. Ngoài ra còn có các bài viết về “Vấn đề hòa giải tranh chấp đất đai tại ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn”, của tác giả Nguyễn Văn Hương. Tạp chí TAND, số 02/2012; “Chế định hòa giải trong pháp luật tố tdng dân sự Việt Nam – Cc sơ lý luận và thực tiễn”, Luận án tiến sĩ luật học, của tác giả Trần Văn Quang 2004, Đại học Luật Hà Nội; “Kỹ năng giải quyết tranh chấp đất đai và hòa giải tranh chấp đất đai” của PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến giảng tại Hội thảo tập huấn Hòa giải viên, già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng dân cư tại Phú Yên và Sóc Trăng, năm 2015 (do Vụ PPBGDPL, Bộ Tư pháp tổ chức); Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Hảo, Khoa luật trường đại học Quốc gia Hà Nội về “Hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai”.v.v. Tuy nhiên các công trình, bài viết trên chỉ là những bài viết đề cập một số khía cạnh về hòa giải tranh chấp đất đai mà chưa chuyên sâu, toàn diện về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai. Mặc dù, không phải là vấn đề nghiên cứu mới, nhưng kể từ khi Luật Đất đai 2013, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 ra đời đã có nhiều quy định mới về hòa giải trong dân sự cũng như hòa giải tranh chấp đất đai. Trên cơ sở kế thừa các thành quả nghiên cứu của các công trình, bài viết về vấn đề hòa giải tranh chấp đất đai đã được công bố, Luận văn tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này ở một khía cạch khác, nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lí luận và thực tiễn về hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã trong giai đoạn thực hiện pháp luật đất đai hiện nay, đặc biệt là việc thực hiện, áp dụng trên địa bàn của một huyện biên giới thuộc tỉnh miền núi phía bắc (Cao Bằng) có những nét đặc thù riêng là vô cùng cần thiết và và quan trọng. 4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mdc đích nghiên cứu Phân tích, đánh giá một cách khách quan và toàn diện các quy định của pháp luật đất đai hiện hành trong việc hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã trên thực tế. Qua đó hoàn thiện chính sách, pháp luật về hòa giải trong tranh chấp đất đai và đưa ra ý kiến, đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã ngày càng có hiệu quả hơn trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vd nghiên cứu Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài bao gồm các vấn đề chủ yếu sau đây: 3.2.1. Lý giải những vấn đề lý luận chung về hòa giải, tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải tại UBND cấp xã. 3.2.2. Đánh giá các quy định của pháp luật đất đai thông qua việc tìm hiểu, phân tích các quy định của pháp luật và thực trạng áp dụng các quy định về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã. 3.2.3. Đưa ra định hướng và một số giải pháp góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã từ thực tiễn ở huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. 4. Đối tượng và phạm vị nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Các quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Các văn bản pháp luật hiện hành về hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã như: Luật đất đai 2013; Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai; Luật Hòa giải năm 2013, Bộ Luật Dân sự 2015 .v.v. và thực tiễn 5 áp dụng các quy định đó trong hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương (huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng). Về thời gian: đánh giá tình hình thực hiện qua nguồn số liệu thu thập trong giai đoạn từ năm 2015 – 2019. Phần giải pháp và đề xuất khuyến nghị trong thời gian tới (giai đoạn năm 2020 -2025). Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã, huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phưcng pháp luận Dựa trên những luận giải khoa học được chứng minh và diễn giải theo chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã, qua đó làm rõ những vấn đề trong thực tiễn áp dụng pháp luật hòa giải tranh chấp đất đai hiện hành trên địa bàn huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng hiện nay. 5.2. Phưcng pháp nghiên cứu Chưcng 1: Tác giả sử dụng phương pháp diễn giải, phương pháp lịch sử khi nghiên cứu tổng quan những vấn đề lý luận về tranh chấp đất đai và pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai, đặc trưng của hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai. Từ các tài liệu được công bố rộng rãi, bao gồm: các văn bản quy phạm pháp luật, các công trình luận án tiến sĩ, giáo trình, bài báo, tạp chí chuyên ngành, đề tài nghiên cứu khoa học, sách tham khảo, các thông tin trên phương tiện thông tin đại chúng và các bản báo cáo, thống kê về công tác hòa giải tranh chấp đất đai trên địa bàn huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. Chưcng 2: Tác giả sử dụng phương pháp thống kê, điều tra, khảo sát và phân tích dữ liệu: Từ những dữ liệu thu được từ thực tiễn, trong quá trình nghiên cứu lí luận khoa học, tiến hành tổng hợp, đối chiếu, phân tích các thông tin để đưa ra những nhận định, đánh giá khi tìm hiểu các quy định của pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai. 6 Chưcng 3: Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp để xem xét, tìm hiểu về hoàn thiện pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận: Đề tài góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận và nội dung các quy định của pháp luật hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn đã góp phần làm rõ những bất cập trong quy định của pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng tại UBND huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. Qua đó, luận văn đưa ra những quan điểm, những giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai của các cơ quan, tổ chức trên địa bàn huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng nói riêng và trên cả nước nói chung. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, cụ thể: Chương 1: những vấn đề lý luận về hòa giải tranh chấp đất đai. Chương 2: thực trạng hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã tại huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. Chương 3: quan điểm, định hướng và giải pháp tăng cường hiệu quả hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã từ thực tiễn huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1.1. Khái niệm hòa giải Hòa giải cũng được coi là sự tiếp nối của quá trình thương lượng, trong đó các bên cố gắng làm điều hoà những ý kiến bất đồng. Hòa giải có ý nghĩa lớn, nó làm cho những tranh chấp, xung đột, mâu thuẫn, xích mích được dập tắt hoặc không vượt qua giới hạn sự nghiêm trọng, giúp cho các bên tránh được một sự xung đột được giải quyết bằng bạo lực hoặc chiến tranh. Giúp các bên hiểu biết lẫn nhau, giữ gìn cục diện ổn định… Chính vì vai trò to lớn này nên trong quy định pháp luật, các nước thường đặt ra vấn đề hòa giải trong giải quyết các tranh chấp. Mâu thuẫn, xung đột lợi ích, vi phạm quy tắc chung, vi phạm cam kết là điều khó tránh khỏi trong các mối quan hệ xã hội. Có hai hình thức cơ bản để giải quyết bất đồng, mâu thuẫn xảy ra giữa các bên là trong tố tụng (cơ quan nhà nước có thẩm quyền – Tòa án đứng ra giải quyết theo quy định của pháp luật) và ngoài tố tụng (các bên tự thương lượng, thỏa thuận với nhau hoặc nhờ bên thứ ba can thiệp như trọng tài, hòa giải, đánh giá trung lập). Ngày nay, xu hướng sử dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng ngày càng được coi trọng trên thế giới bởi khắc phục được những điểm yếu của hệ thống tòa án (vì nhiều lý do mà số vụ việc tranh chấp, mâu thuẫn ngày càng tăng trong khi số lượng thẩm phán có hạn, thủ tục tố tụng tại Tòa án phải tuân thủ đúng pháp luật rất phức tạp, mất nhiều thời gian, lại công khai...). Ở Việt Nam thì việc hòa giải là một hoạt động xuất phát từ truyền thống đoàn kết, hoà hiếu của dân tộc như: "Dĩ hòa vi quý" "Hoà cả làng", "Một điều 8 nhịn, chín điều lành", "Chín bỏ làm mười"… hay thói quen của cộng đồng trong việc giải quyết tranh chấp là không muốn đưa các tranh chấp ra trước các cơ quan tài phán để phán xử như: "Vô phúc đáo tụng đình", vì không muốn "Chuyện bé xé ra to", "Vạch áo cho người xem lưng" mà chủ yếu là "đóng cửa bảo nhau". Pháp luật của Việt Nam cũng quy định về công tác hòa giải những xích mích, tranh chấp nhỏ trong nội bộ nhân dân bằng công tác hòa giải ở đơn vị cơ sở. Thể chế chủ trương, nghị quyết của Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội đã thông qua nhiều văn bản luật có giá trị pháp lý cao, trong đó có quy định biện pháp hòa giải như một phương thức giải quyết tranh chấp (Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật hòa giải ở cơ sở, Luật đất đai, Luật hôn nhân và gia đình...) Như vậy, hòa giải có thể hiểu là hành vi thuyết phdc các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa, là giải quyết các tranh chấp, bất đồng giữa hai hay nhiều bên tranh chấp bằng việc các bên dàn xếp, thưcng lượng với nhau có sự tham gia của bên thứ ba (không phải là bên tranh chấp), giúp hai bên tranh chấp ngồi lại với nhau để cùng giải quyết vấn đề của họ. 1.1.1.2. Khái niệm tranh chấp đất đai Các nhà khoa học pháp lý đã đưa ra định nghĩa về TCĐĐ như sau: TCĐĐ là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vd giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai. Theo quan điểm này thì TCĐĐ là một khái niệm có nội hàm tương đối rộng, trong đó, các chủ thể tham gia quan hệ tranh chấp là các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật đất đai bao gồm Nhà nước và người sử dụng đất; đối tượng của TCĐĐ là tất cả những xung đột về lợi ích, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể là Nhà nước và người sử dụng đất. 9 Trước khi Luật Đất đai 2003 ra đời, thuật ngữ “TCĐĐ” chưa được chính thức giải thích, mà chủ yếu là chỉ được “hiểu ngầm” qua các quy định của pháp luật về giải quyết TCĐĐ, quy định về giải quyết các tranh chấp khác có liên quan đến quyền sử dụng đất. Tranh chấp đất đai bao gồm tất cả các tranh chấp phát sinh từ quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Trong đó có cả các tranh chấp tài sản gắn liền với đất, tranh chấp hợp đồng giao dịch quyền sử dụng đất. Kế thừa từ khái niệm “Tranh chấp đất đai” năm 2003, tại khoản 24, Điều 3 Luật Đất đai 2013 quy định: “Tranh chấp đất đai là tranh chấp quyền và nghĩa vd của người sư ddng đất đai giữa hai hay nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Hiện nay có những trường hợp tranh chấp đất đai thường gặp như: Tranh chấp đất giữa người sử dụng hợp pháp với cá nhân khác; tranh chấp đất giữa người sử dụng hợp pháp với Nhà nước (vấn đề bồi thường đất); tranh chấp đất giữa những người sử dụng chung đất, chung các tài sản gắn liền với đất hoặc về quyền, nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất...; tranh chấp đất giữa hai cá nhân chưa xác định được ai là người sử dụng hợp pháp. Như vậy, tranh chấp đất đai là một hiện tượng xã hội xảy ra trong bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào. Trong xã hội tồn tại lợi ích giai cấp đối kháng thì tranh chấp đất đai mang mầu sắc chính trị, đất đai luôn là đối tượng tranh chấp giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Ở xã hội không tồn tại mâu thuẫn về lợi ích giai cấp đối kháng, tranh chấp đất đai thường là mâu thuẫn về lợi ích kinh tế, quyền và nghĩa vụ của các bên. Việc giải quyết tranh chấp đất đai do các bên tự tiến hành thông qua con đường thương lượng, hòa giải hoặc do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện dựa trên việc áp dụng các quy định của pháp luật. 1.1.1.3. Khái niệm hòa giải tranh chấp đất đai, hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã 10 “Hoà giải tranh chấp đất đai” là một thuật ngữ được sử dụng trong các văn bản pháp Luật Đất đai. Tuy nhiên, thuật ngữ này lại không được giải thích cụ thể trong Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Căn cứ vào quan niệm chung về hoà giải, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về hoà giải tranh chấp đất đai như sau: Hoà giải tranh chấp đất đai là tự chấm dứt việc xích mích, tranh chấp trong sư ddng đất giữa các bên bằng sự thưcng lượng với nhau hoặc qua sự trung gian của một người khác. Hòa giải tranh chấp đất đai là biện pháp pháp lý giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, theo đó bên thứ ba độc lập giữ vai trò trung gian trong việc giúp các bên có tranh chấp tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết các tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến quyền sử dụng đất và thương lượng với nhau về việc giải quyết quyền lợi của mình. Hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn là một thủ tục được quy định trong pháp luật đất đai rất cần thiết, vì nó giúp giữ gìn được mối quan hệ tốt đẹp trong nội bộ nhân dân, giảm bớt áp lực giải quyết tranh chấp đất đai lên các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, từ đó, đảm bảo tính khả thi hơn trong việc thi hành các nội dung trong việc giải quyết tranh chấp đất đai. Trường hợp các bên tranh chấp không tự hòa giải hoặc không hòa giải được thông qua hòa giải ở cơ sở, thì có thể gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp để hòa giải. Đây là hình thức hòa giải do chính quyền cơ sở thực hiện nhằm nhanh chóng giải quyết những bất đồng nội bộ trong nhân dân về đất đai trên địa bàn dân cư do chính quyền địa phương trực tiếp quản lý. Tuy nhiên, kết quả hòa giải này không có giá trị như một phán quyết của cơ quan tư pháp. Theo pháp luật đất đai hiện hành quy định: Hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã được tiến hành bởi các thành viên của Hội đồng 11 hòa giải tranh chấp đất đai. Với các thành viên bao gồm: Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận tổ quốc cấp xã và tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác, đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất đó, cán bộ địa chính, cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn. Đây là việc hòa giải tại nơi có đất tranh chấp dưới hình thức bắt buộc đối với tranh chấp đất đai. Như vậy có thể hiểu “Hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn là một trong những thủ tdc pháp lý mang tính chất bắt buộc. Đây có thể coi là giai đoạn tiền tố tdng trong việc giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân hoặc của cc quan hành chính nhà nước có thẩm quyền”. 1.1.2. Đặc điểm của hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã Tranh chấp đất đai là một dạng đặc biệt của của tranh chấp dân sự, đối tượng của tranh chấp đất đai là quyền sử dụng đất. Bởi vậy, hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã ngoài những đặc điểm của một dạng tranh chấp dân sự nói chung, còn có những đặc điểm riêng cơ bản sau đây: Thứ nhất, việc hoà giải tranh chấp đất đai không chỉ dựa trên quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước mà còn áp ddng phong tdc, tập quán truyền thống, hưcng ước, quy ước, luật tdc của địa phưcng… để vận động, thuyết phdc các bên tranh chấp hoá giải bất đồng, mâu thuẫn về đất đai. Khi tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai nói chung, hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã nói riêng, trên thực tế yêu cầu hòa giải không chỉ biết đến việc vận dụng những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước để tiến hành hòa giải một cách cứng nhắc, rập khuôn, máy móc. Để việc hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND xã đạt hiệu quả, ngoài việc vận dụng các quy định của pháp luật, còn tùy từng trường hợp cụ 12 thể, phải áp dụng cả những phong tục, tập quán, quy ước ở địa phương, bởi lẽ, khi một tranh chấp phát sinh sẽ kéo theo nguy cơ sụp đổ của các mối quan hệ họ hàng, bạn bè, làng xóm láng giềng,...Giải quyết tranh chấp ngoài cái lý còn có cái tình hay nói cách khác là phải hợp tình, hợp lí. Phong tục, tập quán thường được thể hiện hoặc bằng thói quen ứng xử dưới dạng một hành động cụ thể, hoặc bằng ngôn ngữ như luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số, các quy ước của làng, bản, thôn, tổ dân phố. Thường thường, các phong tục, tập quán được áp dụng trong hòa giải phải là phong tục, tập quán tốt đẹp, không vi phạm các chuẩn mực về đạo đức, lối sống, không trái với các quy định của pháp luật. Nếu phong tục, tập quán đã được quy định trong hương ước, quy ước thì phải được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt thực hiện. Đối với các hủ tục, tập quán lỗi thời thì tuyệt đối không được áp dụng trong quá trình tiến hành giải quyết tranh chấp đất đai. Thứ hai, việc hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã phải được tiến hành tại địa bàn nci có đất tranh chấp. Đất đai luôn gắn liền với quyền sử dụng đất nên việc hòa giải thường phải được tiến hành tại nơi có tài sản tranh chấp. Thông thường, chính quyền địa phương nơi có tranh chấp đất đai sẽ có điều kiện tốt nhất để tìm hiểu về nguồn gốc, lịch sử và hiện trạng pháp lý cũng như thực tế của tài sản tranh chấp. Chính vì vậy, chủ thể này sẽ có điều kiện tốt nhất để tiến hành hòa giải một cách có hiệu quả. Thứ ba, hòa giải tranh chấp đất đai yêu cầu phải do các chủ thể am hiểu về quy định của pháp luật về đất đai, nắm vững nguồn gốc, quá trình sư ddng đất cũng như nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp giữa các bên. Người tiến hành hòa giải phải khách quan, công minh, đảm bảo giải quyết tranh chấp một cách công bằng, không thiên vị, không áp đặt các bên đương sự trong việc hoà giải tranh chấp đất đai. Các bên tự nguyện đưa ra các 13 cơ sở, dẫn chứng thực tiễn để chứng minh cho quyền và nghĩa vụ của mình, tự do thảo luận, đề xuất giải pháp, thỏa thuận và chấp nhận ý kiến tư vấn giải quyết của các thành viên Hội đồng hòa giải (hòa giải viên). Các hòa giải viên không chỉ đưa ra những lời giải thích, phân tích “điều hơn, lẽ thiệt” hoặc phân tích sự hợp lý, đưa ra lời tư vấn để các bên đương sự suy nghĩ tự quyết định việc hoá giải những bất đồng, mâu thuẫn, qua đó còn giúp các bên tranh chấp hóa giải mâu thuẫn, góp phần nâng cao nhận thức tuân thủ pháp luật của người dân. Hoà giải viên tuyệt đối không đưa ra nhận định chủ quan hoặc đưa ra phán quyết “đúng - sai” để áp đặt với các bên đương sự trong quá trình hoà giải và nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp giữa các bên. Thứ tư, việc hòa giải tranh chấp đất đai phải tôn trọng quyền định đoạt của các bên tranh chấp; hòa giải tranh chấp cần được tiến hành kịp thời và nhanh chóng. Thực tế giải quyết tranh chấp đất đai cho thấy do tính chất phức tạp, gay gắt của loại tranh chấp này, nên nếu tranh chấp đất đai không được giải quyết mau lẹ, nhanh chóng, dứt điểm ngay từ khi phát sinh bất đồng, mâu thuẫn thì việc giải quyết ngày càng khó khăn, phức tạp. Vì vậy, việc hoà giải tranh chấp đất đai cần được thực hiện kịp thời và nhanh chóng. Điều này đòi hỏi tổ chức, cá nhân thực hiện vai trò hoà giải tranh chấp đất đai phải luôn luôn chủ động sẵn sàng vào cuộc ngay từ khi nảy sinh các bất đồng, mâu thuẫn. Thành viên Hội đồng hoà giải nên giữ bí mật thông tin đời tư của các bên tranh chấp; tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. Mọi hoạt động hoà giải đều nhằm xây dựng niềm tin, tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau giúp cho các bên biết kiềm chế, nhường nhịn nhau nhằm đạt được thỏa thuận, đi đến hòa giải thành công. 14 Thứ năm, hoà giải tranh chấp đất đai phải xoá tan tâm lý “thắng thua” của các bên đưcng sự và thay vào đó là khuyến khích tinh thần “đôi bên cùng có lợi”. Trên thực tế do sự thiếu kiềm chế hoặc chỉ nhận thấy lợi ích trước mắt mà nảy sinh bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên và khi phát sinh do tâm lý sĩ diện, hiếu thắng mà các bên tranh chấp có thái độ căng thẳng, cố chấp. Người hoà giải viên phải nắm bắt được tâm lý này của các bên đương sự để đưa ra những liệu pháp tâm lý nhằm giúp làm dịu sự căng thẳng, tính sĩ diện, ích kỷ hoặc tâm lý “thắng - thua”. Thứ sáu, việc hoà giải tranh chấp đất đai phải tiến hành vận động, tuyên truyền, thuyết phdc các bên một cách kiên trì, bền bỉ, liên tdc; phải tốn nhiều thời gian, công sức của người hoà giải mới mong đạt được sự thành công. Việc hoà giải tranh chấp đất đai muốn đạt hiệu quả thì không chỉ trông chờ vào các cơ quan công quyền mà phải khuyến khích, huy động sự tham gia tích cực, chủ động, sáng tạo của cộng đồng, các tổ chức quần chúng ở cơ sở và các thiết chế tự quản của người dân ở cơ sở. Mặt khác, do đất đai có tầm quan trọng đặc biệt đối với con người nên tranh chấp đất đai tiềm ẩn nhiều hậu quả tiêu cực về chính trị, kinh tế và xã hội. Vì vậy, việc hoà giải tranh chấp đất đai không chỉ là nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà còn là trách nhiệm của cả cộng đồng xã hội và của mỗi người sử dụng đất (SDĐ). 1.1.3. Vai trò của hòa giải tranh chấp đất đai Tại sao tranh chấp đất đai phải hòa giải từ cấp cơ sở? Đây cũng là vấn đề các nhà nghiên cứu luật học đã bàn đến qua nhiều thời kì, có khoảng thời gian trong các văn bản luật không đề cập đến hòa giải là một thủ tục bắt buộc trong giải quyết tranh chấp đất đai. Tuy nhiên, đến nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, nhưng chúng ta phải thừa nhận rằng lợi ích, vai trò của hòa giải tranh chấp đất đai mang lại là vô cùng quan trọng và cấp thiết phải có khi giải quyết tranh chấp đất đai, đi vào cụ thể ta thấy: 15 Thứ nhất, quyền tự định đoạt của các bên trong hòa giải: các bên tranh chấp có thể bày tỏ quan điểm, trao đổi, đàm phán và thảo luận về các giải pháp giải quyết. Hòa giải đem lại cơ hội cho các bên được gặp gỡ trực tiếp để trình bày, giải thích và đưa ra lý do mà mình bất đồng với bên kia, từ đó hai bên hiểu nhau và đi đến thống nhất cách giải quyết. So với cách giải quyết khác như quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay phán quyết của Tòa án thường mang lại cảm giác bị áp đặt thì trong hòa giải các bên không cảm thấy phải chịu áp lực mà họ thấy rằng họ được làm chủ, vì thế họ dễ dàng thống nhất cách giải quyết hơn. Như vậy, hòa giải đặt con người vào vị trí trung tâm, thể hiện đề cao quyền con người, quyền tự định đoạt của công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013. Thứ hai, tiết kiệm thời gian: Khi lựa chọn phương án hòa giải để giải quyết tranh chấp, các bên hoàn toàn chủ động về thời gian, việc giải quyết nhanh chóng hơn rất nhiều so với thủ tục tố tụng. Các bên có thể gặp gỡ để hòa giải vào bất kỳ thời diểm nào (kể cả ngoài giờ hành chính, thứ bẩy, chủ nhật mà không phụ thuộc vào thời giờ làm việc của cơ quan hành chính nhà nước hay tòa án) Thứ ba, chi phí thấp: Khi giải quyết tranh chấp đất đai bằng hòa giải, các bên tiết kiệm và giảm thiểu rất nhiều chi phí. Hiện nay, vụ việc hòa giải ở cơ sở không tính phí, hòa giải viên làm việc trên cơ sở tự nguyện, vì lợi ích xã hội, lợi ích cộng đồng; còn hòa giải thương mại thường tính phí theo giờ, hầu hết các hòa giải viên thương mại làm việc trong một số lĩnh vực khác ngoài công việc hòa giải. Trên thực tế, có những vụ án dân sự, vụ án kinh tế kéo dài nhiều năm, trải qua nhiều lần xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm rồi lại quay trở về xét xử sơ thẩm lại, các đương sự trong vụ án dân sự mệt mỏi với chuyện kiện tụng, bên thắng kiện đôi khi không đủ bù đắp chi phí tố tụng (các đương sự trong vụ án dân sự phải nộp án phí theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan