Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hình tượng tác giả trong tiểu thuyết của nguyễn xuân khánh luận văn thạc sĩ ngữ ...

Tài liệu Hình tượng tác giả trong tiểu thuyết của nguyễn xuân khánh luận văn thạc sĩ ngữ văn

.DOC
129
316
72

Mô tả:

1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH THÁI BÁ THANH HÌNH TƯỢNG TÁC GIẢ TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGHỆ AN – 2012 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 2 TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH THÁI BÁ THANH HÌNH TƯỢNG TÁC GIẢ TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HOA BẰNG NGHỆ AN - 2012 3 LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu, với sự giúp đỡ của Thầy Cô, người thân và bạn bè, đồng nghiệp, luận văn của chúng tôi đã hoàn thành. Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Nguyễn Hoa Bằng, người Thầy cũ khi tôi là Sinh viên Đại học Cần Thơ những năm 1989 – 1993, nay lại trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy giáo, Cô giáo Khoa Ngữ văn Trường Đại học Vinh đã giảng dạy, nâng cao kiến thức để chúng tôi có thể hoàn thành luận văn theo yêu cầu của một công trình khoa học. Xin cảm ơn Trường Đại học Đồng Tháp đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Xin chân thành cảm ơn người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên giúp đỡ để tôi nghiên cứu, học tập và hoàn thành luận văn đúng thời hạn. Nghệ An, tháng 10 năm 2012 Tác giả Thái Bá Thanh MỤC LỤC trang 4 MỞ ĐẦU ……………………………………………………..... 1 1. Lí do chọn đề tài ……………………………………………..... 1 2. Lịch sử vấn đề ………………………………………………..... 3 2.1. Những công trình nghiên cứu về Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa ………………………………………... 2.2. 3 Những công trình liên quan gần với đề tài Hình tượng tác giả trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh …………………….. 9 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ……………………………. 11 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu …………………………… 11 5. Phương pháp nghiên cứu …………………………………….. 11 6. Đóng góp và cấu trúc của luận văn ………………………….. Chương 1 : HÌNH TƯỢNG TÁC GIẢ 12 1.1 VÀ TÁC GIẢ NGUYỄN XUÂN KHÁNH ………….. 13 Hình tượng tác giả …………………………………………..... 13 1.1.1. Tác giả văn học ………………………………………………… 13 1.1.2. Hình tượng tác giả ……………………………………………… 15 1.1.3. Các phương diện nghiên cứu hình tượng tác giả ……………..... 1.2. 19 Tác giả Nguyễn Xuân Khánh ………………………………… 25 1.2.1. Vài nét về cuộc đời ……………………………………………... 25 1.2.2. Hành trình sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh …………………. 27 Chương 2 : HÌNH TƯỢNG TÁC GIẢ 2.1. THỂ HIỆN QUA CÁI NHÌN NGHỆ THUẬT ……… 46 Cái nhìn lịch sử như một dòng chảy liên tục của văn hóa ...... 46 2.1.1. Lịch sử dân tộc là lịch sử của một nền văn hóa có bản sắc riêng …………………………………………………………….. 47 2.1.2. Đặt trọng tâm cái nhìn vào các sự kiện bộc lộ bản sắc văn hóa ... 55 2.1.3. Lấy tiêu chí văn hóa để đánh giá các sự kiện lịch sử …………... 69 2.2. Cái nhìn dân chủ, khách quan về con người và lịch sử …….. 73 2.2.1. Lịch sử thuộc về quần chúng nhân dân ………………………… 73 5 2.2.2. Cái nhìn khách quan về con người ……………………………... 75 2.2.3. Cái nhìn khách quan về một số giai đoạn lịch sử ………………. 79 Chương 3 : HÌNH TƯỢNG TÁC GIẢ 3.1. THỂ HIỆN QUA GIỌNG ĐIỆU VÀ CHÂN DUNG ….. 84 Hình tượng tác giả thể hiện qua giọng điệu …………………. 84 3.1.1. Giọng điệu trần thuật khách quan và sự thấu hiểu, cảm thông … 84 3.1.2. Giọng điệu triết lí, suy tư ………………………………………. 88 3.1.3. Giọng điệu trữ tình, cảm thương ……………………………….. 91 3.1.4. Giọng điệu dí dỏm, hài hước …………………………………… 93 3.2. Chân dung hình tượng tác giả ………………………………... 95 3.2.1. Nhà văn “độc phá vạn quyển thư” ……………………………... 95 3.2.2. Nhà văn đề cao tính nữ và đời sống phồn thực ………………… 99 3.2.3. Nhà văn luôn trăn trở với những vấn đề văn hóa đất nước …….. 108 KẾT LUẬN ……………………………………………………. 115 TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………. 119 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Trong thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, văn xuôi Việt Nam nói chung và thể loại tiểu thuyết nói riêng đã có những dấu hiệu chuyển động của 6 một nền văn học mở. Đời sống văn học cũng có năm “phẳng lặng” [69] hoặc chỉ mới dừng lại ở mức “chữ nghĩa lướt qua cơn suy thoái” [66] nhưng nhìn chung văn học ta đang thay đổi, đang chuyển động, đang thể nghiệm những hướng đi mới để tìm cách vượt ra khỏi sự trì trệ, nhàm chán, ngõ hầu đáp ứng nhu cầu thưởng thức nghệ thuật ngày càng cao và ngày càng mới lạ của bạn đọc. Trên con đường tìm tòi, đổi mới đầy vất vả, nhọc nhằn ấy, một số nhà văn đã có những thành công nhất định, được đông đảo bạn đọc trân trọng đón nhận và đề cao. Về văn xuôi, chúng ta có thể kể đến Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái, Nguyễn Ngọc Tư, Xuân Đức, Nguyễn Quang Hà, Trần Văn Tuấn, Dương Hướng, Đỗ Kim Cuông, Từ Nguyên Tĩnh, Bùi Bình Thi, Tô Đức Chiêu, Khuất Quang Thụy, Hoàng Đình Quang, Trầm Hương, Nguyễn Hoàng Thu, Trung Trung Đỉnh, Nguyễn Đình Tú, Bích Ngân, Cao Duy Sơn, Sương Nguyệt Minh ... Quan tâm tới sự phát triển của mảng văn xuôi, nhất là thể loại tiểu thuyết – cỗ máy cái của một nền văn học – là đề tài đang còn nhiều điều để khai phá. 1.2. Trong dòng chảy bộn bề của văn xuôi những năm đầu thế kỉ, có một xu hướng khai thác đề tài lịch sử và văn hóa phong tục của đất nước. Họ tạo thành một đội ngũ khá hùng hậu với những đại diện tiêu biểu như : Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Mộng Giác, Lê Đình Danh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Quang Thân, Hoàng Công Khanh, Sương Nguyệt Minh, Ngô Văn Phú, Nam Dao, Trần Vũ ... và hiển nhiên có một “cội mai già vẫn rừng rực nở hoa” : Nguyễn Xuân Khánh. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh là một hiện tượng văn học “lạ” trong bối cảnh văn học đương đại. Ông là nhà văn chỉ nổi tiếng khi đã bước vào tuổi “xưa nay hiếm”. Là cây bút hàng đầu của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại nhưng Nguyễn Xuân Khánh lại chưa hề có một mục từ nào được nhắc đến trong Từ điển văn học, mặc dù, giải thưởng của các Hội Nhà văn thường niên đều vinh danh ông. Và trong khi nhiều nhà văn đang cố gắng làm mới tác phẩm của mình với nhiều thủ thuật khác nhau, kể cả việc vận dụng các lí thuyết hiện đại của thế giới thì Nguyễn Xuân Khánh lại trung thành với lối viết “đặc sệt cổ 7 điển” bằng một bút lực dồi dào và vốn văn hóa uyên bác khiến bạn đọc phải ngạc nhiên, thán phục. Văn xuôi Việt Nam đương đại nếu thiếu Nguyễn Xuân Khánh sẽ “bớt đi bao nhiêu cái sang trọng của văn hóa Việt thấm đẫm trong văn học Việt” [11]. Vì thế, tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh luôn khơi gợi hứng thú tìm tòi của công chúng tiếp nhận. 1.3. Qua bộ ba tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa, Nguyễn Xuân Khánh luôn luôn trăn trở về những vấn đề lịch sử, văn hóa của đất nước. Đổi mới về tư tưởng quan trọng hơn đổi mới về bút pháp là mục đích chính yếu và đóng góp chính yếu của tiểu thuyết gia Nguyễn Xuân Khánh. Nhưng lối viết tưởng như xưa cũ của ông vẫn có sức hấp dẫn lớn lao. Bạn đọc bắt gặp trong tiểu thuyết của ông không phải những nhân vật, sự kiện, bức tranh lịch sử đã hóa thạch mà là những chỉnh thể nghệ thuật sống động, luôn đối thoại với bạn đọc và mời gọi bạn đọc tham gia đối thoại. Tái hiện lịch sử, văn hóa, phong tục là phông nền để nhà văn đánh giá, đề xuất, kiến giải về quá khứ và gợi mở những vấn đề ngay trong cuộc sống hôm nay. Tư tưởng trong ba cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh, dĩ nhiên là khác nhau nhưng xuyên suốt nó là tinh thần văn hóa Việt. Nhà văn đã phát hiện ra nguồn năng lực nội sinh của văn hóa dân tộc, để từ đó, con người Việt Nam có thể trường tồn trước sóng gió ba đào của lịch sử. Ở góc độ này, Nguyễn Xuân Khánh đã có những trang viết mê đắm và tài hoa. Vì thế, đọc hàng ngàn trang tiểu thuyết của ông, người đọc vẫn cảm thấy thích thú và hấp dẫn. 1.4. Hình tượng tác giả luôn tồn tại trong mọi tác phẩm và rộng hơn là trong toàn bộ sáng tác của một nhà văn. Nhưng tùy vào thể loại và cá tính sáng tạo mà hình tượng ấy có sự xuất hiện đậm nhạt khác nhau. Trong sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh, hình tượng tác giả hiện lên như một nét đặc sắc riêng trong thế giới nghệ thuật của ông. Việc nghiên cứu hình tượng tác giả trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh là hướng tiếp cận văn học từ phương diện thi pháp. Cách tiếp cận này giúp chúng ta có thêm một góc nhìn mới để phát hiện 8 và khám phá chiều sâu tác phẩm, đồng thời góp phần định hình phong cách Nguyễn Xuân Khánh cũng như những đóng góp của ông cho văn học nước nhà. Là một hiện tượng văn học, Nguyễn Xuân Khánh dành được nhiều sự quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu của công chúng tiếp nhận nhưng có thể khẳng định, chưa có một công trình hoàn chỉnh nào nghiên cứu về hình tượng tác giả trong tiểu thuyết của ông. Vì thế, trong lúc này, việc nghiên cứu Hình tượng tác giả trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh, một nhà văn viết rất hay về lịch sử, văn hóa, phong tục cũng là việc làm hợp thời, tùy duyên. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Những công trình nghiên cứu về Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa 2.1.1. Năm 2000, khi tác phẩm Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh xuất hiện và đạt giải thưởng của Hội Nhà văn, Nhà xuất bản Phụ nữ đã tổ chức hội thảo về tiểu thuyết Hồ Quý Ly, sau đó, nội dung hội thảo được đăng tải trên báo Văn nghệ (số 41, ngày 7/10/2000). Qua hội thảo này và qua các bài viết trên các báo và tạp chí, tác phẩm đã được nhìn nhận, đánh giá từ nhiều phương diện. Nhà văn Hoàng Quốc Hải (Những điều khả ái về tiểu thuyết Hồ Quý Ly) nhận xét : “Đây là cuốn tiểu thuyết lịch sử viết rất nghiêm túc, bám sát chính sử. Văn chương mượt mà, có sức cuốn hút, đọc hết 800 trang vẫn muốn đọc lại”. Theo ông : “tư tưởng chủ đề của tiểu thuyết Hồ Quý Ly xoay quanh ba chữ “thời thiên tuý” mà tác giả đã khéo léo đề cập ...”. Châu Diên (Tiểu thuyết Hồ Quý Ly và tố chất nhà văn trong Nguyễn Xuân Khánh) nêu ra ba ưu điểm của cuốn tiểu thuyết : không né tránh vấn đề gay cấn ; xử lí vấn đề tài tình ; sự ảo tưởng tích cực của tác giả thể hiện trong tác phẩm. Nhà văn Hồ Anh Thái cho rằng, cuốn sách là sự kết hợp thành công hai yếu tố của thể loại là tiểu thuyết và lịch sử. Trịnh Đình Khôi nhấn mạnh những ưu điểm nổi bật : “Cuốn sách rất có văn. Lâu nay ta chú ý truyện nhiều hơn văn. Vấn đề đặt ra có ý nghĩa hiện đại : các mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, giữa giới cầm quyền và trí thức, giữa chính trị và văn học”. Tiến sĩ Đinh Công Vỹ với tiêu đề giản dị : 9 Tiểu thuyết Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh đã đánh giá những ưu điểm chính của tác phẩm : khắc phục được tính chất đơn điệu, phiến diện khi viết về lịch sử và nhân vật lịch sử ; tri thức uyên bác ; có những trang văn đẹp về tình yêu và người phụ nữ ... Bên cạnh những ưu điểm ấy, tiểu thuyết này vẫn còn những hạn chế : Ngôn ngữ đối thoại (như giữa Hồ Nguyên Trừng và Hồ Quý Ly) mới mẻ quá ; những bài thơ, bài hát quốc ngữ trong đó nghe như của thời hiện đại ; chưa đánh giá triệt để những mặt yếu của Hồ Quý Ly. Hoàng Cát (Tiểu thuyết Hồ Quý Ly, thưởng thức và cảm nhận – vietnamnet.vn) đánh giá đây là một tiểu thuyết bề thế, sâu sắc, hấp dẫn về một giai đoạn phức tạp của dân tộc. Xác định tư tưởng chủ yếu của tác phẩm để minh định về thể loại, Nguyễn Văn Dân (Mấy xu hướng chủ yếu trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại – báo Văn nghệ số 11, ra ngày 12 – 3 – 2011) đã xếp Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh vào xu hướng tiểu thuyết luận giải. Về phương diện xây dựng nhân vật, tại Hội thảo, nhà văn Trần Thị Trường đọc tham luận Những nhân vật nữ trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly ; nhà văn Hoàng Tiến đề cập đến Thân phận kẻ sĩ trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly. Nhưng nhiều ý kiến phát biểu của Nguyên Ngọc, Nguyễn Trọng Tân, Lại Nguyên Ân, Phạm Xuân Nguyên ... lại chủ yếu đề cập đến nhân vật chính Hồ Quý Ly. Các nhà nghiên cứu đều thống nhất đánh giá đây là nhân vật được xây dựng thành công và đó là điều quyết định sự thành công của cuốn tiểu thuyết. Sau Hội thảo, giới nghiên cứu tiếp tục dành sự quan tâm cho tác phẩm. Đỗ Ngọc Yên (Tạp chí Non nước số 140, tháng 10 – 2010) với bài viết Hồ Quý Ly – cách tân hay bạo chúa nghiêng về hướng đề cao chủ trương cải cách táo bạo của Hồ Quý Ly. Cũng trên Tạp chí Non nước (số 155 – 2010), Nguyễn Thị Thu Hương nghiên cứu Vấn đề xây dựng nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh. Nhà nghiên cứu kết luận : khi xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đồng quan điểm với bậc thầy của tiểu thuyết lịch sử mà ông đã từng ngưỡng mộ đó là Alexandre Dumas. Ông xem “lịch sử chỉ là cái đinh treo”, để chú ý khai thác nhân vật 10 lịch sử từ góc nhìn nội tâm thông qua sức mạnh của cảm xúc, tưởng tượng, còn những nhân vật làm bằng hư cấu thì ông lại tìm cách gắn nó vào “cái đinh treo” bằng sức hút của từ trường lịch sử. Trong luận văn thạc sĩ [136], Phạm Thị Bích Thủy khai thác hình tượng nhân vật trong một số tiểu thuyết lịch sử, trong đó có Hồ Quý Ly. Về những đóng góp của tiểu thuyết Hồ Quý Ly cho thể loại tiểu thuyết lịch sử và cho văn học nước nhà nói chung, Lại Nguyên Ân trong bài Hồ Quý Ly (Tạp chí Nhà văn số 6 năm 2000) đã sớm phát hiện thấy những nét mới của tác phẩm này : “Tác giả Nguyễn Xuân Khánh vừa khai thác tối đa các nguồn sử liệu, văn liệu hiện còn, vừa phóng khoáng trong những hư cấu tạo ra một thực tại tiểu thuyết vừa tương đồng với những thông tin còn lại về một thời đại đã lùi xa vừa in dấu cách hình dung và trình bày riêng của tác giả”. Nhà văn Trung Trung Đỉnh trong bài viết : Hồ Quý Ly và những giải pháp mới cho tiểu thuyết lịch sử nước nhà (Tạp chí Văn nghệ quân đội tháng 10 – 2011) cho rằng sức hấp dẫn của tác phẩm “không chỉ ở văn mạch mà cái chính là tác giả đã lựa chọn được cho mình một thế đứng vững chắc và một thế đứng với tư thế của một nhà tiểu thuyết trước vấn đề hôm qua và hôm nay”. Một số luận văn thạc sĩ đi vào khai thác những cách tân, thành tựu của tiểu thuyết lịch sử cũng đã lấy tiểu thuyết Hồ Quý Ly làm đối tượng khảo sát như : Tiểu thuyết Hồ Quý Ly trong sự vận động của tiểu thuyết lịch sử nửa sau thế kỉ XX của Đỗ Hải Ninh, Thành tựu của tiểu thuyết lịch sử qua Vạn Xuân và Hồ Quý Ly của Trần Thị Quỳnh Hoa, Những cách tân đáng chú ý của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thời đổi mới của Nguyễn Thị Phương Thanh. Đặc biệt, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học cấp bộ : Một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ thời điểm đổi mới đến nay do PGS.TS. Nguyễn Thị Bình làm chủ nhiệm đề tài đã đánh giá cao những đóng góp của Nguyễn Xuân Khánh trên nhiều phương diện, đã có công mở ra hướng đi mới cho tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử sau 1975. 2.1.2. Tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn đạt giải thưởng của Hội Nhà văn năm 2006 cũng nhận được sự hưởng ứng không kém nồng nhiệt của dư luận. 11 Nhà xuất bản Phụ nữ lại tiếp tục được vinh dự là nơi xuất bản và tổ chức tọa đàm về tác phẩm này. Về phương diện nội dung, Thạc sĩ Đoàn Ánh Dương (vannghequandoionline 22 – 3 – 2012) cho rằng, vấn đề chủ yếu của Mẫu Thượng Ngàn là muốn đi sâu vào cội nguồn của văn hóa Việt và đó là căn nguyên sức sống của dân tộc. Nguyên Ngọc đề cao tác phẩm bằng bài viết : Mẫu Thượng Ngàn : Một cuốn tiểu thuyết thật hay về văn hoá Việt. Tác giả cho rằng : “Nếu đi tìm một nhân vật chính cho cuốn tiểu thuyết này, thì hẳn có thể nói nhân vật chính đó là nền văn hoá Việt”. Phạm Hồ Thu ca ngợi tác phẩm Mẫu Thượng Ngàn - bài ca về vẻ đẹp Việt. Châu Diên [16] khẳng định, Mẫu Thượng Ngàn chính là cuộc dành lại bản sắc văn hóa Việt trong cuộc giao lưu tiếp biến với văn hóa ngoại lai. Trả lời phỏng vấn của báo chí, chính nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã tiết lộ cho người đọc ý tưởng, sự hình thành tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn cũng như những trang viết về người phụ nữ và vấn đề nhục cảm trong tác phẩm của ông. Nguyễn Quang Huy [40] có những kiến giải thú vị về nguyên lí mẫu và nữ tính đã chi phối tư tưởng tác phẩm, hình tượng, các môtip nghệ thuật ... của Mẫu Thượng Ngàn. Về phương diện nghệ thuật và những yếu tố làm nên thành công của tác phẩm, Phạm Xuân Nguyên (qua trao đổi với phóng viên VTC News) nhìn thấy ở Mẫu Thượng Ngàn : Nội lực văn chương của Nguyễn Xuân Khánh. Nhà nghiên cứu Châu Diên chỉ rõ, cái tài của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh là ở chỗ anh dùng gần như toàn bộ những “nhân vật” anh từng về quê ăn giỗ mỗi tuần một bận, để rồi sắp xếp họ lại trong một không gian là một cái làng vẫn như thế mà lại khác hẳn, trong một thời gian là cuộc khủng hoảng giành lại một bản sắc dân tộc. Văn Chinh khen ngợi bút lực, sự trẻ trung, tươi mát trong những trang văn Nguyễn Xuân Khánh : có thể ví ông như gốc mai già, mấy mươi năm chìm khuất đâu đó chợt bật lên rừng rực nở hoa hắt lên văn đàn ánh trắng tinh khiết và ngan ngát hương thơm để diện mạo hốt nhiên thay đổi [12]. Ngô Lê Khánh Huyền (sankhauvietnam.com.vn) cũng đồng quan điểm : văn chương Nguyễn 12 Xuân Khánh chững chạc, đúng mực, thấm đẫm tình cảm và luôn kèm theo bề sâu văn hóa dày đặc. Ngoài ra, các công trình nghiên cứu như : Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết lịch sử sau 1975 của Nguyễn Thị Kim Tiến (tonvinhvanhoadoc.vn) ; Kiểu truyện về thánh mẫu và truyền thống trọng mẫu trong văn học Việt Nam của Tiến sĩ Nguyễn Thị Nguyệt [62] đều coi Mẫu Thượng Ngàn như một cứ liệu quan trọng để nghiên cứu ... Một số công trình nghiên cứu về Mẫu Thượng Ngàn do có liên quan gần gũi với đề tài nên chúng tôi sẽ trình bày ở mục 2.2. 2.1.3. Cứ tưởng bao nhiêu vốn liếng về lịch sử - văn hóa dân tộc đã được Nguyễn Xuân Khánh “trút” hết vào Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng Ngàn thì bất ngờ ở tuổi gần 80, Nguyễn Xuân Khánh lại “tình tang” Đội gạo lên chùa. Cuốn tiểu thuyết nhanh chóng gây tiếng vang trong dư luận và được bạn đọc tán thưởng. Tại buổi tọa đàm Nguyễn Xuân Khánh đội gạo lên chùa do Nhà xuất bản Phụ nữ và Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức ngày 20 – 6 – 2011 đã cho thấy sức gây chú ý của nhà văn cao niên này với tác phẩm mang chủ đề văn hóa – lịch sử thứ ba của ông. Hầu như các bài viết và ý kiến thảo luận chủ yếu tại diễn đàn đều tập trung vào việc tiểu thuyết Đội gạo lên chùa nêu lên và xử lí vấn đề Phật giáo đóng góp như thế nào vào bản sắc và lịch sử tinh thần dân tộc. Tiêu biểu là các tham luận của Văn Chinh đề cập đến một Tinh thần dân chủ Phật giáo ; Tiến sĩ Nguyễn Thị Minh Thái nhận xét nét đặc sắc tư tưởng Tùy duyên mà tiểu thuyết này ứng dụng, gợi vấn đề đạo Phật Việt Nam đặc thù ; Tiến sĩ Nguyễn Văn Tùng từ góc nhìn truyền thống của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại nói đến cảm hứng Phật giáo đối với đề tài lịch sử cách mạng ; v.v. Dường như, dễ có một sự nhất trí về sự kiện đạo Phật đã trở thành một yếu tố căn bản của tâm hồn dân Việt xưa nay, hơn là đạt được một đồng thuận về các vấn đề tầm vóc tinh thần của Phật giáo trong những tiến trình lịch sử - văn hóa hiện đại của dân tộc, là điều mà cuốn tiểu thuyết này xem xét. Đồng quan điểm với cách tiếp cận trên, Mai Anh Tuấn (Tạp chí Nhà văn tháng 8 – 2011) cũng 13 hiểu tác phẩm này “như một tham khảo Phật giáo” : “Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh là cuốn tiểu thuyết, ngay từ tiêu đề, đã tiết lộ một dấu chỉ Phật giáo và bởi thế, liền sau đó, vẫy gọi những cảm xúc cũng như tri thức tiếp nhận thuộc chốn cửa thiền, một không gian văn hóa riêng biệt, đòi hỏi thái độ tìm biết vừa trang nghiêm, vừa có phần e dè”. Một trong những bài viết quan trọng mà báo Văn nghệ đăng tải (số 27, ngày 2 – 7 – 2011) như một cái nhìn gợi ý và tham chiếu cho thảo luận về Đội gạo lên chùa là của nhà nghiên cứu trẻ Đoàn Ánh Dương có tên : Kiến giải về dân tộc trong Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh. So sánh với hai tiểu thuyết trước đó của Nguyễn Xuân Khánh, tác giả viết : “Đội gạo lên chùa không kiến giải về dân tộc qua người đại diện chính đáng của nó như Hồ Quý Ly, cũng không kiến giải về dân tộc qua thời đoạn thử lửa khốc liệt của nó (ý nói Mẫu Thượng Ngàn – tôi thêm), ở đấy (tức Đội gạo lên chùa – tôi thêm), kiến giải về dân tộc xuất phát từ chính lịch sử của sự xây dựng dân tộc ấy, một dân tộc theo quan niệm hiện đại, trải dài suốt thời hiện đại”. Nhiều tờ báo ở ta, kể cả những tờ không chuyên về văn học cũng rất quan tâm đến Đội gạo lên chùa. Trên báo Hà Nội mới (28 – 6 – 2011), Châu Diên ghi nhận sự đổi mới thi pháp của tác giả, Hoàng Quốc Hải xác định tư tưởng tác phẩm là sự bày tỏ lối sống Phật giáo, người Việt “tùy duyên” mà tiếp nhận đạo Phật như thế nào. Giáo sư Phong Lê khen “vốn sống cũng như tri thức dày dặn lắm, mà những gì thành ra con chữ đều đã được trải nghiệm cả, cho nên nó tự nhiên, an nhiên, không bị nống lên. Viết thế này khó lắm”. Nhà văn Nguyễn Khắc Phê (phunuonline.com.vn, 18 – 6 – 2011) đưa ra một so sánh : Rất khó để so sánh Đội gạo lên chùa với hai tiểu thuyết Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng Ngàn đã được khẳng định giá trị của Nguyễn Xuân Khánh. Có điều dễ thấy là Đội gạo lên chùa, do đề tài và hiênê thực miêu tả gần gũi hơn với bạn đọc hôm nay, nên nhà văn khó đưa trí tưởng tượng bay bổng như hai tác phẩm trước, nhưng mặt khác, Đội gạo lên chùa lại gợi nhiều vấn đề để suy ngẫm hơn và có nhiều trang đô êc giả sẽ muốn mở ra đọc lại. Phạm Xuân Nguyên (Báo 14 Phụ nữ TP.HCM số Tết Nhâm Thìn 2012) tìm thấy trong văn Nguyễn Xuân Khánh “một thứ hương mê hoặc người đọc là trộn lẫn mùi hương đàn bà và mùi hương Phật”, từ đó ông trân trọng gọi Nguyễn Xuân Khánh là “Ông Phật văn”. 2.2. Những công trình liên quan gần với đề tài Hình tượng tác giả trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh Vận dụng lý thuyết hậu thực dân và lý thuyết tự sự học, nhằm tìm hiểu biểu hiện của tự sự hậu thực dân, nhà nghiên cứu Đoàn Ánh Dương nhìn thấy ở Mẫu Thượng Ngàn có sự pha trộn giữa lịch sử và huyền thoại. Sau khi trình bày các khái niệm, tác giả xác định nội dung của bài viết : Tuy vậy, tiếp cận Mẫu Thượng Ngàn như một diễn giải lịch sử mang tính hậu thuộc được hậu thuẫn không chỉ bởi các vấn đề trên mà còn từ phía kỹ thuật tự sự của tác giả như là cách thức cân bằng giữa tính mạch lạc và tính hư cấu trong việc nhìn nhận về thời đã qua. Bài viết sẽ tập trung đề cập tới hệ thống các nhân vật/ các tiếng nói, hệ thống các biểu tượng và cách thức tổ chức ngôi kể (gồm cả hàm ý chủ thể được/ được chọn lên tiếng) như là các kỹ thuật tự sự phục vụ mục đích diễn giải này [20]. Cũng bàn về phương diện trần thuật, Khánh Phương nói đến sự hấp dẫn trong những trang văn kể chuyện của Nguyễn Xuân Khánh. Theo đó : “Nguyễn Xuân Khánh chỉ say sưa, đắm đuối miêu tả, phán đoán, kiếm tìm, những điều mà ông cho là tâm thức, cảm thức, giá trị văn hóa sâu xa của dân tộc” và “Toàn bộ tác phẩm tràn ngập bầu không khí ngọt ngào quyến rũ của thế giới trực giác. Ngoại trừ những phân đoạn đi sâu miêu tả tâm lý cộng đồng, phong tục, như một tư liệu phục vụ khảo cứu tâm lý, tất thảy là thế giới mê đắm của trực giác, linh cảm, ham muốn, ẩn ức, bị quyến rũ” [68]. Về quan niệm lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh, Đỗ Hải Ninh viết : “Lịch sử trong sáng tạo nghệ thuật của nhà văn đã vượt thoát khỏi kinh nghiệm quen thuộc của cộng đồng. Nhà văn không lệ thuộc vào những sự thật được kinh nghiệm tập thể chấp nhận, những hình tượng đã xác lập bằng thái độ sùng kính hay phủ nhận mà sáng tạo 15 lịch sử của riêng mình” và “Nguyễn Xuân Khánh chỉ mượn nó làm phương tiện để chuyển tải kinh nghiệm, suy ngẫm và triết lý của mình”. Lịch sử “không phải là quá khứ bất biến”, lịch sử “ở trong con người” [67]. Tiếp cận lịch sử từ góc nhìn văn hóa là một trong những đóng góp của Nguyễn Xuân Khánh cho tiểu thuyết đương đại. Ngô Thị Quỳnh Nga có bài viết “Điểm nhìn văn hóa trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh” [57]. Trên cơ sở khảo sát Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng Ngàn, tác giả cho thấy, sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh được bao bọc trong bầu khí quyển văn hóa đậm đà. Nhà văn phục dựng không khí cổ xưa, nhiều khi đắm màu huyền thoại qua các sinh hoạt thôn dã, các lễ hội dân gian. Các nhân vật cũng được đặt trong bối cảnh văn hóa để xem xét họ đã có những đóng góp gì cho sự phát triển của đất nước. Trong Mẫu Thượng Ngàn, các tôn giáo trải qua nhiều thăng trầm, nhưng trong niềm tin của Nguyễn Xuân Khánh thì “Đạo nào cũng thế cả thôi ... Tất cả đều là khuyến thiện”. Cũng ở góc độ văn hóa, Tiến sĩ Trần Thị An nhận thấy Sức ám ảnh của tín ngưỡng dân gian trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn [1]. Vấn đề này được tác giả triển khai trên ba phương diện : Tín ngưỡng dân gian với tư cách là một năng lực cố kết cộng đồng ; Tín ngưỡng dân gian với tư cách là phản lực tự vệ của một dân tộc ; Tín ngưỡng dân gian với tư cách là vô thức cộng đồng cần được khai phá. Trịnh Thị Lan đề cập đến Ngôn ngữ thân thể trong Mẫu Thượng Ngàn và cho đó là một trong những phương diện làm nên sự hấp dẫn của văn chương Nguyễn Xuân Khánh. Tác giả bài viết kết luận : Ngôn ngữ thân thể trong Mẫu Thượng Ngàn mang tính chất lưỡng tính, vừa là thân thể, vừa là tâm hồn, “là sự thể nghiệm tâm hồn thân thể hóa”. Nó đã giúp nhà văn nhìn ra vẻ đẹp trần gian nơi con người. Và đặc biệt, trong nó còn ẩn chìm cái bề sâu của nền văn hóa Việt tràn đầy sức sống [50]. Qua phần trình bày về lịch sử nghiên cứu tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh, có thể thấy rằng, vấn đề hình tượng tác giả trong tiểu thuyết của nhà văn mặc dù đã được đề cập đến ở một số phương diện nhưng vẫn chưa có một công trình nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của những người đi trước là những gợi ý rất quan trọng để chúng tôi hoàn thành luận văn này. 16 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Hình tượng tác giả trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh. 3.2. Phạm vi tư liệu Khảo sát qua các tác phẩm Hồ Quý Ly (Nxb Phụ nữ, in lần thứ 9, năm 2010), Mẫu Thượng Ngàn (Nxb Phụ nữ, in lần thứ 5, năm 2009) , Đội gạo lên chùa (Nxb Phụ nữ, in lần thứ 2, năm 2011) của Nguyễn Xuân Khánh. Ngoài ra, luận văn cũng tham khảo một số tác phẩm có liên quan đến đề tài để làm cơ sở so sánh, mở rộng vấn đề. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Chỉ ra những nét đặc sắc của hình tượng tác giả trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh. Luận văn cũng giúp hiểu rõ hơn sự nghiệp sáng tác của nhà văn, đồng thời có thể gợi những vấn đề khi tìm hiểu về phong cách nghệ thuật Nguyễn Xuân Khánh. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh. - Tìm hiểu hình tượng tác giả thể hiện qua cái nhìn nghệ thuật, giọng điệu và các yếu tố tự thể hiện thành chân dung của hình tượng tác giả. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích – tổng hợp : Đi sâu phân tích, xem xét từng phương diện của đề tài thể hiện qua ba tác phẩm, từ đó rút ra những đánh giá và nhận định khái quát. - Phương pháp so sánh – đối chiếu : So sánh, đối chiếu giữa các tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh để khái quát thành các luận điểm và so sánh Nguyễn Xuân Khánh với một số nhà văn khác để thấy được nét chung và riêng. - Phương pháp cấu trúc – hệ thống : Thiết lập và sắp xếp các vấn đề một cách logic, khoa học ; xem xét, đánh giá trong cấu trúc tổng thể của chúng. 17 - Phương pháp nghiên cứu liên ngành : Tìm hiểu về lịch sử, văn hóa các giai đoạn mà tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh phản ánh ; nghiên cứu các tài liệu về văn hóa Việt Nam làm cơ sở tìm hiểu tư tưởng Nguyễn Xuân Khánh và lí giải về những thành công của nhà văn. 6. Đóng góp và cấu trúc của luận văn 6.1. Đóng góp của luận văn - Nghiên cứu hình tượng tác giả trong sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh một cách toàn diện và hệ thống. - Góp phần gợi mở một vài luận điểm khi nghiên cứu về các phương diện khác trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh. - Là tài liệu tham khảo khi nghiên cứu về Nguyễn Xuân Khánh và văn xuôi những năm đầu thế kỉ XXI. 6.2. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được triển khai qua ba chương: Chương 1: Hình tượng tác giả và tác giả Nguyễn Xuân Khánh Chương 2: Hình tượng tác giả thể hiện qua cái nhìn nghệ thuật Chương 3: Hình tượng tác giả thể hiện qua giọng điệu và chân dung Chương 1 HÌNH TƯỢNG TÁC GIẢ VÀ TÁC GIẢ NGUYỄN XUÂN KHÁNH 18 1.1. Hình tượng tác giả 1.1.1. Tác giả văn học Theo ý nghĩa chung, tác giả là người làm ra một sản phẩm sáng tạo về các lĩnh vực khoa học – kĩ thuật, văn hóa – nghệ thuật ... và được chấp nhận về quyền lợi tinh thần hoặc vật chất, trở thành chủ thể của sáng tạo đó và có quyền sở hữu về sản phẩm do mình sáng tạo ra. Tác giả văn học là người sáng tạo ra các giá trị văn học. Đó là điều không cần phải bàn cãi. Nhưng phạm trù tác giả có hiện diện trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm và có hiện lên trong sự tiếp nhận của người đọc hay không lại là vấn đề khá phức tạp. Có khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của tác giả mà phủ định tất cả các yếu tố khác, tiêu biểu như Froi-đơ coi tác phẩm “chỉ là sự thông báo của cái tôi”. Trong khi đó, Hai-đơ-gơ lại phủ định vai trò của tác giả, chỉ thấy tác phẩm mà không cần biết tác giả là ai, bởi tác giả sẽ “biến mất”, hay “tự hủy hoại mình trong sáng tác” [chuyển dẫn từ 27,81]. Trong tiểu luận Tác giả là gì? Misen Phu-cô cũng cho rằng: “Song song với sự biến hoá không ngừng của xã hội, chức năng tác giả được ngoại hiện vào một khoảnh khắc của quá trình ấy sẽ biến mất” [chuyển dẫn từ 71,115-116]. Theo ông, tác giả chẳng qua là “một biện pháp dùng để ngăn trở sự tự do hư cấu, tự do chi phối và cấu tạo lại tác phẩm mà thôi” [chuyển dẫn từ 71,106]. Một khi các quy ước ấy thay đổi thì tác giả cũng như một người đọc. Thực ra, trong đời sống văn học, phạm trù tác giả vẫn hiển nhiên tồn tại và là yếu tố không thể thay thế trên tiến trình văn học. M. Bakhtin cho rằng “kẻ biết, hiểu, nhìn thấy trước hết chỉ là một mình tác giả” [chuyển dẫn từ 27,81], vì thế, phạm trù tác giả vẫn là phạm trù hạt nhân đóng vai trò trung tâm tổ chức và thống nhất các mối quan hệ văn học. Mọi hoạt động của văn học, từ hoạt động tiếp nhận, thưởng thức đến nghiên cứu, phê bình... chỉ thực sự bắt đầu khi tác phẩm của nhà văn ra đời. Cho nên nhà văn là người khởi đầu của nhiều hoạt động văn chương, giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống văn học. Ta gọi tác phẩm văn học là một 19 công trình sáng tạo nghệ thuật bởi lao động của người nghệ sĩ đúng là lao động sáng tạo. Tác phẩm văn học không thể sản xuất đồng loạt theo những khuôn mẫu có sẵn như sản xuất công nghiệp. Nghệ thuật luôn đòi hỏi nhà văn phải sáng tạo ra những tác phẩm mới mẻ cả về nội dung lẫn hình thức. Bakhtin cũng nói nghệ sĩ chỉ là nghệ sĩ khi anh ta đối diện với chất liệu, khi sáng tạo ra hình thức mới của cái nhìn nghệ thuật tương ứng với một nội dung mới về cuộc sống [72,126]. Vì vậy, tác giả văn học phải là người tài năng, có văn hoá, có quan điểm nghệ thuật riêng. Tác giả văn học thực sự cũng phải là người có nhân cách, có bản lĩnh vững vàng và có ý thức sâu sắc về nghề nghiệp. Nhà nghiên cứu Đông Hoài trong cuốn Nhận thức và thẩm định (Nxb Văn học, Hà Nội 1983) đã viết: “Tác giả văn học phải có một kỹ năng miêu tả điêu luyện, một bút pháp độc đáo lành nghề trong đó năng khiếu bẩm sinh là có thật, cần được kịp thời phát hiện và không ngừng vun bồi bảo vệ” [tr.8]. Sáng tạo nghệ thuật đòi hỏi nhà văn phải có năng khiếu, có tài tư duy bằng hình tượng, có khả năng suy ngẫm về các vấn đề của hiện thực thông qua một thế giới hình tượng gồm những cảnh vật và những nhân vật cụ thể, sống động, tồn tại trong những mối quan hệ xã hội phong phú và đa dạng. Đó là cơ sở để các tác giả Từ điển thuật ngữ văn học đề xuất một quan niệm : “Về thực chất, tác giả văn học là người làm ra cái mới, người sáng tạo ra các giá trị văn học mới. Sự bắt chước, mô phỏng, theo đuôi thời thượng hoặc sáng tác không có bản sắc, không làm nên tác giả văn học đích thực” [33,289]. Theo đó, tác giả văn học phải là người có ý kiến riêng về đời sống và thời cuộc, người phát biểu một tư tưởng mới, quan niệm mới, một cách hiểu mới về các hiện tượng đời sống, bày tỏ một lập trường xã hội và công dân nhất định. Tất cả điều đó được thể hiện qua các hình tượng nghệ thuật độc đáo, sống động, gây nên khoái cảm nghệ thuật ở người đọc. Phẩm chất nghề nghiệp của tác giả văn học được kết tinh thành phong cách riêng, giọng điệu riêng. Vì thế, khái niệm tác giả văn học nhiều khi đồng nghĩa với “cá tính sáng tạo”, với “phong cách”, có tính biểu trưng cho một giai đoạn, một trào lưu văn học hoặc một sự kiện, vì 20 vậy tên tác giả được ghi vào từ điển cùng với tác phẩm, hoặc được lấy làm căn cứ để nghiên cứu phê bình. Nhà thi pháp học Trần Đình Sử cho rằng : “Tác giả là trung tâm tổ chức nội dung và hình thức cái nhìn nghệ thuật trong tác phẩm, là người mang cảm quan thế giới đặc thù và là trung tâm tổ chức lại ngôn từ theo nguyên tắc nghệ thuật” [71,106]. Vì thế, việc tìm hiểu những vấn đề có liên quan đến thời đại sống, quá trình sáng tác của nhà văn là một việc làm cần thiết. Hoàn cảnh xuất thân, quê quán, thời gian sống và hành trạng góp phần làm rõ các khía cạnh tư tưởng, tâm lý trong tác phẩm. Tìm hiểu tác giả trong nghiên cứu văn học như là một khái niệm của thi pháp học là nghiên cứu “người xây dựng được ngôn ngữ nghệ thuật mới, có phong cách, có giọng điệu riêng, có bộ mặt riêng trong thể loại, có hệ thống hình ảnh biểu tượng, đặc trưng riêng” [33,242]. Tác giả văn học cũng được gọi bằng nhiều tên khác nhau. Người xưa gọi chung những người viết văn là tác gia, gọi những người sành văn là văn chương gia, gọi những người có văn chương giúp đời là đại gia. Sau này, những tác giả văn học mà sáng tác mở ra một thời đại văn học, có tác dụng làm khuôn thước, có ảnh hưởng lớn đối với nhân loại thì gọi là văn hào, thi hào, nhà văn vĩ đại. Những tác giả văn học có ảnh hưởng lớn trong văn học dân tộc, hoặc từng giai đoạn của văn học dân tộc là nhà văn lớn. Xét theo thể loại sáng tác, tác giả văn học lại được gọi là nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch ... 1.1.2. Hình tượng tác giả Ở bất kỳ thể loại nào, tự sự, trữ tình hay kịch, chủ thể sáng tạo bao giờ cũng xuất hiện, dù có thể là đậm nhạt khác nhau. Với trí tưởng tượng phong phú, khả năng lựa chọn đề tài, chủ đề, sự vận dụng khéo léo các thủ pháp nghệ thuật và ngôn từ, người nghệ sĩ đã sáng tạo ra tác phẩm nghệ thuật để thể hiện những tư tưởng tình cảm của mình. Tác phẩm là sự kết tinh quá trình tư duy nghệ thuật của tác giả, biến những biểu tượng, ý nghĩ, cảm xúc bên trong của nhà văn thành một sự thực văn hoá, xã hội khách quan cho mọi người soi
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan