Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Hiệu quả kinh tế cây chè của các nông hộ trên địa bàn huyện anh sơn tỉnh nghệ an...

Tài liệu Hiệu quả kinh tế cây chè của các nông hộ trên địa bàn huyện anh sơn tỉnh nghệ an

.PDF
71
374
77

Mô tả:

Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Đức Kiên TÓM TẮT NGHIÊN CỨU Phát triển cây công nghiệp lâu năm có ý nghĩa to lớn trong việc xóa đói giảm nghèo, làm tăng thêm thu nhập cho người nông dân, sử dụng hợp lý tài nguyên, lao động, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và nguồn xuất khẩu. Với xu thế phát triển CNH - HĐH như hiện nay, phát triển cây lâu năm ngày càng đóng vai trò quan trọng cho cung cấp nguyên liệu sản xuất công nghiệp. Trong đó có sự đóng góp đáng kể của cây chè, là một cây công nghiệp lâu năm có giá trị kinh tế cao, nó rất phù hợp với những vùng cao, vùng núi và đặc biệt với đời sống người dân vùng dân tộc thiểu số, nâng cao thu nhập góp phần xóa đói giảm nghèo cho nhân dân địa phương ở đó. Nhận thức được điều đó tôi đã chọn đề tài " Hiệu quả kinh tế cây chè của các nông hộ trên địa bàn huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An". Mục đích nghiên cứu - Phân tích đánh giá thực trạng tình hình phát triển của cây chè trên địa bàn huyện Anh Sơn từ đó đánh giá hiệu quả kinh tế mang lại từ hoạt động trồng chè. - So sánh hiệu quả kinh tế cây chè giữa các xã với nhau trên địa bàn nghiên cứu. - Từ đó tìm ra các giải pháp từ hoạt động sản xuất đến hoạt động tiêu thụ, đề xuất định hướng phát triển trong tương lai. Phương pháp nghiên cứu + Phương pháp thu thập số liệu + Phương pháp thống kê + Phương pháp điều tra + Phương pháp so sánh + Phương pháp phân tổ + Phương pháp chuyên gia chuyên khảo Kết quả nghiên cứu Cây chè là cây có NPV khá lớn khoảng 3,8 triệu đồng/năm, như vậy sản xuất chè cũng mang lại lợi ích đáng kể cho người dân, không chỉ có lợi ích kinh tế mà cả lợi ích xã hội. Tuy nhiên sản xuất cũng có những bất cập, khó khăn, những năm hạn hán các hộ hầu như không chủ động nước tưới cho nên là năng xuất thấp, không có hộ nào tưới nước cho chè chủ yếu là "nhờ trời". Thời gian cho thu lợi nhuận chậm, đến năm kinh Sinh viên thực hiện: Võ Thị Hoàng Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Đức Kiên doanh thứ 12 nếu tính cả những năm kiến thiết là đến 15 năm mới bắt đầu cho lợi nhuận nhưng mức lợi nhuận cũng không cao. Những năm gần đây mức lợi nhuận chỉ ở mức 14 triệu đồng/ha. Hoạt động sản xuất ở đây cũng còn manh mún, mức độ đầu tư của các hộ chưa thật sự mạnh, tư tưởng trông chờ ỷ lại của người dân còn cao, tính bảo thủ trì trệ của một số cán bộ đảng viên vẫn còn phổ biến. Chính vì thế mà hiệu quả kinh tế của cây chè chưa cao, người nông dân chưa nắm được thế mạnh của mình để khai thác. Sinh viên thực hiện: Võ Thị Hoàng Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Đức Kiên PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Tính cấp thiết của đề tài Cây chè là cây trồng có nguồn gốc nhiệt đới và Á nhiệt đới, sinh trưởng, phát triển tốt trong điều kiện khí hậu nóng và ẩm. Tuy nhiên nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật, cây chè đã được trồng khá xa với nguyên sản của nó. Trên thế giới, cây chè phân bố từ 42 vĩ độ Bắc đến 27 vĩ độ Nam và tập trung chủ yếu ở khu vực từ 16 vĩ độ Bắc đến 20 vĩ độ Nam. Việt Nam là một trong những nước có điều kiện tự nhiên thích hợp cho cây chè phát triển. Lịch sử trồng chè của nước ta đã có từ lâu, cây chè cho năng suất và sản lượng tương đối ổn định và có giá trị kinh tế, tạo việc làm cũng như thu nhập hàng năm cho người lao động,đặc biệt là các tỉnh trung du và miền núi. Nghệ An là một tỉnh miền trung có nhiều điều kiện thuận lợi trong phát triển trồng chè. Và hiện nay diện tích trồng chè ngày càng được mở rộng và đang có nhiều dự án phát triển trồng chè ở nhiều huyện. Việc trồng chè đã mang lại hiệu quả kinh tế cao. Trong những năm qua góp phần tăng thêm thu nhập cho người nông dân đặc biệt là góp phần xóa đói giảm nghèo nâng cao đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số. Anh Sơn là một trong những huyện trọng điểm chè của tỉnh. Quỹ đất trồng chè trong các vùng đã được quy hoạch vẫn còn trên 600 ha. Hiện tại trên địa bàn huyện đã có 03 nhà máy chế biến chè với tổng công suất 100 tấn ngày (cả chè xanh và chè đen). Sản lượng chè tươi cung cấp cho nhà máy chế biến trong những năm gần đây mới đạt từ 13-15 ngàn tấn. Thị trường xuất khẩu chè của trong nước nói chung, tỉnh Nghệ An nói riêng được mở rộng và ổn định. Như vậy nhu cầu nguyên liệu cho nhà máy chế biến và xuất khẩu còn rất lớn. Trong mười năm qua ( Từ năm 2001) huyện Anh Sơn xác định chè là cây mũi nhọn kinh tế, vì vậy cây chè được chú trọng phát triển và đã mang lại hiệu quả kinh tế khá rõ. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi đó việc trồng chè cũng gặp phải những khó khăn trong quá trình sản xuất. Là một huyện miền núi còn nhiều khó khăn cơ sở vật chất kém phát triển gây trở ngại rất lớn đến quá trình tiêu thụ, tiếp cận thị trường, bị ảnh hưởng nhiều về thời tiết khí hậu tác động bất lợi gây nhiểu thiệt hại cho sản xuất và đời Võ Thị Hoàng - K42AKTNN 1 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Đức Kiên sống của nhân dân như sâu hại chè và một số bệnh cây gây ảnh hưởng rất lớn đến sản lượng và chất lượng, giá các loại vật tư phân bón tăng làm giảm mức đầu tư, chất lượng và sản lượng giảm hẳn, gây ảnh hưởng đến năng xuất. Chưa có sự tập trung chỉ đạo quyết liệt từ cấp cơ sở (xã, thôn bản). Trong chỉ đạo điều hành có lúc thiếu tính đồng bộ, thiếu tính kiên quyết. Chính sách hổ trợ trồng chè chưa lớn để tạo động lực cho nhân dân tích cực tham gia. Ngoài ra nguồn vốn cho vay từ hoạt động trồng chè còn hạn chế gây không ít khó khăn đến các hoạt động của dự án. Do vậy phát triển trồng chè cần phải có những giải pháp cụ thể để đảm bảo cho ngành trồng cây lâu năm phát triển ổn định và mạnh mẽ hơn. Để đánh giá đúng hiệu quả kinh tế của cây chè tác động đến đời sống người dân như thế nào để từ đó đưa ra những giải pháp tối ưu để phát triể chè tại địa bàn huyện Anh Sơn cho nên tôi chọn đề tài: "Hiệu quả kinh tế cây chè của các nông dân trên địa bàn huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An" làm nội dung nghiên cứu cho bài khóa luận của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài 2.1.Mục tiêu tổng quát Mục đích mà đề tài hướng đến là đánh giá hiệu quả kinh tế của cây chè của các nông hộ. Từ đó đưa ra định hướng và một số biện pháp chủ yếu nhằm phát triển nâng cao năng suất và mở rộng quy mô diện tích trồng chè trên địa bàn huyện. 2.2. Mục tiêu cụ thể - Phân tích đánh giá thực trạng tình hình phát triển của cây chè trên địa bàn huyện Anh Sơn từ đó đánh giá hiệu quả kinh tế mang lại từ hoạt động trồng chè. - So sánh hiệu quả kinh tế cây chè giữa các xã với nhau trên địa bàn nghiên cứu. - Từ đó tìm ra các giải pháp từ hoạt động sản xuất đến hoạt động tiêu thụ, đề xuất các định hướng phát triển trong tương lai. 2.3. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành đề tài này tôi sử dụng một số phương pháp sau: + Phương pháp thu thập số liệu Số liệu sơ cấp: Chọn ngẫu nhiên 60 nông hộ thuộc 3 xã trong địa bàn huyện để điều tra. phỏng vấn trực tiếp. Võ Thị Hoàng - K42AKTNN 2 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Đức Kiên Số liệu thứ cấp: Thu thập số liệu tại phòng Nông Nghiệp huyện, niên giám thống kê huyện, và tìm hiểu thông tin qua mạng, sách báo... + Phương pháp thống kê: Trình bày các kết quả tổng hợp và phân tích số liệu thống kê, từ đó đánh giá các vấn đề nghiên cứu dưới các khía cạnh khác nhau. + Phương pháp điều tra + Phương pháp so sánh + Phương pháp phân tổ + Phương pháp chuyên gia chuyên khảo 2.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu hiệu quả kinh tế của cây chè của các nông hộ tại địa bàn huyện Anh Sơn. - Phạm vi nghiên cứu: Các hộ nông dân sản xuất chè trên địa bàn huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An, trong đó tập trung nghiên cứu vào các vùng chuyên canh sản xuất chè của huyện Anh Sơn. Về thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng trong thời kỳ 2009-2011 và đề xuất những giải pháp phát triển trong những năm tới. Do thời gian và kiến thức còn hạn hẹp, nên đề tài khó tranh khỏi những sai xót, rất mong sự đóng góp của quý thầy cô để khóa luận được hoàn thiện hơn. Võ Thị Hoàng - K42AKTNN 3 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Đức Kiên PHẦN II NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Cơ sở khoa học về vấn đề nghiên cứu 1.1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1.1. Quan điểm về hiệu quả kinh tế Hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh tế. Quá trình tăng cường lợi dụng các nguồn lực sẵn có phục vụ cho lợi ích của con người, có nghĩa là nâng cao chất lượng của các hoạt động kinh tế. Nâng cao hiệu quả kinh tế là một đòi hỏi khách quan của mọi nền sản xuất xã hội xuất phát từ những nhu cầu vật chất của con người ngày càng tăng. Yêu cầu của công tác quản lý kinh tế đòi hỏi phải nâng cao chất lượng của các hoạt động kinh tế làm xuất hiện phạm trù hiệu quả kinh tế. Xuất phát từ giác độ nghiên cứu khác nhau, các nhà kinh tế đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh tế. + Quan điểm thứ nhất: Trước đây, người ta coi hiệu quả kinh tế là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế. Ngày nay, quan điểm này không còn phù hợp, bởi vì nếu cùng một kết quả xuất nhưng hai mức chi phí khác nhau thì theo quan điểm này chúng có cùng một hiệu quả. + Quan điểm thứ hai: Hiệu quả đạt được xác định bằng nhịp độ tăng trưởng sản phẩm xã hội hoặc thu nhập quốc dân, hiệu quả sẽ cao khi các nhịp độ tăng của các chỉ tiêu đó cao. Nhưng chi phí hoặc nguồn lực được sử dụng tăng nhanh vì sao? Hơn nữa, điều kiện sản xuất năm hiện tại khác với năm trước, yếu tố bên trong và bên ngoài của nền kinh tế có những ảnh hưởng cũng khác nhau. Do đó, quan điểm này chưa được thoả đáng. + Quan điểm thứ ba: Hiệu quả là mức độ hữu ích của sản phẩm được sản xuất ra, tức là giá trị sử dụng chứ không phải là giá trị. + Quan điểm thứ tư: Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu so sánh mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức độ tăng khối lượng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội, của nền kinh tế quốc dân. Võ Thị Hoàng - K42AKTNN 4 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Đức Kiên Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loại hàng hoá mà không cắt sản lượng một loại hàng hoá nào khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên đường khả năng giới hạn sản xuất của nó. Giới hạn khả năng sản xuất được đặc trưng bằng chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc dân tiềm năng (Potential Gross National Produst) là tổng sản phẩm quốc dân cao nhất có thể đạt được, đó là mức sản lượng tương ứng với tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Tỷ lệ giữa tổng sản phẩm quốc dân thực tế với tổng sản phẩm quốc dân tiềm năng là chỉ tiêu hiệu quả. Chỉ tiêu chênh lệch tuyệt đối giữa sản lượng tiềm năng và sản lượng thực tế là phần sản lượng tiềm năng mà xã hội không sử dụng được phần lãng phí. Tuy nhiên, khái niệm tiềm năng phụ thuộc vào lao động tiềm năng là lao động ứng với tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Sản lượng tiềm năng cũng phải ứng với một tỷ lệ huy động tài sản cố định nào đó thì mới hợp lý. Như vậy, có rất nhiều quan điểm về hiệu quả do đó việc xác định khái niệm hiệu quả cần xuất phát từ quan điểm triết học Mác xít và những luận điểm của lý thuyết hệ thống để có cách nhìn nhận và đánh giá đúng đắn. - Một là: Theo quan điểm triết học Mác xít thì bản chất của hiệu quả kinh tế là sự thực hiện yêu cầu của quy luật tiết kiệm thời gian, biểu hiện trình độ sử dụng nguồn lực của xã hội. Các Mác cho rằng, quy luật tiết kiệm thời gian là quy luật có tầm quan trọng đặc biệt, tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất. Mọi hoạt động của con người đều tuân theo quy luật này, nó quy định động lực phát triển của lực lượng sản xuất tạo điều kiện phát triển phát minh xã hội và nâng cao đời sống của con người qua mọi thời đại. - Hai là: Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống thì nền sản xuất xã hội là một hệ thống các yếu tố sản xuất và các quan hệ vật chất hình thành giữa con người với con người trong quá trình sản xuất. Hệ thống sản xuất xã hội bao gồm trong nó các quá trình sản xuất, các phương tiện bảo tồn và tiếp tục đời sống xã hội. Việc bảo tồn và tiếp tục đời sống xã hội đáp ứng các nhu cầu xã hội, nhu cầu của con người là những yếu tố khách quan phản ánh mối liên hệ nhất định của con người đối với môi trường bên ngoài, đó là quá trình trao đổi vật chất, năng lượng giữa sản xuất xã hội và môi trường. Võ Thị Hoàng - K42AKTNN 5 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Đức Kiên - Ba là: Hiệu quả kinh tế là mục tiêu nhưng không phải là mục tiêu cuối cùng mà là mục tiêu phương tiện xuyên suốt mọi hoạt động kinh tế. Trong kế hoạch, hiệu quả là quan hệ so sánh tối ưu giữa đầu ra và đầu vào, là lợi ích lớn nhất thu được với một chi phí nhất định hoặc một kết quả nhất định với chi phí nhỏ nhất. Trong phân tích kinh tế, hiệu quả kinh tế được phản ánh thông qua các chỉ tiêu đặc trưng kinh tế kỹ thuật xác định bằng các tỷ lệ so sánh giữa đầu ra và đầu vào của hệ thống sản xuất xã hội, phản ánh trình độ sử dụng nguồn lực và việc tạo ra lợi ích nhằm đạt được mục tiêu kinh tế - xã hội. Từ những quan điểm khác nhau về hiệu quả như trên ta thấy rằng hiệu quả là một phạm trù trọng tâm và rất cơ bản của hiệu quả kinh tế và quản lý. Hơn nữa việc xác định hiệu quả là vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp về lý luận và cả thực tiễn. Bản chất của hiệu quả xuất phát từ mục đích của sản xuất và phát triển kinh tế xã hội là đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về đời sống vật chất và tinh thần của mọi thành viên trong xã hội. Muốn vậy, sản xuất không ngừng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Quan điểm về hiệu quả trong điều kiện hiện nay là phải thoả mãn vấn đề tiết kiệm thời gian, tài nguyên trong sản xuất mang lại lợi ích xã hội và bảo vệ môi trường. Chính vì vậy mà hiệu quả của một quá trình nào đó cần được đánh giá toàn diện cả ba khía cạnh: Hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường. 1.1.1.2.Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế Như chúng ta đã biết hiệu quả kinh tế là mối tương quan giữa kết quả thu được và lượng chi phí bỏ ra trong một chu kỳ sản xuất. Do đó muốn xác định được hiệu quả kinh tế thì ta phải xác định được kết quả và chi phí bỏ ra. Chi phí bỏ ra trong quá trình kinh doanh là chi phí cho các yếu tố đầu vào như: đất đai, lao động, tiền vốn, nguyên vật liệu... Tùy theo mục đích phân tích và nghiên cứu mà chi phí bỏ ra có thể tính toàn bộ hoặc có thể tính chi phí cho từng yếu tố Sau khi đã xác định được kết quả sản xuất và chi phí bỏ ra chúng ta có thể tính được hiệu quả kinh tế và có thể dùng những phương pháp sau: H Q C H: Hiệu quả kinh tế Q: Kết quả C: Chi phí Võ Thị Hoàng - K42AKTNN 6 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Đức Kiên Phương pháp này phản ánh rõ nét trình độ sử dụng các nuồn lực, xem xét được một đơn vị nguồn lực đã sử dụng đem lại bao nhiêu kết quả, do đó giúp ta so sánh được hiệu quả ở các quy mô khác nhau. Thứ hai, hiệu quả kinh tế được xác định bằng cách so sánh phần tăng thêm của kết quả thu được và phần tăng thêm của chi phí bỏ ra. Công thức được xác định như sau: H Q C H: Hiệu quả kinh tế Q: Phần tăng thêm của kết quả C: Phần tăng thêm của chi phí Phương pháp này được sử dụng trong nghiên cứu đầu tư theo chiều sâu, nó xác định lượng kết quả thu thêm trên một đơn vị chi phí thêm hay nói cách khác một đơn vị chi phí tăng thêm đã tạo bao nhiêu kết quả thu thêm. Với cách tính này nó sẽ cho ta biết được tổng thu nhập, tổng lợi nhuận đạt được một cách chính xác cụ thể hơn và không thể so sánh được hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất sinh doanh có quy mô khác nhau. Như vậy theo như phân tích trên thì hiệu quả kinh tế có rất nhiều cách tính khác nhau mỗi cách tính đều phản ánh một khía cạnh nhất định về hiệu quả kinh tế. Do đó theo từng điều hiện của mỗi doanh nghiệp để chọn cho mình một cách tính phù hợp. 1.1.1.3. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu + Tổng giá trị sản xuất: GO Tổng giá trị sản xuất là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ cho các cơ sở sản xuất thuộc tất cả các ngành nghề kinh tế quốc dân đạt được trong một chu kỳ nhất định thường là 1 năm. Là kết quả hoạt động hữu ích từ các cơ sở sản xuất từ các cơ sở sản xuất đó, giá trị sản xuất bao gồm: Giá trị sản phẩm vật chất: Tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng Giá trị sản phẩm dịch vụ: Phục vụ sản phẩm và phục vụ đời sống GO =  p *i Qi Trong đó: Qi: là khối lượng sản phẩm loại i sản xuất ra (kg) Pi: Là giá bán sản phẩm loại i (1000/kg) Võ Thị Hoàng - K42AKTNN 7 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Đức Kiên + Chi phí trung gian IC: Là bộ phận cấu thành của tổng giá trị sản xuất bao gồm toàn bộ chi phí thường xuyên về vật chất (không kể khấu hao) và chi phí dịch vụ (sản phẩm vật chất và phi vật chất) được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm vật chất và dịch vụ khác của doanh nghiệp trong một thời thời kỳ nhất định (thường là một năm) Chi phí vật chất: Là chi phí do hộ gia đình bỏ ra không qua hoạt động dịch vụ, như chi phí phân bón, vật rẻ tiền mau hỏng được phân bổ trong năm. Chi phí dịch vụ là chi phí cần trong quá trình hoạt động dịch vụ như: Thuê lao động ngoài, thuê máy hái, quản lý phí, trãi lãi vay, phí bốc vác... + Giá trị gia tăng VA: Là phần còn lại sau khi lấy tổng giá trị sản xuất trừ đi chi phí trung gian và được xác định bằng công thức: VA = GO - IC VA: Giá trị gia tăng GO: Tổng giá trị sản xuất IC: Chi phí trung gian + Tổng chi phí sản xuất: là toàn bộ hao phí về vật chất, dịch vụ và lao động đã đầu tư cho tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh trong năm. + GO/IC: Cứ mỗi đơn vị trung gian bỏ ra thì thu được bao nhiêu đồng giá trị sản xuất + VA/IC: Cứ mỗi đơn vị trung gian bỏ ra thì thu được bao nhiêu đồng giá trị gia tăng + Giá trị hiện tại thuần (NPV - Net present value) Giá trị hiện tại thuần là hiệu số của giá trị hiện tại dòng doanh thu (cash inflow) trừ đi giá trị hiện tại dòng chi phí (cash inflow) tính theo lãi xuất chiết khấu lựa chọn. NPV được tính theo công thức sau: n NPV   ( Bt  Ct ) / (1  r ) t t o Trong đó: * Bt: Khoản thu hàng năm của dư án và cả giá trị thanh lý khi hết thời kỳ kinh doanh. * Ct: Là chi phí hàng năm của năm t, và vốn ban đầu bỏ ra để tạo tài sản cố định, và tài sản lưu động ở thời điểm ban đầu và cả thời điểm trung gian. * t - Thời gian tính dòng tiền (chu kỳ sản xuất) * r - Tỉ lệ chiết khấu được chọn Võ Thị Hoàng - K42AKTNN 8 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Đức Kiên 1.1.1.4. Vị trí giá trị của cây chè Chè là cây công nghiệp dài ngày có giá trị kinh tế cao, nó có vị trí quan trọng trong đời sống sinh hoạt và đời sống kinh tế văn hóa của con người. Sản phẩm chè hiện nay được tiêu dung ở khắp các nơi trên trế giới, kể cả các nước không trông chè cũng có nhu cầu lớn về chè. Ngoài tác dụng giải khát chè còn có nhiều tác dụng khác như kích thích thần kinh minh mẫn, tăng cường hoạt động của cơ thể, nâng cao năng lực làm việc, tăng sức đề kháng cho cơ thể… Đối với nước ta sản phẩm chè không chỉ tiêu dung nội địa mà còn là mặt hàng xuất khẩu quan trọng để thu ngoại tệ góp phần xây dựng đất nước. Đối với người dân thì cây chè đã mang lại nguồn thu nhập cao và ổn định,cải thiện đời sống văn hóa xã hội, tạo ra công ăn việc làm cho bộ phận lao động dư thừa nhất là ở các vùng nông thôn. Nếu so sánh cây chè với các loại cây chè khác thì cây chè có giá trị kinh tế cao hơn hẳn,vì cây chè có chu kỳ kinh tế dài, nó có thể sinh trưởng,phát triển và cho sản phẩm liên tục khoảng 30-40 năm, nếu chăm sóc tốt thì chu kỳ này còn kéo dài hơn nữa. Mặt khác cây chè là cây không tranh chấp đất đai với cây lương thực,nó là loại cây trồng thích hợp với vùng đất trung du và miền núi. Chính vì vậy cây chè mang lại giá trị kinh tế cao mà còn góp phần cải thiện môi trường,phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Nếu kết hợp với trông rừng theo phương thức Nông - Lâm kết hợp sẽ tạo nên một vành đai xanh chống xói mòn rửa trôi, góp phần bảo vệ một nền nông nghiệp bền vững. Như vậy, phát triển sản xuất chè đã và đang tạo ra một lượng của cải vật chất lớn cho xã hội,tăng thu nhu nhập cho người dân,cải thiện mức sống ở khu vực nông thôn. Nó góp phần vào việc thúc đẩy nhanh hơn công cuộc Công nghiệp hóa hiện đại hóa nong nghiệp nông thôn, giảm bớt chênh lệch về kinh tế xã hội giữa thành thị và nông thôn, giữa vùng núi cao và đồng bằng. 1.1.1.5. Đặc điểm thực vật học của cây chè Cây chè có tên khoa học là Camellia sinensis là loài cây mà lá và chồi của chúng được sử dụng để sản xuất chè (trà – đừng nhầm với cây hoa trà). Tên gọi sinensis có nghĩa là ‘Trung Quốc’ trong tiếng ‘ La tinh’ Các danh pháp khoa học cũ còn có tên Thea bohea và Thea viridis. Nó là laoij cây xanh lưu niên mọc từng bụi hoặc các cây nhỏ, thông thường Võ Thị Hoàng - K42AKTNN 9 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Đức Kiên được xén tỉa để thấp hơn 2 mét (6 ft) khi được trồng để lấy lá. Là loại cây trồng một lần và thu hoạch nhiều lần. Trong vòng 2-3 năm là thu hoạch và thu hoạch từ 30 – 40 năm. Rễ : Nó có rễ dài là rễ trụ, khi hạt mới nảy mầm rễ phát triển mạnh, sau 3-5 tháng rễ trụ phát triễn chậm lại và rễ biên phát triển mạnh hơn. Từ năm thứ 2-3 rễ trụ và rễ biên phát triển mạnh. Thân chè : Cây chè sinh trưởng trong điều kiện tự nhiên chỉ có một thân chính, trên thân phân thành 3 loại : Thân gỗ : Là loại hình cây to, có thân chính, vị trí phân cành cao. Thân nhỏ: Là loại hình trung gian, có thân chính tương đối rõ rệt, vị trí phân cành thường cao 20-30 cm. Thân bụi (quán mộc) : Không có thân chính rõ rệt, tán cây rộng thấp, phân cành nhiều. Vị trí phân cành cấp 1 ngay gần cổ rễ. Cành chè : Cành chè mọc từ chồi dinh dưỡng trên thân chính gọi là cành 1, mọc từ cành 1 gọi là cành 2, cành 3…Cành nằm tương. Trên cành chia ra nhiều đốt, dài 1 đến 10 cm tùy giống và điều kiện sinh trưởng. Mầm chè : Gồm mầm dinh dưỡng và mầm sinh thực. Mầm dinh dưỡng gồm : - Mầm đỉnh : Nằm trên đỉnh cây sinh trưởng mạnh. - Mầm nách : Nằm ở nách lá chè, nó được phát triển khi mầm đỉnh hái đi. - Mầm ngủ : Nằm bộ phận già đã hóa gỗ. - Mầm bất định : Mầm ở cổ rễ. Mầm sinh thực : Nằm ở nách lá , lá mầm từ đó phát triển thành hoa, quả chè thường mỗi nách là 2 mầm sinh thực. Búp chè : Búp chè có hai loại : - Búp bình thường : Búp gồm 1 tôm và 2 hay 3 lá non. - Búp mù xòe : Búp không có tôm mà chỉ có 2-3 lá non. Lá chè gồm lá cá lá, vẩy ốc và lá thật. Lá chè mọc trên cành chè mỗi đốt có một lá, lá chè thường hay thay đổi hình dạng. Hoa và quả chè : Hoa bắt đầu nở trên cây chè 2-3 năm tuổi, hoa lưỡng tính có 5-9 cánh màu trắng hay phớt hồng. Quả chè thuộc loại quả nang có từ 1-4 hạt. Hình dạng Võ Thị Hoàng - K42AKTNN 10 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Đức Kiên quả có thể tròn, tam giác, vuông, tùy theo số hạt. Khi còn non quả chè màu xanh, khi chín quả chuyển sang màu thẫm hoặc nâu. Khi quả chín vỏ nức ra. 1.1.2. Cơ sở thực tiễn 1.1.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè trên thế giới Giá chè thế giới năm 2009 đã tăng gấp đôi, lập kỷ lục cao của nhiều năm nay do hạn hán ở Ấn Độ, Sri Lanka và Kenya, trong khi nhu cầu tăng mạnh. Từ mức giá trung bình 2,38 USD/kg năm 2008, giá chè hảo hạng BP1s của Kenya đã tăng lên 2,74 USD/kg vào đầu năm 2009, tiếp tục tăng lên 3,18 USD/kg vào tháng 9/2009 và kết thúc năm 2009 ở mức 5,45 USD/kg. Sản lượng chè của Kenya, nước xuất khẩu chè đen lớn nhất thế giới, đã giảm 9% xuống còn 278 triệu kg trong 11 tháng đầu năm 2009. Sri Lanka, nước sản xuất chè lớn thứ 4 thế giới, đã sản xuất 263,8 triệu kg chè trong 11 tháng đầu năm 2009, cũng giảm 12% so với cùng kỳ năm trước đó. Theo thống kê chính thức trong giai đoạn tháng 1 - 9/2009, sản lượng chè thế giới đạt 1275,5 triệu kg, giảm khoảng 89 triệu kg so với cùng kỳ năm ngoái. Nhu cầu chè cao ngay cả trong giai đoạn kinh tế suy thoái, nhất là các loại chè chế biến. Giá chè tăng đã không ảnh hưởng nhiều tới tiêu thụ ở các nước phát triển bởi sức cạnh tranh của mặt hàng này rất cao trên thị trường đồ uống nói chung. Còn tại các nước đang phát triển, các nhà chế biến chè chắc chắn gánh phần tăng giá nhiều hơn so với người tiêu dùng, bởi giá thu mua chè chiếm phần lớn nhất trong giá bán lẻ. Tiêu thụ chè thế giới luôn tăng vượt sản lượng trong giai đoạn 2005 – 2009, với khoảng cách lớn nhất là vào những năm từ 2007 đến 2009, khi mức tăng nhu cầu vượt tới 3,4 điểm phần trăm so với mức tăng cung, đúng vào thời điểm giá chè tăng mạnh. Trên thực tế, phần thu nhập mà các hộ gia đình dành để mua chè vẫn tương đối nhỏ. Vì vậy, đây là thị trường được đánh giá là có tiềm năng rất lớn. Dự báo tình trạng thiếu cung chè sẽ càng thêm trầm trọng trong năm 2010 do sản lượng ở Châu Phi, Sri Lanka và Ấn Độ tăng không theo kịp mức tăng của nhu cầu về chè. Theo ông Aditya Khaitan, giám đốc công ty McLeod Russel India Ltd – công ty sản xuất chè lớn nhất thế giới, dự báo thị trường chè thế giới có thể thiếu tới 130 triệu Võ Thị Hoàng - K42AKTNN 11 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Đức Kiên kg vào tháng 4/2010, cao hơn mức thiếu 110 triệu kg dự báo hồi tháng 9/2009 và giá có thể lập kỷ lục cao mới trong năm nay do tình trạng thiếu hụt kéo dài quá lâu. Sản lượng của các nước sản xuất lớn năm nay sẽ hồi phục, song vẫn không đủ bù đắp chỗ thiếu hụt bởi tiêu thụ đang tăng nhanh, không chỉ ở Ấn Độ mà cả Trung Đông, Pakistan, Ai Cập và những thị trường có mức tiêu thụ tưởng đã bão hòa như Anh và Ai Len. Chỉ riêng Ấn Độ sẽ cần thêm 35 triệu kg chè để đáp ứng nhu cầu tăng thêm 3,5% trong năm nay. Tiêu thụ chè hàng năm ở Ấn Độ hiện khoảng 800 triệu kg, với mức tăng mỗi năm khoảng 30 triệu kg. Lượng thiếu cung 65 triệu tấn hiện nay ở Ấn Độ chưa thể nhanh chóng được lấp đầy. Với sản lượng 960 triệu kg hiện nay, Ấn Độ vẫn đang là nước xuất khẩu ròng chè. Tuy nhiên trong 7 đến 10 năm tới, Ấn Độ có thể sẽ trở thành nước nhập ròng mặt hàng này. Các bang trồng chè lớn nhất của Ấn Độ là Assam và West Bengal sẽ không sản xuất chè cho tới đầu tháng 4 năm nay vì đó là giai đoạn thời tiết lạnh. Sản lượng chè của Ấn Độ trong 10 tháng tính tới 31/10/2009 đã giảm xuống mức 830,4 triệu kg, so với 832,5 triệu kg cùng kỳ năm trước đó. Xuất khẩu đã giảm 12% trong cùng kỳ, xuống 150 triệu kg. Nhiều nước sản xuất chè lớn khác cũng rơi vào tình trạng thiếu cung, như Châu Phi và Sri Lanka. Năm 2009, kim ngạch xuất khẩu chè của Việt Nam tăng khoảng 40 triệu USD so với năm trước đó, đạt 117 ngàn tấn, nhờ khối lượng xuất khẩu tăng. Đây là một trong số ít những ngành giữ được phong độ xuất khẩu trong bối cảnh kinh tế toàn cấu sa sút. Việt Nam hiện có 270 doanh nghiệp làm chè, 75% lượng chè khô hàng năm được xuất khẩu sang 110 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới và Việt Nam hiện nay đứng thứ 5 thế giới về sản lượng cũng như kim ngạch xuất khẩu chè. Triển vọng thiếu cung chè trong những tháng tới sẽ là cơ hội tốt cho ngành chè Việt Nam. Tuy nhiên, điểm yếu của chè nước ta là chất lượng không đồng đều, nên giá chưa cao, chỉ bằng nửa giá thế giới. Trong khi giá chè trung bình toàn cầu năm 2009 là 2,2 USD/kg thì chè VN chỉ khoảng 1,1 USD/kg. Do vậy, trong khi khối lượng xuất khẩu tăng mạnh thì trị giá xuất khẩu chỉ tăng khoảng 13,6% đạt 167 triệu USD. Những vấn đề đặt ra cho ngành chè nước ta hiện nay là nâng cao chất lượng sản phẩm và xây dựng thương hiệu để chè Việt Nam ngày một vươn xa trên thị trường toàn cầu. Triển vọng chè thế giới năm 2009 sẽ còn tiếp tục tăng và mức Võ Thị Hoàng - K42AKTNN 12 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Đức Kiên độ tăng sẽ phụ thuộc nhiều vào thời tiết ở các khu vực sản xuất chính của Châu Á và Châu Phi, nhất là Ấn Độ. 1.1.2. 2. Tình hình sản xuất và xuất khẩu chè ở Việt Nam Trong bối cảnh suy thoái kinh tế, hầu hết các mặt hàng nông lâm thủy sản Việt Nam đều bị tác động tiêu cực do rớt giá và giảm sức mua nhưng với những đặc thù riêng, cuối năm 2008 và những tháng năm 2009, ngành chè là một trong số ít ngành hàng vẫn giữ được “phong độ” với nhiều thi trường tiêu thụ, sản lượng và giá trị xuất khẩu đều tăng hơn so với cùng kỳ năm ngoái. Chỉ riêng nữa đầu năm 2009, xuất khẩu chè đã đạt trên 51,7 ngàn tấn, kim ngạch xuất khẩu gần 64 triệu USD, tăng 13,7% về lượng và tăng 4,6 % về giá trị so với cùng kỳ năm 2008. Theo Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2009, diện tích trồng chè của Việt nam sẽ đạt 131,5 nghìn ha, với năng suất dự kiến 6,5 tấn búp tươi/ha. Dự báo của ngành chè cho thấy, thời gian tới do diễn biến thời tiết thuận lợi,năng suất và sản lượng chè năm 2009 của Việt Nam sẽ tăng hơn so với năm 2008. Bên cạnh đó các hộ sản xuất và kinh doanh ngành chè Việt Nam cũng đã dần chú trọng đến khâu sản xuất và chế biến chè đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm nâng cao năng suất và chất lượng chè Việt Nam nên bức tranh tổng thể của ngành chè trong năm 2009 tương đối sang sủa và khả quan. Hiệp hội Chè Việt Nam(Vitas) cho biết,trong những tháng cuối năm 2009, ngoài các thị trường lớn như Pakistan, Ấn Độ,Ả rập Xeut …thì Nga và Mỹ cũng là hai thị trường tiềm năng “mới nổi” mà các doanh nghiệp ngành chè cần tập trungg phát triển hơn nữa trong tổng số 49 thị trường nhập khẩu chè Việt nam hiện nay. Theo điều tra đánh giá của Vitas, hiện nay Mỹ là quốc gia tiêu thụ chè lớn thứ 8 thế giới với 84% cơ cấu là chè đen, còn lại là chè xanh và các loại chè khác. Lợi thế lớn nhất của Việt Nam hiện nay là giá chè xanh xuất khẩu vào Mỹ thấp hơn so với giá của các nước xuất khẩu khác. Nhìn chung Mỹ, Nga là hai thị trường tương đối “mát tính” và có nhu cầu tiêu thụ lớn nên sản phẩm chè Việt Nam có nhiều khả năng cạnh tranh để tiếp tục khẳng định vị trí trên thị trường chè thế giới. Võ Thị Hoàng - K42AKTNN 13 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Đức Kiên 1.1.2.3. Tình hình sản xuất chè ở địa bàn nghiên cứu Chè là cây công nghiệp có khả năng thích ứng rộng, sinh trưởng phát triển tốt, tạo ra hiệu quả kinh tế cao trên những vùng đất đồi có độ dốc dưới 30 độ. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Nghệ An chè công nghiệp được trồng rộng rãi thành những vùng lớn, tập trung thuộc các huyện Thanh Chương, Anh Sơn, Con Cuông. Cây chè công nghiệp đang thực sự trở thành cây làm giàu cho người dân trồng chè. Anh Sơn là một trong những huyện trọng điểm chè của tỉnh. Quỹ đất trồng chè trong các vùng đã được quy hoạch vẫn còn trên 600 ha. Hiện tại trên địa bàn huyện đã có 03 nhà máy chế biến chè với tổng công suất 100 tấn ngày (cả chè xanh và chè đen). Sản lượng chè tươi cung cấp cho nhà máy chế biến trong những năm gần đây mới đạt từ 13-15 ngàn tấn. Thị trường xuất khẩu chè của trong nước nó chung, tỉnh Nghệ An nói riêng được mở rộng và ổn định. Như vậy nhu cầu nguyên liệu cho nhà máy chế biến và xuất khẩu còn rất lớn. Trong mười năm qua ( Từ năm 2001) huyện Anh Sơn xác định chè là cây mũi nhọn kinh tế, vì vậy cây chè được chú trọng phát triển và đã mang lại hiệu quả kinh tế khá rõ.tổng diện tích chè hiện có là 960 ha tập trung tại 3 xã: Hùng Sơn, Phúc Sơn, Long Sơn. Theo báo cáo tình hình sản xuất thì Hùng Sơn với diện tích 363ha, Phúc Sơn là 160, Long Sơn là197 còn lại là các xã khác. Bảng 1 : Một số chỉ tiêu về diện tích và sản lượng, năng suất chè trên địa bàn huyện trong 3 năm 2009 đến 2011 Tính bình quân/ha Chỉ tiêu ĐVT 2009 2010 2010/2009 2011/2010 +/- +/- 2011 % 1. Diện tích Ha 907 916 960 9 2. DT cho sản phẩm Ha 616 650 500 24 3. Sản lượng Tấn 9523,36 9535,5 10000 12,14 4.Năng suất Tấn/ha 15,46 14,67 20 -0,79 1 44 % 4,8 -140 21,88 0,13 464,5 4,87 -5,11 5,33 36,33 3,9 (Nguồn: Số liệu phòng nông nghiệp huyện Anh Sơn) Võ Thị Hoàng - K42AKTNN 14 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Đức Kiên Trong năm 2009 diện tích trồng chè là 907 ha nhưng đến năm 2010 diện tích trồng chè tăng lên 916 ha tăng lên 9ha tương đương với tăng 1%. Nhưng trong đó diện tích co sản lượng chỉ có 616 ha với năng suất là 15,46 tấn/ha. Trong năm 2010 thì diện tích đất trồng cho sản lượng có tăng nhưng không đáng kể với diện tích là 650 ha đạt 14,67 tấn/ha. Năng suất năm 2010 giảm so với năm 2009 đó là do yếu tố khí hậu làm ảnh hưởng đến năng suất và có một số vườn chè đến thời kì giảm năng suất. Trong năm 2011 do áp dụng khoa học kĩ thuật và bón phân đúng qui định nên năng suất có tăng đáng kể tăng lên đến 5,33 tấn/ha,tương dương với tăng 36,33% so với năm 2010, năng suất năm này lên đến 20 ngàn tấn.nhưng diện tích cho sản lượng thì giảm đi 21,875% tương đương với giảm là 140 ha. Sở dĩ diện tích này giảm đi là do một số hộ phá chè đã lâu năm năng suất thấp để trông mới, có một số hộ phá để canh tác cây khác mang lại hiệu quả hơn, và một số hộ phá do dự án đầu tư của ngành khác. Với năng suất 20 ngàn tấn/ha đó là một thành quả vượt xa kế hoạch đặt ra. Để thực hiện mục tiêu Nghị quyết đại hội huyện Đảng bộ khóa XIX đề ra là đến năm 2015 trồng mới thêm 200 ha chè công nghiệp, đưa diện tích chè của huyện lên 1160 ha, sản lượng chè búp tươi 25 ngàn tấn/năm. UBND huyện xây dựng: Đề án điều chỉnh, bổ sung phát triển chè công nghiệp huyện Anh Sơn giai đoạn 2011-2015 và dự án này dang được triển khai thực hiện. 1.2. Chủ trương chính sách của đảng và nhà nước về phát triển chè ở Việt Nam - Chỉ thị số 29: ban hành ngày 31/11/1983 của BBT trung ương Đảng và chỉ thị 56 CT/TW ngày 29/01/1985 về việc giao khoán đất, giao rừng cho hộ nông dân, gắn quyền hạn, trách nhiệm và lợi ích vật chất để khuyến khích nhân dân trồng rừng trên đất trống, đồi trọc, nhân dân được thừa kế tài sản trên đất trồng rừng và cây công nghiệp dài ngày. Đối với vùng núi cao không nhất thiết phải tổ chức HTX mà phát triển kinh tế hộ và thành lập quan hệ Nhà nước theo đơn vị bản, buôn, HTX, thực hiện cơ chế khoán gọn cho xã viên. - Chỉ thị số 53 CT/TW: Ngày 08/01/1984 của BBT trung ương Đảng về khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, cho phép các hộ gia đình nông dân tận dụng mọi nguồn đất đai mà HTX và lâm trường chưa sử dụng hết để đưa vào sản xuất. Nhà nước không đánh thuế sản xuất kinh doanh đối với kinh tế hộ gia đình, kinh tế hộ gia đình xã viên được chính thức thừa nhận là một bộ phận hợp thành kinh tế xã hội chủ nghĩa Võ Thị Hoàng - K42AKTNN 15 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Đức Kiên và được tạo mọi điều kiện phát triển. - Nghi quyết 10: Ban hành ngày 05/04/ 1988 của BCH Trung ương Đảng với nội dung chủ yếu là khoán hộ, đã xác định hộ nông dân được quyền tự chủ ruộng đất lâu dài và lam chủ thêm nhiều tư liệu sản xuất. Phần lớn các phương tiện sản xuất được giao cho hộ nông dân và họ tự do sử dụng chúng theo mong muốn. Đất đai vẫn thuộc quyền sở hữu của nhà nước và có thể chia lại sau một thời gian nhất định. - Luật đất đai: Ra ngày 22/07/1993 và được sửa đổi vào ngày 02/12/1998 chính thức được ban hành, nhằm khuyến khích mọi cá nhân tổ chức sử dụng đất đai vào sản xuất nông lâm nghiệp, phát triển kinh tế hộ gia đình, xác định quyền lợi và trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân trong việc sử dụng và bảo vệ đất đai, khai thác hợp lý và sử dụng có hiệu quả tiềm năng của đất góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội. - Nghị định 02/CP: Ra ngày 15/01/1998 và sửa đổi thành nghị định số 163/1999/NĐ-CP ban hành văn bản quy định về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, cá nhân, hộ gia đình sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. - Chỉ thị 01/CP: Ra ngày 14/01/1995 về việc giao khoán đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và nuôi trồng thủy sản trong các doanh nghiệp Nhà nước. - Nghị định 13: của chính phủ ra ngày 02/03/1993 về công tác khuyến nông, khuyến lâm nhằm giúp hộ nông dân sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất nông, lâm nghiệp từ đó phát triển kinh tế xã hội. - Để công nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế cá thể này bỏ vốn, sức lao động và kỹ thuật vào phát triển nông lâm nghiệp. - Nghị định 170 HĐBT: đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế này phát triển trong mọi lĩnh vực như: Trồng rừng sản xuất, chăn nuôi và kinh doanh nghề phụ. Thông qua đó có thể mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh phù hợp với khả năng sẵn có của mình. - Quyết định 72 HĐBT: Ra ngày 13/03/1990 về một số chủ trương chính sách cụ thể để phát triển kinh tế xã hội miền núi. Quyết định đề cập đến vấn đề giao đất, giao rừng cho các hộ gia đình, có quyền tự chủ kinh doanh bằng nhiều hình thức phù hợp với điều kiện cụ thể cho từng vùng. Thực tế cho thấy các chính sách của Đảng và Nhà nước đã tạo cho nông thôn miền núi nói chung và các hộ gia đình miền núi nói riêng rất nhiều thuận lợi trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của khu vực này. Võ Thị Hoàng - K42AKTNN 16 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Đức Kiên CHƯƠNG II. KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA CÂY CHÈ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ANH SƠN NGHỆ AN 2.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội trên địa bàn nghiên cứu 2.1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên 2.1.1.1. Vị trí địa lý Anh Sơn là huyện miền núi nằm về phía Tây Nam tỉnh Nghệ An, có tọa độ địa lý từ 104055’ đến 105015’ kinh độ Đông, 18046’ đến 19010’ vĩ độ Bắc. Ranh giới hành chính của huyện được xác định như sau: - Phía Bắc giáp huyện Tân Kỳ và huyện Quỳ Hợp; - Phía Nam giáp huyện Thanh Chương; - Phía Đông giáp huyện Đô Lương; - Phía Tây giáp huyện Con Cuông và nước Cộng hoà dân chủ Nhân dân Lào. - Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện Năm 2007 là 60.328,50 ha với 20 đơn vị hành chính cấp xã (01 thị trấn và 19 xã). Huyện Anh Sơn cách thành phố Vinh khoảng 100 km về phía Tây Bắc, trên địa bàn huyện có 2 tuyến đường giao thông chính là Quốc lộ 7A và đường mòn Hồ Chí Minh nối liền các huyện Thanh Chương, Anh Sơn, Tân Kỳ. Hệ thống giao thông đường thủy bao gồm: Sông Lam, sông Giăng và sông Con đã tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho huyện trong việc mở rộng giao lưu phát triển kinh tế - xã hội với các địa phương khác trong và ngoài tỉnh. 2.1.1.2. Địa hình, địa mạo Địa hình của huyện chủ yếu là đồi núi có xen kẽ với đồng bằng, hai bên cao dốc ở giữa là sông Lam. Do địa hình bị chia cắt bởi ba con sông lớn (sông Lam, sông Con và sông Giăng) và các khe suối nên hạn hán lũ lụt thường xảy ra. Có thể chia địa hình của huyện thành 3 dạng: Dạng đồng bằng ven sông, dạng đồi và dạng núi thấp. - Dạng đồng bằng ven sông: Chủ yếu nằm dọc hai bên sông Lam ở độ cao 30 40 m (bao gồm các xã: Tam Sơn, Thạch Sơn, Vĩnh Sơn, Long Sơn...), chiếm khoảng 14% tổng diện tích tự nhiên, có khoảng 30% loại đất này bị ngập lụt hàng năm (bãi bồi ven sông), còn lại là ít hoặc không bị ngập lụt. Vùng này chủ yếu trồng các loại cây Võ Thị Hoàng - K42AKTNN 17 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Đức Kiên lúa, ngô, cây công nghiệp ngắn ngày và các loại rau màu khác. - Dạng địa hình đồi: Phần lớn ở độ cao từ 100 - 200 m, chủ yếu là dạng đồi lượn sóng, độ dốc không lớn từ 8 - 150. Đây là dạng địa hình có diện tích lớn nhất, chiếm khoảng 56% tổng diện tích tự nhiên, có ở hầu hết các xã, nhưng tập trung nhiều ở phía Nam và phía Tây của huyện (Cao Sơn, Khai Sơn, Tường Sơn...). Thổ nhưỡng ở đây chủ yếu là đất phát triển trên đá phiến thạch, là vùng có tiềm năng lớn về phát triển cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả, mía đồi, trồng cây lâm nghiệp. - Dạng địa hình núi thấp: Chủ yếu ở dạng núi thấp 300 - 500 m, chiếm khoảng 26% diện tích tự nhiên. Tập trung ở phía Bắc của huyện (gồm các xã: Thành Sơn, Bình Sơn, Thọ Sơn, Đỉnh Sơn), phía Tây nam (xã Phúc Sơn). Những đỉnh cao nhất ở xã Thành Sơn là 400 m, Phúc Sơn cao nhất là đỉnh Cao Vều 1.200 m, dạng địa hình này chủ yếu sử dụng vào mục đích lâm nghiệp. 2.1.1.3. Khí hậu Huyện Anh Sơn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa và mang những đặc điểm riêng của khí hậu khu vực miền Trung. Khí hậu được chia làm 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa, nóng từ tháng 5 đến tháng 10 hàng năm. Mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau: a. Nhiệt độ: - Nhiệt độ không khí bình quân hàng năm: 23,60C. - Nhiệt độ không khí cao nhất: 40 - 410C. (tháng 6, tháng 7). - Nhiệt độ không khí thấp nhất: 5 - 60C. (tháng 12, tháng 1). b. Độ ẩm không khí: - Độ ẩm không khí trung bình hàng năm: 55%. - Độ ẩm không khí tháng lớn nhất (tháng 3): 95%. - Độ ẩm không khí tháng thấp nhất (tháng 7): 25%. c. Lượng nước bốc hơi: - Tổng lượng bốc hơi trung bình hàng năm là: 1.000 - 1.100 mm. - Lượng bốc hơi tháng lớn nhất là : 172,2 mm (tháng 7). - Lượng bốc hơi tháng nhỏ nhất là : 28,8 mm (tháng 2). Võ Thị Hoàng - K42AKTNN 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan