LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế sâu rộng, hoạt
động ngoại thương đã trở thành một bộ phận quan trọng không thể
thiếu của mỗi quốc gia. Tỷ giá hối đoái, với tư cách là thước đo
tương quan kinh tế giữa một quốc gia với phần còn lại của thế giới
được coi là một công cụ chính sách vĩ mô quan trọng nhằm thực
hiện các mục tiêu như thúc đẩy kinh tế phát triển, ổn định giá trị nội
tệ, đảm bảo cân bằng đối nội và đối ngoại, kích thích xuất khẩu…
Chính vì vậy, việc điều chỉnh tỷ giá nhằm đạt được những thành quả
kinh tế nhất định trong vài thập niên gần đây đã và đang là một vấn
đề hết sức quan trọng. Đây cũng là đề tài được các nhà kinh tế đặc
biệt quan tâm nghiên cứu nhằm tìm ra chính sách điều hành tỷ giá
tối ưu nhất cho nền kinh tế của một quốc gia.
Phá giá tiền tệ là một biện pháp điều chỉnh tỷ giá trong đó nó
làm giảm giá đồng nội tệ, do đó thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập
khẩu, phát triển sản xuất hướng ngoại, tạo công ăn việc làm, giảm
thất nghiệp… Tuy nhiên phá giá đồng nội tệ là một quyết định hết
sức khó khăn và nhạy cảm vì nó ảnh hưởng đến rất nhiều khía cạnh
khác nhau của hoạt động kinh tế, xã hội và đời sống người dân nói
chung. Đồng thời nó cũng là một biện pháp mạnh đối với nền kinh
tế, vì vậy nếu không có những biện pháp điều hành hợp lý sẽ có thể
gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Thực tế này đòi hỏi chúng ta
1
phải nghiên cứu vấn đề phá giá một cách kỹ lưỡng về cả mặt lý luận
và thực tiễn.
Do phá giá tiền tệ ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu và nhập
khẩu của một quốc gia nên một câu hỏi thường được đặt ra cho các
nhà kinh tế và hoạch định chính sách là: “Liệu phá giá tiền tệ có
giúp cải thiện tình hình Cán cân thương mại và Tài khoản vãng lai?”
Có nhiều lý thuyết khác nhau về phá giá tiền tệ đã nỗ lực trả lời cho
câu hỏi này, trong đó không thể không kể đến một lý thuyết đã xuất
hiện khá sớm và giải thích câu hỏi này một cách khá đơn giản
nhưng hợp lý – đó là lý thuyết về hiệu ứng tuyến J (J – curve
effect).
Xuất phát từ những vấn đề thực tiễn nêu trên em đã lựa chọn
đề tài “Hiệu ứng tuyến J trong phá giá tiền tệ: Lý thuyết, thực
tiễn một số nước và những khuyến nghị rút ra cho Việt Nam”
làm nội dung của khóa luận tốt nghiệp này.
2. Mục đích nghiên cứu
Về mặt lý thuyết, khóa luận xin đi vào nghiên cứu những lý
thuyết cơ bản xoay quanh vấn đề hiệu ứng tuyến J trong phá giá tiền
tệ như tỷ giá hối đoái, phá giá, Cán cân thanh toán quốc tế, đặc biệt
là lý thuyết về hiệu ứng tuyến J trong phá giá tiền tệ.
Về mặt thực tiễn, thông qua việc nghiên cứu thực tiễn phá giá
tại một số quốc gia trên thế giới cụ thể là phá giá tại Mexico năm
1994, tại Thái Lan năm 1997 và tại Trung Quốc năm 1994 khóa
luận xin rút ra một số nhận xét về lý thuyết hiệu ứng tuyến J trong
2
thực tiễn phá giá đồng thời tổng kết một số bài học kinh nghiệm về
phá giá cho Việt Nam.
Cuối cùng, dựa trên những nghiên cứu về lý thuyết và thực
tiễn về phá giá và hiệu ứng tuyến J khóa luận xin đưa ra khuyến
nghị một số điều kiện để Việt Nam có thể phá giá thành công đồng
thời trình bày quan điểm cá nhân về vấn đề liệu Việt Nam có nên
tiến hành phá giá trong thời điểm hiện tại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hiệu ứng tuyến J trong phá giá tiền
tệ
Phạm vi nghiên cứu: Thực tiễn phá giá tiền tệ và hiệu ứng
tuyến J trong phá giá tiền tệ trong một số cuộc phá giá điển hình tại
một số nước đang phát triển: Mexico năm 1994, Thái Lan năm 1997
và Argentina năm 2002.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu, phân loại, so sánh
- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp số liệu
- Lý thuyết kinh tế vĩ mô
5. Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp
Ngoài lời nói đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo,
khóa luận gồm 3 chương sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về phá giá tiền tệ và
hiệu ứng tuyến J trong phá giá tiền tệ
Chương II: Thực tiễn về hiệu ứng tuyến J trong phá giá tiền tệ
tại một số quốc gia trên thế giới
Chương III: Những khuyến nghị rút ra cho Việt Nam trên cơ sở
phân tích hiệu ứng tuyến J trong phá giá tiền tệ
3
Các vấn đề liên quan đến tỷ giá hối đoái và chính sách tiền tệ
của một quốc gia thường là những vấn đề hết sức phức tạp, nhất là
trong xu thế quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng mở rộng và phức tạp
như hiện nay. Thêm vào đó, do hạn chế về kinh nghiệm, thời gian
và nguồn tài liệu nên khóa luận không thể tránh khỏi những sai sót,
hạn chế. Vì vậy em rất mong nhận được sự phê bình góp ý từ phía
thày cô và bạn đọc để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Em cũng xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến TS. Đặng
Thị Nhàn, người đã tận tình hướng dẫn giúp em hoàn thành khóa
luận này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các thày cô giáo
trường Ngoại Thương trong 4 năm qua đã tận tâm giảng dạy, trang
bị cho chúng em những kiến thức hết sức bổ ích cho sự nghiệp sau
này.
4
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁ
GIÁ TIỀN TỆ VÀ HIỆU ỨNG TUYẾN J
I. Những vấn đề cơ bản về phá giá tiền tệ
1. Tỷ giá hối đoái
1.1. Khái niệm tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái được định nghĩa một cách căn bản như sau:
“Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh giữa hai tiền tệ của hai quốc gia
với nhau”1.
Khi quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia ngày càng đa
dạng và phức tạp, tỷ giá được định nghĩa một cách đơn giản hơn là
“giá cả của một đơn vị tiền tệ của một quốc gia này thể hiện bằng
giá cả một đơn vị tiền tệ của một quốc gia khác”.
Có hai phương pháp yết giá tỷ giá hối đoái, phương pháp yết
giá trực tiếp và phương pháp yết giá gián tiếp. Đối với từng phương
pháp yết giá sẽ có cách định nghĩa tỷ giá hối đoái thích hợp.
Theo phương pháp yết giá gián tiếp: “Tỷ giá hối đoái là giá
của một đồng nội tệ tính theo đơn vị ngoại tệ”. Khái niệm này được
sử dụng ở một số ít quốc gia như Anh, Mỹ (những quốc gia có đồng
nội tệ mạnh). Yết giá theo phương pháp này, giá ngoại tệ sẽ không
được thể hiện trực tiếp ra bên ngoài mà được thể hiện gián tiếp qua
đồng nội tệ.
Theo phương pháp yết giá trực tiếp: “Tỷ giá hối đoái là giá
của đồng ngoại tệ tính theo đơn vị nội tệ”. Đa số các quốc gia trên
thế giới sử dụng phương pháp yết giá này, trong đó có Việt Nam.
1
Đinh Xuân Trình, Giáo trình thanh toán quốc tế, Nxb Lao động xã hội, 2006, trang 46
5
Theo phương pháp này, giá ngoại tệ thể hiện trực tiếp qua đồng nội
tệ.
Pháp lệnh ngoại hối số 28/2005/PL – UBTVQH11 định nghĩa:
“tỷ giá hối đoái là giá của một đơn vị tiền tệ nước ngoài tính bằng
đơn vị tiền tệ của Việt Nam" 2. Trong phạm vi đề tài, nếu không có
ghi chú gì thêm thì các thuật ngữ “tỷ giá hối đoái”, “tỷ giá ngoại tệ”,
“tỷ giá” (e) được sử dụng với cùng một nội dung đó là số đơn vị nội
tệ mua được một đơn vị ngoại tệ hay tỷ giá hối đoái là giá của một
đơn vị ngoại tệ tính bằng đồng nội tệ.
1.2. Phân loại tỷ giá hối đoái
Có nhiều cơ sở để phân loại tỷ giá hối đoái, tuy nhiên trong
phạm vi nghiên cứu đề tài chỉ đề cập đến cách phân loại dựa trên
tính chất tác động của tỷ giá tới thương mại quốc tế. Đó là tỷ giá hối
đoái là tỷ giá hối đoái danh nghĩa (nominal exchange rate) và tỷ giá
hối đoái thực tế (real exchange rate).
1.2.1. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa thể hiện số đơn vị nội tệ đổi được
bằng một đơn vị ngoại tệ. Ví dụ, nếu tỷ giá hối đoái danh nghĩa là
110 JPY trên một USD tức người ta có thể dùng 1 USD để đối lấy
110 JPY.
Những giao dịch về tiền tệ diễn ra trên thị trường ngoại hối
(foreign exchange market), trong đó tỷ giá hối đoái danh nghĩa (hay
thường gọi đơn giản là tỷ giá hối đoái) được ký hiệu là ℮, tính bằng
số đơn vị nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ.
2
Ủy ban thường vụ Quốc Hội, Pháp lệnh ngoại hối, điều 4, khoản 9, Nxb Chính trị quốc gia, 2006, trang 12
6
1.2.2. Tỷ giá hối đoái thực tế
Tỷ giá hối đoái thực tế thể hiện số đơn vị hàng hóa quốc tế có
thể đổi được bằng một đơn vị hàng hóa trong nước.
Nói cách khác, tỷ giá hối đoái thực tế là mức tương quan giữa
giá cả hàng hóa trong nước so với giá cả hàng hóa quốc tế.
Có thể tính tỷ giá hối đoái thực tế theo công thức sau:
℮r ═ ℮×P / P*
Trong đó: - ℮r là tỷ giá hối đoái thực tế
- P là giá hàng hóa trong nước
- P* là giá hàng hóa quốc tế
Như vậy, khi tỷ giá hối đoái thực tế tăng nghĩa là hàng hóa
quốc gia đó sản xuất đắt lên một cách tương đối so với hàng hóa
nước ngoài. Điều này sẽ làm ảnh hưởng tới tình hình xuất nhập
khẩu của một quốc gia.
1.3. Các chế độ tỷ giá hối đoái
Chế độ tỷ giá hối đoái là cách thức một đất nước quản lý đồng
tiền của mình trong mối liên hệ với các đồng tiền nước ngoài và
quản lý thị trường ngoại hối.
Chế độ tỷ giá hối đoái ở mỗi quốc gia và mỗi thời kỳ có thể
khác nhau, nhưng nhìn chung về cơ bản có ba loại là chế độ tỷ giá
“thả nổi” theo đó những biến động trong tỷ giá hoàn toàn do tác
động của thị trường, chế độ tỷ giá hối đoái “cố định” theo đó nhà
nước sẽ can thiệp để tỷ giá giữa đồng nội tệ và đồng tiền của (các)
7
quốc gia khác không đổi và một chế độ tỷ giá kết hợp nằm giữa hai
chế độ trên theo các mức độ khác nhau.
1.3.1. Chế độ tỷ giá cố định
Chế độ tỷ giá cố định là chế độ tỷ giá trong đó Ngân hàng
Trung Ương (NHTW) hay các nhà làm chính sách tiền tệ công bố
và cam kết can thiệp để duy trì một mức tỷ giá cố định (gọi là tỷ giá
trung tâm) trong một biên độ hẹp đã được định trước. Như vậy,
trong chế độ tỷ giá cố định NHTW buộc phải mua vào hoặc bán ra
đồng nội tệ trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì cố định tỷ giá
trung tâm và duy trì sự biến động của nó trong biên độ định trước
đó. Để tiến hành những can thiệp này, NHTW buộc phải có một
nguồn dự trữ ngoại hối nhất định.
1.3.2. Chế độ tỷ giá thả nổi
Trong chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn, NHTW hay các nhà
quản lý không can thiệp mua hay bán đồng tiền của mình trên thị
trường ngoại hối. Tỷ giá hối đoái hình thành và biến động hoàn toàn
tự do theo sự biến động cung cầu trên thị trường. Bản chất của tỷ
giá thả nổi là tỷ giá điều chỉnh để bắt kịp với những thay đối của
cung và cầu tiền tệ. Trong chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn, sự biến
động của tỷ giá hối đoái là không có giới hạn và luôn phản ánh quan
hệ cung – cầu thực tế của thị trường. Chính phủ tham gia vào thị
trường ngoại hối với tư cách là một thành viên độc lập, nghĩa là
Chính phủ có thể mua vào hoặc bán ra một đồng tiền nhất định để
8
phục vụ hoạt động của mình chứ không nhằm mục đích can thiệp
điều chỉnh hay cố định tỷ giá trên thị trường.
Hiện nay, nhiều quốc gia theo chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết
(managed floating) trong đó tỷ giá được thả nổi, tự do biến động
theo thị trường nhưng vẫn có sự điều tiết của Chính phủ nhằm định
hướng tỷ giá biến động sao cho phù hợp và có lợi nhất cho nền kinh
tế.
1.3.3. Chế độ tỷ giá hỗn hợp
NHTW có can thiệp vào việc quyết định tỷ giá hối đoái nhưng
không ấn định nó mà chỉ can thiệp ở một mức độ nào đó. Về bản
chất, đây chính là chế độ kết hợp giữa chế độ cố định và chế độ thả
nổi theo nhiều mức độ khác nhau. Mức độ can thiệp của Chính phủ
trong chế độ này có thể khác nhau với những biện pháp khác nhau,
tùy theo tình hình thực tế của thị trường và mục tiêu chính sách của
quốc gia đó.
Tỷ giá là một biến số kinh tế tác động đến hầu hết các mặt
hoạt động của nền kinh tế, nhưng hiệu quả ảnh hưởng của tỷ giá lên
các hoạt động khác nhau là rất khác nhau. Trong đó, hiệu quả tác
động của tỷ giá đến hoạt động xuất nhập khẩu là rõ ràng và nhanh
chóng, chính vì vậy trong điều kiện mở cửa nền kinh tế, hội nhập và
tự do hóa thương mại quốc tế như hiện nay, các quốc gia luôn sử
dụng tỷ giá trước hết như một công cụ hữu hiệu để điều chỉnh hoạt
động xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ của mình.
9
Trong số các chính sách điều chỉnh tỷ giá, phá giá là một công
cụ khá hiệu quả nhằm thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Vậy
phá giá tiền tệ là gì? Tại sao phá giá tiền tệ lại có tác động tích cực
đến tình hình xuất khẩu của một quốc gia? Trong các phần tiếp theo
khóa luận xin đi sâu nghiên cứu vấn đề này.
2. Định nghĩa phá giá tiền tệ
Phá giá tiền tệ (devaluation) là việc một quốc gia làm giảm
giá đồng nội tệ của mình so với đồng ngoại tệ, khiến đồng nội tệ
mất giá ở một mức độ nào đó. Biểu hiện bên ngoài của phá giá tiền
tệ là sự tăng lên của tỷ giá danh nghĩa. Bản chất của vấn đề này
chính là một quốc gia đánh tụt sức mua danh nghĩa đồng nội tệ so
với các ngoại tệ.
Hiện nay, có hai thuật ngữ trong tiếng Anh cùng mô tả hiện
tượng một đồng tiền bị giảm giá so với một đồng ngoại tệ là
devaluation và depreciation. Theo cách sử dụng thông dụng, thuật
ngữ devaluation được sử dụng nhằm thể hiện sự giảm giá chính
thức đồng nội tệ của một quốc gia trong chế độ tỷ giá cố định khi cơ
quan điều hành tiền tệ (thường là NHTW) công bố một mức tỷ giá
cố định mới đối với một đồng ngoại tệ. Trong khi đó, thuật ngữ
depreciation được sử dụng để mô tả sự giảm giá của đồng nội tệ
một cách không chính thức trong chế độ tỷ giá thả nổi. Nhưng sự
khác nhau này chỉ còn mang tính thuật ngữ. Trên thực tế, hai thuật
ngữ này đang được sử dụng với cùng một ý nghĩa chỉ sự mất giá của
10
một đồng tiền hay sự tăng lên của tỷ giá danh nghĩa giữa đồng tiền
ấy so với một đồng ngoại tệ.
3. Tác động của phá giá tiền tệ lên nền kinh tế
3.1. Tác động tích cực
Phá giá nội tệ có những tác động tích cực lên nền kinh tế,
Chính phủ một quốc gia thường tiến hành phá giá tiền tệ nhằm mục
đích cải thiện tình trạng Cán cân thương mại và Tài khoản vãng lai
hoặc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giảm thất nghiệp.
Trước tiên, do sự thay đổi tỷ giá có ảnh hưởng trực tiếp đến
tình hình xuất nhập khẩu, phá giá sẽ giúp tăng xuất khẩu, hạn chế
nhập khẩu và cải thiện tình trạng của Cán cân thương mại và Tài
khoản vãng lai. Khi đồng nội tệ mất giá, cầu về hàng xuất khẩu của
quốc gia đó tại thị trường nước ngoài sẽ tăng lên do giá cả rẻ đi một
cách tương đối, còn cầu về hàng nhập khẩu tại thị trường nội địa
giảm do giá hàng nhập khẩu đắt lên một cách tương đối khiến người
tiêu dùng chuyển sang sử dụng các hàng hóa thay thế nhập khẩu
được sản xuất trong nước (rẻ hơn). Tuy nhiên, tác động này cần một
khoảng thời gian mới phát huy tác dụng.
Ngoài ra, phá giá cũng giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Phá
giá sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp xuất khẩu và các doanh nghiệp sản
xuất hàng thay thế nhập khẩu trong nước mở rộng sản xuất. Đồng
thời, với lợi thế cạnh tranh của phá giá tiền tệ là sự rẻ đi tương đối
của hàng hóa xuất khẩu sẽ dẫn đến xuất khẩu ròng tăng và tổng cầu
tăng. Nếu nền kinh tế đang sản xuất dưới mức sản lượng tiềm năng,
11
các nguồn lực nhàn rỗi sẽ được huy động làm tổng cung tăng lên,
nền kinh tế tăng trưởng.
3.2. Tác động tiêu cực
Bên cạnh các tác động tích cực, phá giá tiền tệ cũng có những
ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế. Khi phá giá tiền tệ, một quốc
gia sẽ phải đối mặt với nguy cơ lạm phát tăng cao, người dân mất
lòng tin vào chính sách tỷ giá của Chính phủ, đồng thời gánh nặng
nợ nước ngoài cũng tăng lên do đồng tiền quốc gia bị mất giá…
Thứ nhất, do độ trễ về mặt thời gian khiến trong ngắn hạn giá
hàng nhập khẩu tăng cao, giá trị hàng nhập khẩu tính theo đồng nội
tệ tăng còn giá trị hàng xuất khẩu tính theo ngoại tệ giảm. Điều này
có thể gây ra phản ứng xấu đi của Cán cân thương mại và Tài khoản
vãng lai trong thời gian đầu sau khi phá giá.
Thứ hai, phá giá nội tệ khiến rủi ro lạm phát của quốc gia đó
tăng cao. Ngay sau khi phá giá, giá cả các hàng hóa nhập khẩu sẽ
tăng cao. Thêm vào đó là chi phí đầu vào có nhiều nguy cơ tăng đối
với các doanh nghiệp sản xuất phải nhập khẩu đầu vào. Hơn nữa,
nếu nền kinh tế đã sản xuất ở mức sản lượng tiềm năng (tức không
còn nhiều nguồn lực nhàn rỗi), mức tăng không đáng kể trong tổng
cung không đáp ứng đủ mức tăng trong tổng cầu do lợi thế cạnh
tranh của phá giá đem lại. Kết quả là mức giá sẽ tăng lên, lợi thế
cạnh tranh doanh nghiệp xuất khẩu có được khi phá giá không còn.
Thông thường, một quốc gia thường phải đánh đổi một giá trị thấp
của đồng nội tệ bằng một tỷ lệ lạm phát cao.
12
Tổng cầu tăng cao còn triệt tiêu lợi thế cạnh tranh của động
thái phá giá. Do vậy, Chính phủ cần phải thực hiện chính sách tài
khóa thắt chặt (giảm chi tiêu Chính phủ hoặc tăng thuế) kèm theo
nhằm hạn chế sự tăng lên của tổng cầu, theo đó ngăn chặn sự tăng
giá trong nước.
Trong dài hạn, giá cả trong nước vẫn có nguy cơ tăng do các
áp lực từ phía tổng cung. Một là, giá cả hàng nhập khẩu đắt lên
khiến chi phí sản xuất của các doanh nghiệp sử dụng đầu vào nhập
khẩu tăng dẫn đến tăng giá. Hai là, người tiêu dùng sử dụng hàng
nhập khẩu giá cao hơn sẽ có nhu cầu tăng lương gây áp lực tiền
lương tăng. Cuối cùng, việc tăng giá và tiền lương sẽ triệt tiêu lợi
thế cạnh tranh của phá giá. Có thể nói, phá giá đồng tiền danh nghĩa
không thể ảnh hưởng đến các biến số thực tế của nền kinh tế trong
dài hạn.
Thứ ba, phá giá mạnh đồng nội tệ sẽ khiến gánh nặng nợ nước
ngoài của quốc gia đó tăng lên do cần nhiều nội tệ hơn để trả các
khoản nợ nước ngoài.
Ngoài ra, phá giá tiền tệ còn có thể khiến người dân mất lòng
tin vào giá trị đồng nội tệ và chính sách điều hành tỷ giá của Chính
phủ. Kết quả là hiện tượng đầu cơ vào các ngoại tệ mạnh (thường là
USD) hay hiện tượng đô la hóa trở nên phổ biến gây mất ổn định thị
trưởng tiền tệ.
13
4. Nguyên nhân Chính phủ thực hiện phá giá tiền tệ
Đối với một quốc gia có chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn hoặc
có quản lý, Chính phủ có thể sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối để can
thiệp lên tỷ giá hối đoái và tiến hành phá giá đồng tiền. Cụ thể
Chính phủ có thể giảm cung ngoại tệ và tăng cung nội tệ trên thị
trường nhằm làm giảm giá trị đồng nội tệ bằng cách in thêm nội tệ
để mua vào ngoại tệ. Đối với một quốc gia theo chế độ tỷ giá cố
định, Chính phủ muốn phá giá đơn giản chỉ cần tuyên bố một mức
tỷ giá mới cao hơn mức tỷ giá cũ.
Phá giá tiền tệ có tác động không nhỏ đến nền kinh tế, cả theo
hướng tích cực và tiêu cực. Và có rất nhiều nguyên nhân khiến
Chính phủ thực hiện phá giá tiền tệ, cả nguyên nhân chủ quan cũng
như nguyên nhân khách quan.
4.1. Nguyên nhân chủ quan
Chính phủ chủ động muốn phá giá đồng tiền nhằm thực hiện
một mục tiêu kinh tế, xã hội nhất định nào đó. Trong trường hợp
này, Chính phủ thường lựa chọn giải pháp phá giá khi quốc gia đang
ở trong tình trạng kém tăng trưởng, thất nghiệp cao hoặc đồng nội tệ
của quốc gia đó đang được định giá quá cao so với giá trị thực, gây
bất lợi cho hoạt động xuất khẩu. Như vậy, có hai nguyên nhân chính
khiến Chính phủ muốn chủ động phá giá đồng tiền nước mình.
Thứ nhất, Chính phủ muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong điều kiện nền kinh tế quốc gia kém tăng trưởng, tỷ lệ thất
nghiệp cao Chính phủ tiến hành phá giá nhằm tạo ra động lực tăng
14
trưởng, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế và giảm thất nghiệp. Phá
giá tiền tệ sẽ ảnh hưởng trực tiếp lên hoạt động xuất nhập khẩu của
một quốc gia, thúc đẩy các doanh nghiệp xuất khẩu mở rộng quy
mô sản xuất, cùng với đó là các doanh nghiệp sản xuất hàng thay
thế nhập khẩu trong nước tăng sản lượng nhằm đáp ứng nhu cầu
tăng lên của bộ phận người tiêu dùng thường sử dụng hàng nhập
khẩu trước phá giá. Nhờ đó, tình trạng thất nghiệp trong nước sẽ
phần nào được cải thiện, nền kinh tế từng bước tăng trưởng.
Thứ hai, Chính phủ muốn cải thiện Cán cân thương mại của
quốc gia. Đồng nội tệ bị định giá quá cao trong một thời gian dài
gây tác động không tốt đến tình hình xuất nhập khẩu và sự phát
triển kinh tế, do vậy Chính phủ muốn phá giá nhằm mục đích cải
thiện Cán cân thương mại và lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu của
quốc gia. Lý do đồng nội tệ bị định giá quá cao có thể do Chính phủ
đã duy trì một chế độ tỷ giá cố định trong một khoảng thời gian dài
khiến tỷ giá hối đoái không còn phản ánh chân thực nhu cầu và giá
trị thực của đồng tiền trên thị trường, nhập khẩu hàng hóa nước
ngoài ồ ạt (do giá cả rẻ một cách tương đối so với hàng hóa cùng
loại sản xuất trong nước) còn hàng xuất khẩu không có khả năng
cạnh tranh về giá cả với hàng hóa tương tự từ các nước khác có mức
giá tương đối rẻ hơn. Chính phủ do lo ngại tình trạng Cán cân
thương mại và Tài khoản vãng lai thâm hụt liên tục nên quyết định
tiến hành phá giá.
15
4.2. Nguyên nhân khách quan
Chính phủ cũng có thể buộc phải tiến hành phá giá do cầu
ngoại tệ trên thị trường đột ngột tăng mạnh. Điều này đặc biệt đúng
trong trường hợp Chính phủ cố ghìm giữ một mức tỷ giá thấp, đẩy
giá trị đồng nội tệ lên cao hơn nhiều so với giá trị thực tế trên thị
trường. Mục đích của việc ghìm giữ tỷ giá này có thể do quốc gia đó
đã cam kết duy trì chế độ tỷ giá cố định và họ sợ mất uy tín khi phá
giá; hoặc cũng có thể họ muốn duy trì một giá trị ổn định cho đồng
tiền của mình, tránh những tác động tiêu cực của biến động tỷ giá
tới nền kinh tế.
Tuy nhiên, nếu Chính phủ cố ghìm giữ tỷ giá trong một thời
gian dài sẽ ảnh hưởng xấu lên nền kinh tế, không khuyến khích
được xuất khẩu, ảnh hưởng tới sức sản xuất. Quan trọng hơn là nếu
tình trạng này kéo dài quá lâu nhà nước sẽ không đủ khả năng can
thiệp nhằm giữ vững mức tỷ giá đã đặt ra do áp lực của thị trường
khi có biến động kinh tế là rất lớn.
Áp lực ở đây được hiểu là do cầu ngoại tệ trên thị trường tăng
mạnh. Như ta đã biết, khi cầu ngoại tệ tăng sẽ làm tăng tỷ giá (có
thể hiểu là khi cầu ngoại tệ tăng nhưng cung ngoại tệ vẫn cố định sẽ
dẫn đến giá ngoại tệ tăng cao, cần nhiều đồng nội tệ hơn để đổi lấy
một ngoại tệ). Do cam kết duy trì mức tỷ giá cố định, Chính phủ cần
bán ra ngoại tệ, mua vào nội tệ nhằm tăng cung ngoại tệ đáp ứng
nhu cầu trên thị trường đồng thời giảm cung nội tệ nhằm tăng giá trị
của đồng tiền nước mình. Động thái này sẽ trung hòa những biến
16
động trên thị trường, giúp tỷ giá đứng vững ở mức tỷ giá trung tâm
đã quy định. Dần dần, dự trữ ngoại hối của Chính phủ sẽ cạn kiệt,
Chính phủ không còn khả năng duy trì mức tỷ giá cố định. Do vậy,
họ buộc phải tuyên bố phá giá. Như vậy, mọi nguyên nhân làm cho
cầu ngoại ngoại tệ tăng đột ngột ngoái tầm kiểm soát của Nhà nước
đều có tiềm năng dẫn đến một cuộc phá giá.
II. Tác động của phá giá lên Cán cân thanh toán quốc tế của
một quốc gia qua cách tiếp cận co giãn
1. Cán cân thanh toán quốc tế
1.1. Định nghĩa Cán cân thanh toán quốc tế
Cán cân thanh toán quốc tế (Balance of Payments – BOP) là
một bản báo cáo thống kê tổng hợp có hệ thống, ghi chép lại giá trị
tất cả các giao dịch kinh tế giữa người cư trú với người không cư
trú trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm.3
Theo nghị định số 164/1999/NĐ-CP, Cán cân thanh toán quốc
tế của Việt Nam được định nghĩa “là bảng tổng hợp có hệ thống
toàn bộ các chỉ tiêu về giao dịch kinh tế giữa Người cư trú và
Người không cư trú trong một thời kỳ nhất định”.
Người cư trú và người không cư trú bao gồm tất cả các cá
nhân, hộ gia đình, công ty, nhà chức trách và các tổ chức quốc tế.
Căn cứ xác định người cư trú và người không cư trú phụ thuộc vào
luật định của mỗi quốc gia, tuy nhiên luật định này tương đối thống
nhất. Để trở thành người cư trú của một quốc gia cần hội tụ đủ hai
tiêu chí (i) có thời hạn cư trú tại quốc gia đó từ 12 tháng trở lên và
3
Nguyễn Văn Tiến, Tài chính quốc tế, Nxb Thống kê, 2007, trang 95
17
(ii) có nguồn thu nhập từ quốc gia nơi cư trú. Nếu không hội tụ đủ
cả hai điều kiện sẽ thuộc nhóm đối tượng không cư trú.
1.2. Kết cấu nội dung của Cán cân thanh toán quốc tế
Kết cấu nội dung của Cán cân thanh toán quốc tế bao gồm 4
bộ phận chính là Cán cân vãng lai (thường được gọi là Cán cân
vãng lai – Current Account), Cán cân vốn (Capital Account), Cán
cân tổng thể (Overall Balance) và phần bù đắp chính thức (Official
Financing Balance). Có thể tổng hợp cấu trúc của Cán cân thanh
toán quốc tế của một quốc gia như bảng sau:
Bảng 1: Cấu trúc Cán cân thanh toán quốc tế (BOP)
CA
CÁN CÂN VÃNG LAI
TB Cán cân thương mại (Xuất khẩu và nhập khẩu)
SE
Cán cân dịch vụ
IC
Cán cân thu nhập
Tr
Chuyển giao vãng lai một chiều
K(A)
CÁN CÂN VỐN
KL Cán cân vốn dài hạn
KS Cán cân vốn ngắn hạn
KTr Chuyển giao vốn một chiều
OM
NHẦM LẪN VÀ SAI SÓT
OB
CÁN CÂN TỔNG THỂ
OFB
BÙ ĐẮP CHÍNH THỨC
∆R Thay đổi dự trữ ngoại hối của quốc gia
L
Tín dụng với IMF và các NHTW khác
18
≠
Thay đổi dự trữ của các NHTW khác bằng đồng tiền của
quốc gia lập BOP
1.2.1. Cán cân vãng lai
Cán cân vãng lai tổng hợp toàn bộ các giao dịch kinh tế giữa
người cư trú và người không cư trú về hàng hóa, dịch vụ, thu nhập
của người lao động, thu nhập từ đầu tư trực tiếp, thu nhập từ đầu tư
vào giấy tờ có giá, lãi vay và lãi tiền gửi nước ngoài, chuyển giao
vãng lai một chiều và một số giao dịch khác.
Cán cân vãng lai là tổng của Cán cân thương mại và Cán cân
dịch vụ.
Cán cân thương mại (Trade Balance - TB) của một quốc gia
phản ánh khoản chênh lệch giữa số tiền thu về từ bán hàng xuất
khẩu với khoản tiền chi ra cho hàng nhập khẩu. Cả hai khoản này
đều có thể quan sát được qua số liệu xuất nhập khẩu qua biên giới
nên Cán cân thương mại đôi khi còn được gọi là cán cân hữu hình.
Cán cân thương mại luôn chiếm một tỷ trọng lớn và là có ảnh hưởng
đến tình trạng của Cán cân vãng lai.
Cán cân dịch vụ (hay Cán cân thương mại vô hình) là cán cân
phản ánh khoản chênh lệch giữa số tiền nhận từ xuất khẩu dịch vụ
và các khoản trả cho nhập khẩu dịch vụ (như vận chuyển du lịch,
bảo hiểm, ngân hàng). Ngoài ra, các khoản thu và chi cho tiền lãi,
tiền cổ tức, các khoản lợi nhuận cũng được ghi trong cán cân vô
hình vì chúng phản ánh phần lợi tức thu được từ đầu tư vào các
19
công ty nước ngoài, cổ phiếu và trái phiếu cũng như phần lợi tức mà
cư dân nước ngoài được hưởng từ việc đầu tư vào nền kinh tế nước
bản địa.
Đặc trưng cơ bản của Cán cân vãng lai là nó phản ánh các
khoản thu chi mang tính thu nhập, nghĩa là các khoản thu chi phản
ánh việc chuyển giao quyền sở hữu về tài sản giữa người cư trú và
người không cư trú.
Trong Cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá chỉ có tác động trực
tiếp đến các hạng mục thuộc Cán cân thương mại và Cán cân dịch
vụ. Do đó, trong thực tế khi nói đến mục tiêu của phá giá tiền tệ
người ta thường hiểu là mục tiêu điều chỉnh Cán cân vãng lai, mà cụ
thể là điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ của
một quốc gia.
1.2.2. Cán cân vốn
Cán cân vốn được tổng hợp toàn bộ các chỉ tiêu về giao dịch
kinh tế giữa Người cư trú với Người không cư trú về chuyển vốn từ
nước ngoài vào trong nước và chuyển vốn từ trong nước ra nước
ngoài trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp, đầu tư vào giấy tờ có giá, vay
và trả nợ nước ngoài, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài, chuyển
giao vốn một chiều, các hình thức đầu tư khác và các giao dịch khác
theo quy định làm tăng hoặc giảm tài sản có hoặc tài sản nợ.
Cán cân vốn bao gồm cán cân vốn dài hạn, cán cân vốn ngắn
hạn và chuyển giao vốn một chiều.
Đặc trưng cơ bản của Cán cân vốn là nó phản ánh các khoản
thu chi liên quan đến tài sản có và tài sản nợ, nghĩa là các khoản thu
20
- Xem thêm -