Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hỗ trợ đầu tư theo luật đầu tư năm 2014...

Tài liệu Hỗ trợ đầu tư theo luật đầu tư năm 2014

.PDF
94
177
81

Mô tả:

MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1 Chương 1: LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ ĐẦU TƯ ...........................................................8 1.1. Khái quát về hỗ trợ đầu tư ................................................................................8 1.2. Quá trình phát triển của pháp luật hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam .........................21 1.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc sử dụng hỗ trợ đầu tư để thu hút vốn đầu tư ..............................................................................................................26 Kết luận chương 1 .....................................................................................................34 Chương 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ HỖ TRỢ ĐẦU TƯ THEO LUẬT ĐẦU TƯ NĂM 2014 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH ĐÓ ................35 2.1. Khái quát các quy định về hỗ trợ đầu tư theo Luật đầu tư năm 2014 và thực tiễn áp dụng các quy định đó .................................................................................35 2.2. Nhận xét, đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam ........................................................................................................57 Kết luận chương 2 .....................................................................................................63 Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ HỖ TRỢ ĐẦU TƯ THEO LUẬT ĐẦU TƯ 2014 VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN HỖ TRỢ ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM .......................................................................................64 3.1. Yêu cầu, định hướng hoàn thiện các quy định hỗ trợ đầu tư và tăng cường thực thi các quy định hỗ trợ đầu tư ........................................................................64 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định về hỗ trợ đầu tư theo Luật đầu tư 2014 ...66 3.3. Kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện hỗ trợ đầu tư ....................................76 Kết luận chương 3 .....................................................................................................79 KẾT LUẬN ...............................................................................................................80 TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................81 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đầu tư là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, trong đó hỗ trợ đầu tư được thiết kế nhằm khuyến khích các nhà đầu tư tiềm năng thực hiện việc đầu tư và khích lệ những người đang đầu tư tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh. Ở Việt Nam, những quy định về hỗ trợ đầu tư được đề cập lần đầu tiên trong Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994, và sau đó tiếp tục được đề cập trong Luật đầu tư 2005 và Luật đầu tư 2014. Trong thời gian qua, các quy định về hỗ trợ đầu tư này đã phần nào góp phần khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài tại Việt Nam, nhưng mặt khác, nhiều hoạt động hỗ trợ đầu tư trên cơ sở quy định pháp luật trong thực tế còn thiếu hiệu quả và lãng phí, chưa thực sự tạo được động lực, huy động các nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Không những vậy, trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới và khu vực ngày càng sâu rộng của Việt Nam hiện nay, các quy định về hỗ trợ đầu tư còn phải phù hợp với các thông lệ quốc tế về thương mại và đầu tư, đồng thời cũng phải tạo ra sức cạnh tranh cho môi trường đầu tư của Việt Nam so với các quốc gia khác. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ đầu tư hiện nay là việc cần thiết, sao cho có thể thông qua đó mà phục vụ sự phát triển và đáp ứng được sự phát triển. Muốn như vậy thì cần phải nghiên cứu kỹ những vấn đề lý thuyết về hỗ trợ đầu tư, hiểu biết cụ thể về pháp luật về hỗ trợ đầu tư hiện hành ở Việt Nam, đánh giá tính hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ đầu tư hiện hành với mục đích phát triển để từ đó đưa ra những góp ý nhằm hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ đầu tư, đáp ứng mục tiêu phát triển và hội nhập của Việt Nam. Với lý do như vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Hỗ trợ đầu tư theo Luật đầu tư năm 2014” là rất cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Các nghiên cứu khoa học trong thời gian qua ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào tập trung nghiên cứu độc lập về chính sách hỗ trợ đầu tư, mà chủ yếu là nghiên cứu chính sách ưu đãi đầu tư hoặc nghiên cứu chung về khuyến khích đầu tư nhưng cũng 1 chỉ đề cập một cách sơ lược về hỗ trợ đầu tư. Các nghiên cứu của các tác giả về lĩnh vực pháp luật đầu tư và khuyến khích đầu tư tập trung vào các vấn đề như: Các nghiên cứu vấn đề hoàn thiện pháp luật cho đầu tư kinh doanh hay xây dựng khung pháp lý cho nền kinh tế thị trường, các nghiên cứu này đề cập đến nhiều khía cạnh tổng thể của pháp luật đầu tư, pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, trong đó hỗ trợ đầu tư chỉ là một trong những khía cạnh và các nghiên cứu này chỉ để cập rất hạn chế và sơ sài về pháp luật hỗ trợ đầu tư, các nghiên cứu này đều không phân tích chi tiết về tính pháp lý và đánh giá việc thực thi đối với các biện pháp hỗ trợ đầu tư. Những nghiên cứu này gồm: Nguyễn Tiến Đông, (1997) Hoàn thiện pháp luật cho đầu tư kinh doanh, một nhiệm vụ cấp bách của hoạt động quản lý nhà nước (tạp chí Quản lý nhà nước, số 3/1997); Đặng Văn Thanh, (2005) Dự thảo Luật Đầu tư: Đảm bảo bình đẳng trong hoạt động đầu tư (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10/2005); Đoàn Trung Kiên (2008), Luật đầu tư năm 2005 – một số vấn đề bất cập (Tạp chí Luật học số 5/2008); Hoàng Phước Hiệp (2009), Xu hướng hài hòa hóa pháp luật về đầu tư trong khuôn khổ ASEAN (tạp chí Luật học số 3/2009); Phạm Thị Sơn (2020), Pháp luật về đầu tư nước ngoài của Việt Nam sau khi gia nhập WTO (tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề 4/2010). Các nghiên cứu về thu hút vốn đầu tư và nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư, trong các nghiên cứu này các tác giả thường đi sâu phân tích các yếu tố để thu hút vốn đầu tư hoặc giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư, trong đó có đề cập đến một số biện pháp hỗ trợ đầu tư được áp dụng ở Việt Nam nhưng chưa đầy đủ và góc độ nghiên cứu thường dưới góc độ quản lý nhà nước chứ không phải dưới góc độ nghiên cứu pháp luật. Các nghiên cứu này gồm: Tào Hữu Phùng (1999), Vốn đầu tư và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư pháp triển nông nghiệp nông thôn (tạp chí Cộng sản, số 1/1999); Dương Quốc Huy (2003), Hoàn thiện thủ tục hành chính trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (luận văn thạc sĩ); Đậu Thị Đức (2009), Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bản Hà Nội (luận văn thạc sĩ); Nguyễn Thế Anh (2010), Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư ở các tỉnh duyên hải miền trung (tập chí Quản lý nhà nước, số 6/2010); Hoàng Thị Bích Loan 2 (2011), Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam (tạp chí Quản lý nhà nước, số 6/2011); Nguyễn Thị Minh Khuê (2011), Điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam sau khi gia nhập WTO (luận văn thạc sĩ); Phan Thị Tố Oanh (2011), Một số vấn đề cần quan tâm trong thu hút đầu tư nước ngoài ở nước ta (tạp chí Quản lý nhà nước, số 8/2011); Phạm Việt Hùng (2013), Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (tạp chí Cộng sản, số 2/2013); Khổng Văn Thắng (2013), Cải cách hành chính – động lực thu hút đầu tư tại tỉnh Bắc Ninh (tạp chí Tổ chức nhà nước, số 6/2013); Đinh Như Hoa (2015), Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh Thái Nguyên (tạp chí Quản lý nhà nước, số 7/2015); Nguyễn Xuân Khôi (2016), Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong điều kiện tái cơ cấu nền kinh tế (tạp chí Thanh tra, số 5/2016); Phạm Thị Ngọc Anh (2016), Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đầu tư và định hướng thu hút nguồn vốn FDI tại Việt Nam (tạp chí Quản lý nhà nước, số 3/2016). Các nghiên cứu về môi trường đầu tư và năng lực cạnh tranh quốc gia của các tác giả hiện nay cũng đề cập đến một số biện pháp hỗ trợ đầu tư nhưng cũng chỉ đề cập đến các biện pháp này dưới góc độ kinh tế, tương ứng với một số yếu tố của môi trường đầu tư và yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh quốc gia trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Các nghiên cứu này đều không đề cấp đến hỗ trợ đầu tư dưới góc độ là một vấn đề pháp lý. Các nghiên cứu trong lĩnh vực này gồm: Nguyễn Thị Dung (1998), Sự cần thiết và phương hướng cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài (tạp chí Luật học, số 3/1998); Bùi Xuân Anh (2011), Môi trường đầu tư và tác động của nó đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tỉnh Hải Dương (luận văn thạc sĩ); Bùi Thúy Tuyết Anh (2014), Hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hải Phòng (luận văn thạc sĩ); Lê Minh Hiền (2006), Năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (luận văn thạc sĩ); Các nghiên cứu về pháp luật khuyến khích đầu tư hiện nay có một số nghiên cứu như: Trần Đình Khánh, (1998) Pháp luật đảm bảo và khuyến khích đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam (luận văn thạc sĩ); Đinh Thanh Tâm, (2005) Pháp luật về bảo hộ và khuyến khích đầu tư tại Việt Nam (luận văn thạc sĩ); Dương 3 Nguyệt Nga, (2009) Pháp luật Việt Nam về các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế (luận án tiến sĩ), những nghiên cứu này khi đề cập đến pháp luật về khuyến khích đầu tư thì đề cập đến cả quy định ưu đãi đầu tư và quy định về hỗ trợ đầu tư, nhưng thường tập trung nghiên cứu kỹ hơn các biện pháp ưu đãi đầu tư, còn hỗ trợ đầu tư hầu như đề cập ở mức độ khái quát, mà không có những nghiên cứu đánh giá hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ đầu tư được áp dụng trong thực tế, do đó, chưa có những đề xuất hoàn thiện các biện pháp hỗ trợ đầu tư sao cho hiệu quả, tránh lãng phí. Ngoài các nghiên cứu này còn có một số nghiên cứu pháp lý khác về lĩnh vực bảo đảm đầu tư nước ngoài với tư cách là một nhân tố để thu hút vốn đầu tư nước ngoài như: Trần Thị Huyền Nga, (1996) Vấn đề bảo đảm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (luận văn thạc sĩ); Trần Thị Ngọc Quyên (2005), Hiệp định ưu đãi và bảo hộ đầu tư (luận văn thạc sĩ). Về tình hình nghiên cứu nước ngoài, do điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau nên hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia có những đặc trưng khác nhau, trên thế giới không phải quốc gia nào cũng có Luật đầu tư, theo thống kê trong báo cáo nghiên cứu về pháp luật đầu tư của một số nước của Bộ Kế hoạch và đầu tư (2014) thì ngoài Việt Nam chỉ có thêm 43 quốc gia khác có Luật đầu tư và 5 quốc gia khác có đạo luật chứa đựng quy định về đầu tư nhưng chỉ quy định về một số hoạt động đầu tư. Năm quốc gia đó gồm Australia, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Thái Lan. Có thể thấy quan điểm và chính sách của mỗi nước về khuyên khích đầu tư và cụ thể là hỗ trợ đầu tư có rất nhiều điểm khác nhau. Vì vậy những nghiên cứu ngoài nước về pháp luật hỗ trợ đầu tư tương ứng như mục đích nghiên cứu của đề tài này là hạn chế. Một số công trình nghiên cứu của học giả nước ngoài về đầu tư và chính sách, pháp luật về đầu tư cũng có đề cập đến vấn đề hỗ trợ đầu tư nhưng dưới góc độ là sự hoạt động hỗ trợ cho nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào một quốc gia khác, hoặc chỉ giới thiệu rất sơ lược về chính sách hỗ trợ đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài, mà cơ bản là có nhiều điểm khác với chính sách và pháp luật hỗ trợ đầu tư hiện được áp dụng ở Việt Nam (đó là những biện pháp hỗ trợ đầu tư mà tạo ra những điều kiện thuận lợi mà tất cả các nhà đầu tư tại một thời điểm, 4 trong một khoảng không gian đều được hưởng như nhau – là một trong những cách thức để khuyến khích, thu hút các nguồn lực đầu tư tại Việt Nam). Như vậy, cho đến nay tình hình nghiên cứu trong nước cũng như ngoài nước chưa cho một nghiên cứu nào nghiên cứu cụ thể, trực tiếp và riêng biệt về pháp luật hỗ trợ đầu tư tại Việt Nam, mà chỉ có những nghiên cứu về pháp luật hỗ trợ đầu tư với tư cách là một bộ phận/một phần nhỏ của nghiên cứu, do đó các nghiên cứu về pháp luật hỗ trợ đầu tư hiện này chưa thực sự đầy đủ, toàn diện và kỹ càng về vấn đề này, hạn chế của các nghiên cứu hiện tại là chưa đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về hỗ trợ đầu tư và phân tích nội hàm của thuật ngữ này, chưa phân tích sự khác biệt của hỗ trợ đầu tư với ưu đãi đầu tư; chưa có những đánh giá về thực tiễn thực hiện các biện pháp hỗ trợ đầu tư, cũng như không có những đánh giá về hiệu quả thực tế của các biện pháp hỗ trợ đầu tư được áp dụng để từ đó đưa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật về hỗ trợ đầu tư sao cho có thể thu hút các nguồn lực đầu tư trong và ngoài nước và tiếp tục tạo động lực cho sự phát triển kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự cạnh tranh toàn cầu hiện nay. Tóm lại, đề tài nghiên cứu của luận văn này là có tính mới và rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn này là nghiên cứu các quy định về hỗ trợ đầu tư theo Luật đầu tư 2014 ở Việt Nam. Các nhiệm vụ cụ thể của luận văn là: - Nghiên cứu lý thuyết về hỗ trợ đầu tư; - Thực trạng pháp luật và đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam; - Rút ra các yêu cầu đối với pháp luật về hỗ trợ đầu tư trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội hiện nay ở Việt Nam; - Các đề xuất để hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Các quy định pháp luật hiện hành về hỗ trợ đầu tư theo Luật Đầu tư 2014 ở Việt Nam; 5 4.2. Phạm vi nghiên cứu Quy định về hỗ trợ đầu tư tại Luật đầu tư 2014, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đầu tư 2014, các văn bản pháp luật chuyên ngành quy định cụ thể các biện pháp hỗ trợ đầu tư theo Luật đầu tư 2014 như: Luật đất đai, Luật giáo dục, Luật khoa học và công nghệ, Luật chuyển giao công nghệ, Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa… Thực tiễn thực hiện các biện pháp hỗ trợ đầu tư theo quy định pháp luật tại Việt Nam, với số liệu cụ thể của việc thực hiện các biện pháp này trong thời gian từ tháng 11/2014 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Luận văn này được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Marx – Lenin bao gồm phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử. - Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng để nghiên cứu luận văn gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh. Các phương pháp này được sử dụng linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng và mục tiêu nghiên cứu. Trong đó, phương pháp so sánh được sử dụng trong quá trình nghiên cứu kinh nghiệm của các nước để ứng dụng vào điều kiện thực tế ở Việt Nam. Phương pháp so sánh được sử dụng trong trường hợp này nhằm bổ sung cho các phương pháp phân tích và tổng hợp khi nghiên cứu kinh nghiệm các nước, có như vậy mới xác định được những ưu điểm và nhược điểm của pháp luật hỗ trợ đầu tư ở các quốc gia thành công có thành tự trong hoạt động hỗ trợ đầu tư. Bên cạnh đó, sử dụng phương pháp so sánh mới có thể xác định được kinh nghiệm nên và không nên được áp dụng tương ứng với các điều kiện thực tế ở Việt Nam. Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng phổ biến trên cơ sở phương pháp luật duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu về hệ thống pháp luật hỗ trợ đầu tư hiện hành ở Việt Nam, xác định mức độ hiệu quả của pháp luật hỗ trợ đầu tư hiện hành đối với tăng trưởng kinh tế - xã hội, rút ra yêu cầu về hoàn thiện pháp luật hỗ trợ đầu tư trong bối cảnh kinh tế - xã hội 6 hiện nay, từ đó nhằm đề xuất hoàn thiện pháp luật hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam trong thời gian tới. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Ý nghĩa lý luận: luận văn đã phân tích và làm rõ khái niệm hỗ trợ đầu tư; phân biệt hỗ trợ đầu tư với ưu đãi đầu tư, và với trợ cấp trong thương mại quốc tế; phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc ban hành và thực thi các quy định pháp luật về hỗ trợ đầu tư; nghiên cứu kinh nghiệm sử dụng các hình thức hỗ trợ đầu tư trong thu hút vốn của một số quốc gia trên thế giới để từ đó rút ra những gợi ý cho Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ đầu tư. - Ý nghĩa thực tiễn: luận văn đã hệ thống hoá các quy định về hỗ trợ đầu tư theo Luật đầu tư 2014, đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về hỗ trợ đầu tư. Trên cơ sở đó đề xuất những phương hướng và giải pháp để hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực thi pháp luật về hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam trong thời gian tới nhằm nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam. 7. Cơ cấu của luận văn Nội dung nghiên cứu đề tài dự kiến gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận về hỗ trợ đầu tư Chương 2: Thực trạng các quy định về hỗ trợ đầu tư theo Luật đầu tư 2014 và thực tiễn áp dụng các quy định đó Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ đầu tư tại Việt Nam 7 Chương 1 LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ ĐẦU TƯ 1.1. Khái quát về hỗ trợ đầu tư Đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, nguồn vốn là động lực quan trọng của sự phát triển, do đó, thu hút vốn đầu tư chính là cách thức tạo ra động lực để tăng trưởng kinh tế, cũng như đảm bảo các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội khác. Để thu hút vốn đầu tư, mỗi quốc gia đều thiết lập hệ thống chính sách phù hợp với điều kiện riêng của mình. Các chính sách thu hút vốn thường bao gồm bảo đảm đầu tư và khuyến khích đầu tư. Trong đó, khuyến khích đầu tư có thể được phân chia thành ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư. Ở Việt Nam, thuật ngữ hỗ trợ đầu tư được nhắc tới lần đầu trong Luật khuyến khích đầu tư trong nước 1994, sau đó tiếp tục được đề cập trong Luật đầu tư 2005 và Luật đầu tư 2014, tuy nhiên trong các văn bản này đều chưa đưa ra khái niệm về hỗ trợ đầu tư. Bên cạnh đó, các nghiên cứu khoa học trong thời gian qua ở Việt Nam cũng chưa có nghiên cứu nào tập trung nghiên cứu về pháp luật hỗ trợ đầu tư, mà chủ yếu là nghiên cứu chính sách ưu đãi đầu tư hoặc nghiên cứu chung về khuyến khích đầu tư nhưng cũng chỉ đề cập một cách sơ lược về hỗ trợ đầu tư, do đó, khái niệm về hỗ trợ đầu tư hiện vẫn chưa được làm rõ và phân tích đầy đủ. Trong khi đó, hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư ở Việt Nam bao gồm cả hỗ trợ đầu tư và ưu đãi đầu tư nên việc xác định rõ khái niệm và nội hàm của thuật ngữ hỗ trợ đầu tư là rất cần thiết cho việc nghiên cứu về chính sách này. Trong nội dung phần này của luận văn sẽ phân tích, làm rõ khái niệm hỗ trợ đầu tư và các vấn đề liên quan đến hỗ trợ đầu tư. 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hỗ trợ đầu tư Trong các cuốn từ điển tiếng Việt hiện nay, bao gồm cả từ điển ngôn ngữ và các từ điển chuyên ngành pháp lý hay chuyên ngành kinh tế đều chưa giải thích trực tiếp thuật ngữ “hỗ trợ đầu tư”, mà chỉ có giải thích đơn lẻ từ “hỗ trợ” và từ “đầu tư”. Cụ thể như hỗ trợ được giải thích là “giúp nhau” [52, tr.385]; hoặc hỗ trợ là “giúp đỡ lẫn nhau, giúp đỡ thêm vào” [137, tr.592], trong đó giúp hay giúp đỡ được hiểu 8 là làm giảm bớt khó khăn để người được giúp thực hiện được công việc nào đó [137, tr.527]. Còn đầu tư được hiểu là “bỏ nhân lực, vật lực, tài lực vào công việc gì, trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế, xã hội” [137, tr.394]; hoặc đầu tư là “việc bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh của cá nhân hay tổ chức…” [71, tr.233]; hoặc đầu tư là “việc bỏ vốn ra mua sắm tư liệu sản xuất để xây dựng mới, cải tạo hoặc mở rộng xí nghiệp hoặc bỏ vốn ra cho vay dài hạn…” [134, tr.137]; hay đầu tư gồm đầu tư tài chính và đầu tư hiện vật, mà đầu tư tài chính là việc chi tiêu để mua các chứng khoán tài chính, còn đầu tư hiện vật là chi tiêu để mua sắm tài sản cố định hay hàng tồn kho [79, tr.126]. Nhìn chung, các tài liệu này dù diễn đạt khác nhau nhưng đều giải thích tương tự nhau về hai thuật ngữ “hỗ trợ” và “đầu tư”, trong đó cách giải thích nghĩa của từ “đầu tư” cũng tương ứng như cách giải thích thuật ngữ “đầu tư kinh doanh” trong Điều 3 khoản 5 của Luật đầu tư 2014, đó là “việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư”. Từ cách giải nghĩa từ ngữ, bước đầu có thể hiểu hỗ trợ đầu tư là việc nhà đầu tư nhận được sự giúp đỡ nhằm làm giảm bớt những khó khăn trong quá trình họ bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh vì mục đích lợi nhuận. Nhưng để xác định chính xác nội hàm của thuật ngữ này thì cần phải xem xét thêm các kết quả nghiên cứu trước đây có liên quan gần gũi với đề tài về hỗ trợ đầu tư của các tác giả khác, cũng như xem xét các hình thức hỗ trợ đầu tư theo quy định của Luật đầu tư 2014. Như đã giới thiệu ở trên, cho đến hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước về các chính sách thu hút đầu tư, về pháp luật bảo đảm và khuyến khích đầu tư, và cũng có đề tài nghiên cứu về ưu đãi đầu tư. Phần lớn các công trình nghiên cứu này chỉ đưa ra các khái niệm như: khuyến khích đầu tư; chính sách ưu đãi, khuyến khích về đầu tư; chính sách hỗ trợ đầu tư. Cụ thể như sau: Theo tác giả Trần Đình Khánh, khuyến khích đầu tư là “sự ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi hơn của nước chủ nhà cho nhà đầu tư nước ngoài so với các nhà đầu 9 tư trong nước hoặc chính với các đầu tư nước ngoài ở một số lĩnh vực và địa bàn đầu tư” [68, tr.19]. Trong khi đó, tác giả Đinh Thanh Tâm lại cho rằng khuyến khích đầu tư “là việc nhà nước miễn hoặc giảm nhẹ nghĩa vụ của các nhà đầu tư đối với nhà nước nhằm giảm bớt gánh nặng cho các nhà đầu tư như việc giảm thuế, tiền thuê đất… đồng thời ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong một số lĩnh vực và địa bàn đầu tư” [104, tr.13]. Về chính sách ưu đãi, khuyến khích về đầu tư, tác giả Nguyễn Thị Minh Khuê đã xác định đó là việc “Nhà nước ban hành các quy định nhằm tạo điều kiện hoặc tạo ra những lợi ích nhất định cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài khi tiến hành đầu tư vào nền kinh tế, trên cơ sở kết hợp hài hoà giữa lợi ích của Nhà nước, của nền kinh tế xã hội và của nhà đầu tư” [70, tr.8]. Và chính sách hỗ trợ đầu tư thì được giải thích là những hoạt động giúp cho nhà đầu tư triển khai dự án sau khi đã quyết định đầu tư theo như tác giả Trương Quang Dũng [51, tr.9]. Tác giả này còn khẳng định chính sách hỗ trợ đầu tư là các hoạt động cần thiết và tiếp theo của các bước: quảng bá hình ảnh địa phương và chính sách xúc tiến thu hút đầu tư. Có thể thấy những khái niệm này chưa giúp chúng ta xác định cụ thể hỗ trợ đầu tư là gì, khác biệt như thế nào với ưu đãi đầu tư và các chính sách đầu tư khác. Tuy nhiên, tất cả các tác giả đều thống nhất rằng chủ thể thực hiện các chính sách khuyến khích đầu tư, hay chính sách ưu đãi đầu tư và chính sách hỗ trợ đầu tư chính là Nhà nước (tức là Nhà nước là chủ thể đem lại những ưu đãi hay hỗ trợ) và đối tượng thụ hưởng thụ những ưu đãi và hỗ trợ đó chính là nhà đầu tư. Ngoài ra, trong một nghiên cứu của tác giả Dương Nguyệt Nga, cũng về các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư, tác giả đã đề cập cụ thể đến hai khái niệm ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư với tư cách là hai hình thức khuyến khích đầu tư. Cụ thể, theo tác giả Dương Nguyệt Nga, “ưu đãi đầu tư là biện pháp được Nhà nước sử dụng để thu hút đầu tư, hướng các dự án đầu tư vào các ngành hoặc khu vực cần thiết” và “các ưu đãi này có thể bao gồm bất kỳ lợi thế kinh tế nào có thể đo được, được dành cho các doanh nghiệp hoặc các loại hình doanh nghiệp cụ thể bởi 10 Chính phủ nhằm khuyến khích các doanh nghiệp ứng xử theo một cách nhất định. Các ưu đãi này bao gồm các biện pháp được thiết kế để tăng tỷ lệ thu hồi vốn của một dự án đầu tư cụ thể, hoặc giảm bớt hay phân bổ lại các chi phí hoặc các rủi ro của dự án đó” [76, tr.16]. Cũng tác giả Dương Nguyệt Nga đã chỉ ra “hỗ trợ đầu tư là những biện pháp tích cực chủ động về phía Nhà nước nhằm giúp đỡ các nhà đầu tư, các doanh nghiệp. Các biện pháp này thường được áp dụng trong trường hợp xảy ra những khó khăn, những bất lợi, những rủi ro đối với nhà đầu tư trong những dự án, những lĩnh vực, những địa bàn mà Chính phủ rất khuyến khích đầu tư” [76, tr.18]. Về cơ bản, công trình nghiên cứu của tác giả này chưa có những phân tích làm rõ nội hàm của cả hai thuật ngữ ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư, sự khác biệt giữa hai khái niệm này cũng không được làm rõ. Do vậy, khái niệm về thuật ngữ hỗ trợ đầu tư ở nghiên cứu này đưa ra chưa thuyết phục. Các tài liệu nước ngoài (tiếng Anh) thường sử dụng cụm từ “investment incentives” để nói đến các chính sách thu hút vốn đầu tư, trong đó tuỳ vào chính sách mỗi quốc gia mà khuyến khích đầu tư (investment incentives) được cấu thành bởi trợ cấp đầu tư (investment grants) và các giảm thuế thu nhập doanh nghiệp (corporate income tax credits) hoặc là cấu thành bởi ba thành phần là các khuyến khích tài chính (financial incentives) như hỗ trợ về vốn hoặc hỗ trợ các khoản vay; khuyến khích về thuế (fiscal incentives) và các khuyến khích khác như trợ cấp về cơ sở hạ tầng, các ưu tiên về thị trường và các quy định khác; hay khuyến khích đầu tư lại gồm tài trợ định kỳ (investment allowances), hoàn thuế (tax credit) và trợ cấp đầu tư (investment grants). Trong đó, trợ cấp đầu tư (investment grants) thường được hiểu là khoản tài trợ của chính phủ để giúp các doanh nghiệp đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị mới hoặc cả xây dựng nhà xưởng. Nhìn chung, các thuật ngữ liên quan đến khuyến khích đầu tư mà pháp luật nước ngoài và các nghiên cứu nước ngoài nhắc đến không hoàn toàn tương ứng với cách xác lập và phân định thành phần trong chính sách khuyến khích đầu tư ở Việt Nam. Do vậy, để đi đến xác định chính xác về khái niệm hỗ trợ đầu tư trong chính sách khuyến khích đầu tư ở Việt Nam thì cần phải tiếp cận thêm về thuật ngữ này ở 11 góc độ pháp lý, tức là cần xem xét các quy định về hỗ trợ đầu tư trong các đạo luật về đầu tư ở Việt Nam. Thuật ngữ hỗ trợ đầu tư đã được đề cập lần đầu trong Luật khuyến khích đầu tư trong nước 1994, sau đó tiếp tục được quy định tại Luật đầu tư 2005 và Luật đầu tư 2014, nhìn chung các hình thức hỗ trợ đầu tư được quy định tại ba đạo luật này có tính kế thừa nhau, do vậy chỉ cần tập trung xem xét quy định trong đạo luật hiện hành là Luật đầu tư 2014. Tại Điều 19 của Luật đầu tư 2014 có quy định về bảy hình thức hỗ trợ đầu tư, bao gồm: (1) Hỗ trợ phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong và ngoài hàng rào dự án; (2) Hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; (3) Hỗ trợ tín dụng; (4) Hỗ trợ tiếp cận mặt bằng sản xuất, kinh doanh; hỗ trợ di dời cơ sở sản xuất ra khỏi nội thành, nội thị; (5) Hỗ trợ khoa học, kỹ thuật, chuyển giao công nghệ; (6) Hỗ trợ phát triển thị trường, cung cấp thông tin; (7) Hỗ trợ nghiên cứu và phát triển. Như vậy, hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam gồm nhiều hình thức đa dạng nhưng các hình thức này có các điểm chung là: chúng đều được thiết kế để giúp các nhà đầu tư tháo gỡ những khó khăn trong việc tiếp cận một yếu tố nào đó cần thiết cho hoạt động sản xuất, kinh doanh (như tiếp cận vốn, tiếp cận mặt bằng sản xuất, tiếp cận nguồn lao động phù hợp, tiếp cận công nghệ, tiếp cận thị trường…); tiếp theo là chúng đồng thời cũng giúp làm giảm thiểu chi phí đầu tư khi các nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư; và cuối cùng Nhà nước có thể huy động nhiều nguồn lực khác chứ không chỉ sử dụng mỗi nguồn ngân sách nhà nước để thực hiện các hình thức hỗ trợ đầu tư này. Nhìn chung, các hình thức hỗ trợ đầu tư theo Luật đầu tư tương ứng với các chính sách đầu tư công để phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật – xã hội; phát triển giáo dục, đào tạo; phát triển khoa học, công nghệ; phù hợp với pháp luật về đất đai, về sở hữu trí tuệ và các lĩnh vực pháp luật liên quan khác. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 19 Luật đầu tư 2014 còn quy định: “Chính phủ quy định chi tiết các hình thức hỗ trợ đầu tư quy định tại khoản 1 Điều này đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, tổ chức khoa học và công nghệ, doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp đầu tư vào giáo dục, phổ biến pháp luật…”, điều đó cho 12 thấy, về nguyên tắc thì các hình thức hỗ trợ đầu tư theo Luật đầu tư có thể được cung cấp như nhau cho tất cả các nhà đầu tư, nhưng cũng có những trường hợp cần thu hút vốn đầu tư trong khi nhà đầu tư đó có khó khăn hơn thông thường thì Chính phủ được chỉ định ban hành quy định cụ thể về các hình thức hỗ trợ đầu tư để dành riêng cho những loại dự án đầu tư cần khuyến khích đó. Việc phân tích cụ thể về các hình thức hỗ trợ đầu tư theo Luật đầu tư 2014 sẽ được trình bày trong chương 2 của luận văn này, nhưng ở đây sẽ phân tích khái quát về hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và hỗ trợ tín dụng để chứng minh cho nhận xét chung đã nêu trên về hỗ trợ đầu tư theo Luật đầu tư 2014. Trước hết là hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, có thể nói Nhà nước đã cung cấp sự hỗ trợ này một cách công bằng như nhau giữa các nhà đầu tư thông qua việc thực hiện chính sách phát triển giáo dục, đào tạo. Hình thức hỗ trợ này giúp tháo gỡ khó khăn cho các nhà đầu tư trong tiếp cận nguồn nhân lực đủ trình độ. Mặt khác, hình thức này còn giúp các nhà đầu tư giảm thiểu được chi phí do không phải bỏ nhiều chi phí để đào tạo lao động. Tuy nhiên, bên cạnh việc thực hiện chính sách phát triển giáo dục, đào tạo chung, Chính phủ còn đặt ra những quy định về hỗ trợ đào tạo riêng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Lý do của những hỗ trợ riêng này là vì doanh nghiệp nhỏ và vừa thường gặp nhiều khó khăn hơn các doanh nghiệp quy mô lớn trong việc tiếp cận, thụ hưởng các hỗ trợ chung, vì vậy cần dành hỗ trợ nhiều hơn cho nhóm này. Trong trường hợp này sự hỗ trợ về đào tạo còn có thêm ý nghĩa là giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng cường năng lực quản lý và khả năng cạnh tranh trong kinh doanh. Thứ hai là về hình thức hỗ trợ tín dụng, hình thức hỗ trợ này hiện đang được dành riêng cho một số nhóm đối tượng đặc biệt như các dự án đầu tư trong nước có quy mô nhỏ và vừa (doanh nghiệp nhỏ và vừa); các dự án đầu tư vào nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, dự án phát triển khoa học, công nghệ... điều này là do nguồn lực luôn khan hiếm nên không thể hỗ trợ tín dụng cho tất cả các trường hợp, mà chỉ hỗ trợ cho 1 số trường hợp cần khuyến khích và có khó khăn thực sự về vốn. Từ lý do đó mà cần phải nhìn nhận việc chỉ một số đối tượng được hưởng hỗ trợ tín dụng không có nghĩa là cần có điều kiện để được hưởng hỗ trợ đầu tư mà phải hiểu đó là những tiêu chí để xác định nhà đầu tư nào thực sự gặp khó khăn về vốn hoặc gặp những khó khăn liên quan đến chi phí về sử dụng vốn, bởi vì 13 cần nhớ rằng hỗ trợ nghĩa là giúp tháo gỡ khó khăn, nên ai và ở đâu gặp khó khăn nhiều hơn thì được hỗ trợ nhiều hơn. Tóm lại, theo cách tiếp cận của Luật đầu tư hiện nay thì hỗ trợ đầu tư có mục đích là nhằm giúp tháo gỡ hay loại bỏ bớt những khó khăn cho các nhà đầu tư, với đặc điểm ai khó khăn hơn thì được hỗ trợ nhiều hơn. Từ những phân tích ở trên có thể kết luận rằng hỗ trợ đầu tư là việc Nhà nước thực hiện những biện pháp làm giảm bớt những khó khăn cũng như giúp giảm thiểu chi phí trong quá trình đầu tư để khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư kinh doanh. Nhà nước có thể huy động và sử dụng nhiều nguồn tài chính khác nhau để thực hiện hỗ trợ đầu tư trên cơ sở ai và ở đâu khó khăn hơn thì được hỗ trợ nhiều hơn. Bên cạnh đó, có thể rút ra một số đặc điểm của hỗ trợ đầu tư như sau: Thứ nhất, hỗ trợ đầu tư hấp dẫn các nhà đầu tư vì nó giúp làm giảm bớt những khó khăn của nhà đầu tư khi lựa chọn đầu tư, đồng thời còn giúp làm giảm chi phí đầu tư cho các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện đầu tư. Ngoài ra, một số hình thức hỗ trợ đầu tư có thể giúp nâng cao năng lực và khả năng cạnh tranh của các dự án đầu tư. Thứ hai, nguồn lực tài chính để thực hiện hỗ trợ đầu tư có thể được huy động từ nhiều nguồn khác nhau, nguồn lực tài chính đó có thể là từ ngân sách nhà nước (các khoản thuế, phí hoặc vốn vay của ngân sách nhà nước), hoặc vốn huy động từ các khu vực kinh tế tư nhân trong nước và nước ngoài khác. Thứ ba, mức hỗ trợ đầu tư có thể khác nhau giữa các địa bàn đầu tư, khác nhau giữa các lĩnh vực đầu tư, bởi vì lĩnh vực và địa bàn nào khó khăn hơn, cũng như được khuyến khích hơn thì Nhà nước sẽ hỗ trợ nhiều hơn. Mặt khác, xuất phát từ đặc điểm thứ 2 ở trên mà có những địa phương thu hút được nhiều nguồn vốn để thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư hơn thì mức hỗ trợ đầu tư có thể nhiều hơn so với các địa phương khác. Thứ tư, hỗ trợ đầu tư không có mục đích tạo ra ưu thế hơn cho các nhà đầu tư mà chỉ nhằm bù đắp cho những khó khăn mà nhà đầu tư gặp trong quá trình đầu tư, như vậy, lĩnh vực đầu tư, địa bàn đầu tư hay quy mô của doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư không phải là điều kiện để được hưởng hỗ trợ đầu tư mà đó là những tiêu chí để xác định đối tượng nào khó khăn sẽ được nhận hỗ trợ đầu tư. 14 Để hiểu rõ và nhận diện rõ ràng và chính xác hơn về hỗ trợ đầu tư, phần sau đây của luận văn sẽ phân tích sự khác biệt giữa hỗ trợ đầu tư với các thuật ngữ như ưu đãi đầu tư và trợ cấp trong thương mại quốc tế. 1.1.2. Phân biệt hỗ trợ đầu tư với ưu đãi đầu tư và trợ cấp trong thương mại quốc tế 1.1.2.1. Phân biệt hỗ trợ đầu tư với ưu đãi đầu tư Ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đều là các biện pháp được dùng nhằm khuyến khích, thu hút vốn đầu tư tại Việt Nam, tuy vậy hai biện pháp khuyến khích đầu tư này có nhiều điểm khác nhau, cụ thể như sau: Điểm khác biệt thứ nhất là ở nguồn lực tài chính được sử dụng để thực hiện hai biện pháp khuyến khích đầu tư này. Do ưu đãi đầu tư được quy định gồm các hình thức miễn giảm thuế, miễn giảm tiền thuê đất hoặc tiền sử dụng đất nên nguồn lực tài chính để thực hiện các hình thức ưu đãi đầu tư chỉ là từ nguồn ngân sách nhà nước, mà cụ thể là từ chính nguồn thu thuế (thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất khẩu, nhập khẩu và thuế sử dụng đất) và tiền sử dụng đất, tiền thuê đất. Trong khi đó, nguồn lực tài chính để thực hiện các hình thức hỗ trợ rất đa dạng, gồm nguồn tài chính từ các khoản thu ngân sách nhà nước và các nguồn vốn thu hút được từ các cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài khác. Điểm khác biệt thứ hai là ở tích chất của chính các biện pháp khuyến khích đầu tư này. Ưu đãi đầu tư là biện pháp mà Nhà nước dành cho các nhà đầu tư đủ điều kiện được hưởng quyền lợi đặc biệt hơn so với những nhà đầu tư khác. Còn hỗ trợ đầu tư không nhằm tạo ra lợi thế đặc biệt cho các nhà đầu tư hơn những người khác, mà đó là hoạt động để giúp các nhà đầu tư đó tháo gỡ khó khăn khi đầu tư. Điểm khác biệt thứ ba là sự giới hạn đối tượng được hưởng các biện pháp khuyến khích đầu tư này. Vì Nhà nước đặt ra các điều kiện để được hưởng ưu đãi nên không phải mọi nhà đầu tư đều được hưởng ưu đãi đầu tư, mà đối tượng hưởng ưu đãi bị giới hạn trong phạm vi được xác định trên cơ sở điều kiện ưu đãi đầu tư theo quy định pháp luật. Trong khi đó, hỗ trợ đầu tư chung (của Việt Nam) được dành cho tất cả các nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư (trong lãnh thổ Việt Nam, nói 15 cách khác, mọi nhà đầu tư đều được nhận sự hỗ trợ đầu tư. Ngoài ra, vì lý do cần khuyến khích đầu tư vào một lĩnh vực hay địa bàn nhất định thì có những nhà đầu tư sẽ được hỗ trợ nhiều hơn mức hỗ trợ thông thường dành cho mọi nhà đầu tư. 1.1.2.2. Phân biệt hỗ trợ đầu tư với trợ cấp trong thương mại quốc tế Trong quan hệ thương mại quốc tế, việc Nhà nước “trợ cấp” cho các chủ thể kinh doanh của quốc gia mình là một việc thường xảy ra. Tuy nhiên, có những trợ cấp bị cấm và có những trợ cấp không bị cấm. Trong khi đó, thuật ngữ “hỗ trợ” và “trợ cấp” có ngữ nghĩa tương đương với nhau, vậy cần phải phân biệt hỗ trợ đầu tư với trợ cấp trong thương mại quốc tế để giúp hoàn thiện chính sách hỗ trợ đầu tư nói riêng và chính sách khuyến khích đầu tư nói chung sao cho đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, tránh những những vi phạm vì thế quốc gia phải chịu những bất lợi trên thị trường quốc tế. Thêm vào đó, phân tích sự khác biệt của hai thuật ngữ này còn giúp nhận thức chính xác hơn về hỗ trợ đầu tư. Điều 1 Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng xác định rằng trợ cấp trong thương mại quốc tế được hiểu là sự đóng góp về tài chính của chính phủ hoặc của một cơ quan công cộng trên lãnh thổ của một thành viên hoặc là bất kỳ một hình thức hỗ trợ thu nhập hoặc trợ giá nào theo nội dung của Điều 16 Hiệp định chung về Thương mại và Dịch vụ 1994, mà từ đó tạo ra một lợi ích cho tổ chức hoặc cá nhân nào đó [145, tr.1]. Trong đó, sự đóng góp về tài chính của chính phủ hoặc của một cơ quan công cộng có thể là một trong những trường hợp sau: một là, chính phủ thực tế có chuyển trực tiếp các khoản vốn (như cấp phát, cho vay, hay góp cổ phần), có khả năng chuyển hoặc nhận nợ trực tiếp (như bảo lãnh tiền vay); hai là, các khoản thu phải nộp cho chính phủ đã được bỏ qua hay không thu (như miễn thuế, giảm thuế); ba là, chính phủ cung cấp hàng hoá hay dịch vụ không phải là hạ tầng cơ sở chung, hoặc mua hàng; bốn là, chính phủ góp tiền vào một cơ chế tài trợ, hay giao hoặc lệnh cho một tổ chức tư nhân thực thi một hay nhiều chức năng đã nêu trên đây, là những chức năng thông thường được trao cho chính phủ và công việc của tổ chức tư nhân này trong thực tế không khác với những hoạt động thông thường của chính phủ [145, tr.1]. Theo khái niệm trợ cấp trong thương mại 16 quốc tế đó, thì tất cả các hình thức ưu đãi đầu tư và một hình thức hỗ trợ đầu tư theo pháp luật Việt Nam hiện nay (là hỗ trợ tín dụng) được coi là trợ cấp trong thương mại quốc tế. Các quốc gia tham gia vào thương mại quốc tế ngày nay đều thực hiện trợ cấp cho các chủ thể kinh doanh của mình nhằm bảo vệ sản xuất trong nước hoặc nhằm duy trì và phát triển một ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh nào đó, hoặc thúc đẩy sự phát triển của một địa phương. Nhìn chung, các trợ cấp trong thương mại quốc tế là được phép thực hiện nếu như sự trợ cấp đó là trợ cấp chung, không phân biệt hay hạn chế đối tượng cụ thể được hưởng trợ cấp. Còn đối với những biện pháp trợ cấp được áp dụng riêng cho một doanh nghiệp hay một nhóm các doanh nghiệp nhất định thì sẽ bị cấm. Tóm lại, phần phân tích này đưa đến gợi ý về việc hoàn thiện pháp luật hỗ trợ đầu tư trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là cần phải lưu ý phát triển các hình thức hỗ trợ tín dụng sao cho vừa đáp ứng được mục đích khuyến khích đầu tư nhưng lại không bị xem là loại trợ cấp bị cấm hoặc là loại trợ cấp bị hạn chế trong thương mại quốc tế, đồng thời tránh việc đưa ra thêm các hình thức hỗ trợ mới mà bị coi là trợ cấp bị cấm hoặc bị hạn chế. 1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xác lập và thực hiện các hình thức hỗ trợ đầu tư Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến việc xác lập và thực hiện các biện pháp hỗ trợ đầu tư cũng là điều cần thiết bởi trên cơ sở đó sẽ giúp nhận định đúng về thực trạng pháp luật, cũng như thực tiễn thực hiện pháp luật về hỗ trợ đầu tư, xác định chính xác nguyên nhân của các bất cập, hạn chế của pháp luật hiện hành, từ đó đưa ra được các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và việc thực hiện pháp luật về hỗ trợ đầu tư. Từ những kết quả nghiên cứu trên đây, có thể thấy việc xác lập và thực hiện các biện pháp hỗ trợ đầu tư chịu ảnh hưởng của các yếu tố như: quan điểm phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, nguồn lực tài chính và khả năng thu hút nguồn lực tài chính để thực hiện hỗ trợ đầu tư, sự phù hợp của các hình thức hỗ trợ đầu tư với yêu cầu thực tế, các cam kết trong quan hệ thương mại quốc tế… 17 1.1.3.1. Quan điểm phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước Quan điểm phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước là một yếu tố có ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng pháp luật bởi pháp luật là công cụ để thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, là công cụ để thực hiện quản lý xã hội của Nhà nước. Do đó, nếu Đảng và Nhà nước có nhận định đúng đắn về tình hình kinh tế - xã hội, từ đó có chủ trương, quan điểm phù hợp với đòi hỏi thực tiễn thì pháp luật kinh tế nói chung và pháp luật về hỗ trợ đầu tư nói riêng cũng sẽ được xây dựng và thực hiện đáp ứng đúng yêu cầu của đời sống kinh tế - xã hội và phát huy hiệu lực, hiệu quả. Ngược lại, nếu quan điểm định hướng của Đảng và Nhà nước không bao quát và theo kịp yêu cầu thực tế thì pháp luật kinh tế và cụ thể là pháp luật về hỗ trợ đầu tư cũng sẽ nảy sinh nhiều bất hợp lý và không thể tạo ra hiệu quả thu hút vốn đầu tư. Thực tế xây dựng và thực hiện pháp luật đầu tư và hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam từ năm 1977 đến nay cho thấy pháp luật đầu tư và hỗ trợ đầu tư đã đáp ứng và thực hiện được khá đầy đủ các quan điểm phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. Quan điểm định hướng phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay được ghi nhận trong Nghị quyết trung ương lần thứ 12 khoá XI (tháng 10 năm 2015) là: “… tiếp tục hỗ trợ, tạo điều kiện để khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn. Rà soát, bổ sung chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, và khởi sự doanh nghiệp”. Và quan điểm này phần nào đã được biểu hiện ở những quy định về hỗ trợ đầu tư trong Luật đầu tư 2014. Tuy vậy, trong thời gian tới, những quy định này vẫn cần tiếp tục hoàn thiện để thực sự quán triệt quan điểm đã được xác định nêu trên. 1.1.3.2. Nguồn lực tài chính và khả năng thu hút nguồn lực tài chính thực hiện hỗ trợ đầu tư Mọi hoạt động nhằm tháo gỡ khó khăn cho các nhà đầu tư trong quá trình đầu tư đều đòi hỏi Nhà nước phải chi phí những khoản lớn, từ hoạt động đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật – xã hội, đầu tư cho giáo dục, đào tạo, đầu tư nghiên cứu phát triển, chi phí để cung cấp thông tin pháp lý, thông tin thị trường, trợ giúp 18 doanh nghiệp phát triển thị trường, đến hỗ trợ tài chính, tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc có đủ nguồn lực tài chính cho việc hỗ trợ đầu tư là rất quan trọng. Nếu nguồn lực tài chính dành cho việc thực hiện các biện pháp hỗ trợ đầu tư là thấp, thì Nhà nước sẽ phải lựa chọn chỉ hỗ trợ một số yếu tố hoặc Nhà nước sẽ phải chọn hỗ trợ dàn trải cho tất cả các yếu tố. Dù chọn thực hiện phương án hỗ trợ nào thì đều không đem lại hiệu quả thu hút vốn đầu tư mà ngược lại còn gây lãng phí, thiệt hại cho ngân sách nhà nước. Theo phân tích ở phần đặc điểm của hỗ trợ đầu tư trong mục 1.1.1. thì ngoài ngân sách nhà nước, Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước các cấp còn có thể kêu gọi các nguồn lực tài chính của khu vực kinh tế tư nhân, tư bản nước ngoài để thực hiện các hỗ trợ đầu tư mà mình khởi xướng. Như vậy, khả năng thu hút tài chính từ nhiều nguồn khác nhau của các cơ quan nhà nước cũng là nhân tố ảnh hưởng rất nhiều đến việc thực hiện các biện pháp hỗ trợ đầu tư. Một Nhà nước càng có khả năng cao trong việc thu hút nguồn lực tài chính thì càng tạo ra được sự thành công trong việc hỗ trợ đầu tư. Khả năng thu hút này lại đến từ nhiều yếu tố như việc sử dụng các biện pháp phù hợp để thu hút nguồn lực, hiệu lực và hiệu quả điều hành quản lý xã hội của các cơ quan quản lý nhà nước… 1.1.3.3. Năng lực và ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức thực thi pháp luật hỗ trợ đầu tư Năng lực của cán bộ, công chức thực thi các quy định pháp luật về hỗ trợ đầu tư chính là nhân tố con người của quá trình thực thi pháp luật này, nhân tố con người luôn là yếu tố có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả thực hiện pháp luật bởi vì nó là nhân tố có tính chất kết nối, biến mong đợi thành hiện thực, biến lý thuyết thành thực tế. Có thể nói, hiệu quả thực tế của các biện pháp hỗ trợ đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào cách thức mà nó được triển khai. Năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức bao gồm trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực quản lý, ý thức trách nhiệm và đạo đức của họ. Những cán bộ, công chức ở đây có thể là người ra quyết định (như quyết định duyệt khoản hỗ trợ tín dụng, quyết định đầu tư xây dựng một công trình hạ tầng kỹ thuật…) và số còn lại là cán bộ tham 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan