Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Hệ thống biểu tượng trong thơ hồ xuân hương....

Tài liệu Hệ thống biểu tượng trong thơ hồ xuân hương.

.PDF
69
84
108

Mô tả:

Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi 2 Khoa ng÷ v¨n ********* trÇn thÞ ngäc lµnh hÖ thèng biÓu t­îng trong th¬ hå xu©n h­¬ng Kho¸ luËn tèt nghiÖp ®¹i häc Chuyªn ngµnh: V¨n häc ViÖt Nam Hµ Néi - 2009 5 Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi 2 Khoa ng÷ v¨n ********* trÇn thÞ ngäc lµnh hÖ thèng biÓu t­îng trong th¬ hå xu©n h­¬ng Kho¸ luËn tèt nghiÖp ®¹i häc Chuyªn ngµnh: V¨n häc ViÖt Nam Ng­êi h­íng dÉn khoa häc TS. GVC. nguyÔn thÞ nhµn Hµ Néi - 2009 6 Lêi c¶m ¬n Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đề tài, được sự giúp đỡ của cô giáo TS. GVC. Nguyễn Thị Nhàn, các thầy cô giáo trong tổ bộ môn Văn học Việt Nam - Trường ĐHSP Hà Nội 2 và toàn thể các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, người viết đã hoàn thành tốt khoá luận tốt nghiệp. Người viết xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam, các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc biệt người viết xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc nhất tới cô giáo hưóng dẫn đã tạo điều kiện giúp đỡ người viết trong suốt quá trình thực hiện khoá luận này. Hà Nội, ngày 06 tháng 05 năm 2009 Người thực hiện TrÇn ThÞ Ngäc Lµnh 7 Lêi cam ®oan Đề tài Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương được nghiên cứu và hoàn thành trên cơ sở kế thừa và phát huy những công trình nghiên cứu có liên quan của các tác giả khác. Tôi xin cam đoan khoá luận này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, kết quả của khoá luận là trung thực, chưa được công bố trên tài liệu nào. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 06 tháng 05 năm 2009 Người thực hiện TrÇn ThÞ Ngäc Lµnh 8 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 5 2. Lịch sử vấn đề 6 3. Mục đích nghiên cứu 8 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 8 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9 6. Phương pháp nghiên cứu 9 7. Đóng góp khoá luận 10 8. Cấu trúc khoá luận 10 NỘI DUNG CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM THƠ CA HỒ XUÂN HƯƠNG 11 1.1. Lịch sử xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX 11 1.2. Tình hình văn học giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX 12 1.3. Tác giả Hồ Xuân Hương 15 1.3.1. Cuộc đời 15 1.3.2. Sự nghiệp sáng tác 16 CHƯƠNG 2: HỆ THỐNG BIỂU TƯỢNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG 17 2.1. Quan niệm về biểu tượng và một số biểu tượng phổ biến trong văn học 17 2.1.1. Quan niệm về biểu tượng 17 2.1.1.1. Quan niệm về biểu tượng 17 2.1.1.2. Biểu tượng dưới góc độ văn học 19 2.1.2. Một số biểu tượng phổ biến trong văn học 20 2.1.2.1. Một số biểu tượng phổ biến trong văn học thế giới 20 2.1.2.2. Một số biểu tượng phổ biến trong văn học Việt Nam 22 2.2. Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương 25 2.2.1. Quan niệm về biểu tượng phồn thực 26 2.2.2. Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương 29 9 2.2.2.1. Biểu tượng gốc 30 2.2.2.2. Biểu tượng phái sinh 39 2.3. Những phương thức xây dựng biểu tượng thường gặp Xuân Hương trong thơ Hồ 51 2.3.1. Cách sử dụng từ ngữ 51 2.3.2. Cách chơi chữ, nói lái, dùng thành ngữ, khẩu ngữ 57 2.4. Ý nghĩa biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương 59 2.4.1. Thể hiện thái độ phê phán, châm biếm của tác giả 59 2.4.2. Thể hiện khát khao tình yêu, hạnh phúc 64 KẾT LUẬN 68 TÀI LIỆU THAM KHẢO 70 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Văn học cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX giàu tính nhân văn. Nhiều cây bút quan tâm đến số phận người phụ nữ trong xã hội. Những tên tuổi các tác giả nữ đã xuất hiện trên văn đàn như Lê Ngọc Hân, Trương Quỳnh Như, Phạm Lam Anh và nổi tiếng nhất là Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương...Trong số đó, Hồ Xuân Hương là hiện tượng khá đặc biệt. Thơ của nữ sĩ khác thường, “Hồ Xuân Hương là một kỳ nữ trong thơ có người, trong thơ có tiên, và trong thơ có quỷ”. [1, tr. 66] Thơ ca của nữ sĩ chứa đựng nội dung nhân văn và hình thức diễn đạt độc đáo. Những phương diện đó khẳng định vị trí của nhà thơ trên văn đàn thi ca dân tộc. 1.2. Là nhà thơ dòng Việt, sáng tác của nữ sĩ tìm về cội nguồn của văn học dân gian. Cách diễn đạt của Hồ Xuân Hương gần với ca dao, tục ngữ, thấp thoáng hội hè phong tục, sự thông thái của những ông trạng ngoài đời, 10 kiểu “đố tục giảng thanh, đố thanh giảng tục” của nhân dân lao động. Nhà thơ được tôn vinh là “Bà chúa thơ Nôm” . Vì thế, tác giả văn học viết nhưng sáng tác của bà in đậm chất dân gian, dân tộc mà vẫn “hiện đại”. Thơ ca Hồ Xuân Hương lựa chọn cách biểu đạt đem lại cho độc giả ấn tượng sâu sắc. Đặc biệt là việc nữ sĩ xây dựng hệ thống biểu tượng phong phú, khiến những miền cấm kị trần tục được thăng hoa. 1.3. Vấn đề “Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương” chưa được nghiên cứu như một công trình riêng biệt. Vì vậy, chúng tôi tiếp tục tìm hiểu để góp phần khẳng định tài thơ của nữ sĩ trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức biểu hiện, thông qua hệ thống biểu tượng để nhận ra sự sáng tạo của cá nhân nghệ sĩ. Việc nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn giảng dạy ở trường phổ thông, giúp người giáo viên Ngữ văn có thêm kiến thức bổ sung khi nghiên cứu, giảng dạy tác phẩm của nữ sĩ. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài này để nghiên cứu. 2. Lịch sử vấn đề Một thời gian dài, do nhiều nguyên nhân, thơ Hồ Xuân Hương hầu như được xem là di sản tinh thần gây nhiều tranh luận trong giới nghiên cứu và thưởng thức. Khoảng thời gian gần đây, thơ của nữ sĩ được nhìn nhận, đánh giá khách quan hơn và trở thành đối tượng nghiên cứu của khá nhiều chuyên luận, công trình văn học sử, tiểu luận,… Lựa chọn và nghiên cứu vấn đề này, người viết đã khảo sát tài liệu, tổng hợp các ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu đi trước. Trong đó, có nhiều công trình liên quan trực tiếp đến khoá luận. Sau đây, chúng tôi xin trích một số ý kiến tiêu biểu. - Nhà thơ Xuân Diệu trong công trình Hồ Xuân Hương - Bà chúa thơ Nôm (Nxb Phổ thông, H.,1962), đã nhận xét về các tầng nghĩa trong thi ca của nữ sĩ: “…mang hai nghĩa, nghĩa phô ra và nghĩa hàm ẩn […]. Thơ Xuân Hương tục hay thanh? Đố ai bắt được? Bảo rằng nó hoàn toàn là thanh thì 11 cái nghĩa thứ hai của nó có giấu được ai, mà Xuân Hương có muốn giấu đâu? Mà bảo rằng nó nhảm nhí, là tục thì có gì là tục nào?”. [1, tr. 68] - Nguyễn Tuân trong tiểu luận “Băm sáu cái nõn nường Hồ Xuân Hương” cũng có ý kiến: “Thế giới quan, nhân sinh quan của Hồ Xuân Hương là một nhỡn quan nõn nường, bất cứ cái gì, bất kể lúc nào và ở đâu, vẫn ngân vang lên chỉ nõn nường”. [19, tr. 172] - Đỗ Lai Thuý trong bài viết “Phong cách thơ Hồ Xuân Hương” Tạp chí văn học, số 12/1998 cũng có ý kiến xác đáng: “Có lẽ, mỗi bài thơ của Xuân Hương, đằng sau cái ý nghĩa đời thường, ý nghĩa xã hội, chính là ý nghĩa tâm linh, tín ngưỡng phồn thực, đằng sau cái con người Xuân Hương chính là con người vũ trụ. Hồ Xuân Hương đã làm được điều mà tưởng như không thể làm được, cái không thể đã trở thành có thể”. [22, tr. 60] - Nhà phê bình văn học nước ngoài N.I.Niculin quan tâm tới tính biểu tượng hai mặt trong sáng tác của Hồ Xuân Hương. Ông cho rằng: “Nữ sĩ đã sáng tạo ra những bài thơ biểu tượng hai mặt, trong đó hình ảnh kì dị của thân thể con người hoà lẫn với chỗ lồi lõm trên mặt đất”(1). - Đỗ Lai Thuý có công trình Hồ Xuân Hương - Hoài niệm phồn thực (Nxb VH - TT, H,1999). Ở công trình này, Đỗ Lai Thuý đã tìm hiểu, khảo sát sáng tác thơ Hồ Xuân Hương từ góc độ văn hoá, đặc biệt là văn hoá phồn thực. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh: “Những biểu tượng phồn thực nói chung và biểu tượng phồn thực của Hồ Xuân Hương nói riêng có hai mặt lấp lửng, thiêng và tục, thanh và tục nhưng hai mặt này không chết cứng như hai mặt của tờ giấy mà luôn luôn có sự vận động, chuyển hóa vào nhau để tạo thành một trạng thái hoà quyện, hai mà một, tồn tại mà không tồn tại, không tồn tại mà tồn tại, vừa trái ngược lối tư duy nhị nguyên, vừa đảm bảo hứng thú cho người đọc khi họ được chuyển dịch từ thanh sang tục trong một biến dịch không ngừng”. [23, tr. 168] (1) N.I.Niculin - Thơ Hồ Xuân Hương, in trong “Hồ Xuân Hương về tác gia và tác phẩm”. Tlđd, Tr.433 12 - Tác giả Đỗ Đức Hiểu trong tiểu luận “Thế giới thơ Nôm Hồ Xuân Hương” cũng nhận xét: “Ở đây, trạng từ giữ một chức năng quan trọng. Nó đẩy màu sắc lên mức cực độ, tối đa, nó tạo ra trong văn bản cái không đồng chất, cái bất ngờ, nó gẫy khúc. Nó có tác dụng chuyển nghĩa, từ cái bình thường sang cái ẩn dụ - cơ thể người phụ nữ”.(2) - Trần Đình Sử trong Thi pháp văn học Việt Nam Trung đại (Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2005), chỉ ra không gian buồng khuê trong tác phẩm Hồ Xuân Hương. Ông viết: “Dù nói tới chuyện gì, miêu tả cái gì khi đặt vào buồng khuê thì chúng mới toát ra ánh sáng và ý nghĩa đặc thù của nó […] đều gợi lên không gian buồng khuê tự nhiên, khổng lồ” [13, tr. 222]. Ngoài những ý kiến trích dẫn trên đây, còn rất nhiều ý kiến khác cũng đề cập đến vấn đề khoá luận quan tâm ở những mức độ khác nhau. Qua những ý kiến đó, chúng tôi thấy rằng, giới nghiên cứu phần nhiều bàn đến vấn đề biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương mang tính chất gợi mở hoặc mới nêu một vài khía cạnh, chưa thống nhất và toàn diện. Bởi vậy, với khoá luận này, chúng tôi muốn tìm hiểu thế giới biểu tượng phong phú, sinh động trong thơ nữ sĩ họ Hồ một cách hệ thống hơn, sâu hơn và mong có những đóng góp nhỏ vào thành tựu nghiên cứu thơ ca của tài nữ. 3. Mục đích nghiên cứu Khoá luận hướng tới mục đích tìm hiểu “Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương” nhằm khẳng định mối quan hệ giữa việc sử dụng hệ thống biểu tượng đó với nội dung diễn đạt, tìm ra những đặc điểm riêng, đóng góp riêng của nữ sĩ. Đồng thời, chúng tôi mong muốn hình thành cái nhìn tương đối hệ thống, toàn diện, khách quan và khoa học về giá trị mảng thơ Nôm Hồ Xuân Hương. (2) Đỗ Đức Hiểu - Thế giới thơ Nôm Hồ Xuân Hương, Dẫn theo Hồ Xuân Hương tác phẩm và dư luận, Tlđd, Tr.308. 13 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Triển khai đề tài này, tác giả khoá luận xác định những nhiệm vụ sau: Trên cơ sở các quan niệm, khái niệm về biểu tượng, chúng tôi tiến hành khảo sát thế giới biểu tượng trong sáng tác của Hồ Xuân Hương. Đồng thời, tìm hiểu phân tích những phương thức xây dựng biểu tượng và ý nghĩa của nó, từ đó thấy được sức hấp dẫn, độc đáo đặc biệt trong thơ ca nữ sĩ. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đề tài chỉ hướng tới khai thác khía cạnh “Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương” ở mảng thơ Nôm truyền tụng. - Số lượng những bài thơ Nôm Hồ Xuân Hương đến nay vẫn chưa cố định. Trước tình trạng đó, với sự tương đối, chúng tôi chọn thơ Hồ Xuân Hương trong một số tài liệu sau: + 48 bài thơ Nôm do Lữ Huy Nguyên (tuyển chọn và giới thiệu) in trong cuốn Hồ Xuân Hương - Thơ và đời, Nxb Văn học, H, 1998. + Phần thơ tuyển của Hồ Xuân Hương in trong công trình Thơ Nôm Đường luật của Lã Nhâm Thìn, Nxb GD, H, 1998. - Hồ Xuân Hương sáng tác cả chữ Hán và chữ Nôm nhưng do khuôn khổ có hạn của một khoá luận tốt nghiệp, người viết không có điều kiện tìm hiểu vấn đề biểu tượng trong toàn bộ sáng tác nữ sĩ mà chỉ tập trung vào các sáng tác trong mảng thơ Nôm truyền tụng. Trên thực tế, mảng thơ này đã tập hợp được một hệ thống biểu tượng độc đáo, mới lạ theo phong cách Hồ Xuân Hương. 6. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp chủ yếu sau: + Phương pháp phân loại. 14 + Phương pháp so sánh. + Phương pháp hệ thống. Ngoài ra, để hoàn thành tốt khoá luận, người viết còn kết hợp các thao tác như phân tích, bình giảng, chứng minh, miêu tả,… 7. Đóng góp của khoá luận - Khoá luận góp phần làm sáng tỏ những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Hồ Xuân Hương thông qua thế giới biểu tượng phong phú, độc đáo. - Hồ Xuân Hương là hiện tượng văn học được đưa vào giảng dạy từ bậc Trung học cơ sở, Trung học phổ thông đến bậc Đại học, Cao đẳng. Lựa chọn và thực hiện đề tài này, người viết hy vọng khoá luận sẽ giúp ích cho việc nghiên cứu, giảng dạy tác phẩm của Hồ Xuân Hương trong nhà trường sau này đối với người giáo viên Ngữ văn. 8. Cấu trúc khoá luận Khoá luận được cấu trúc như sau: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung được tổ chức theo hai chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về tác giả và tác phẩm Thơ Hồ Xuân Hương. Chương 2: Hệ thống biểu tượng trong Thơ Hồ Xuân Hương. 15 NỘI DUNG Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM THƠ CA HỒ XUÂN HƯƠNG 1.1. Lịch sử xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX Xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX là giai đoạn lịch sử đầy biến động, chế độ phong kiến lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,… Trong bối cảnh ấy, quyền sống của con người bị chà đạp, đặc biệt là người phụ nữ. Họ phải chịu nhiều đau khổ và bất hạnh bởi vì sự đau khổ của người phụ nữ bao giờ cũng có khía cạnh chua xót, tái tê riêng. Họ vừa đem lấy sự bất hạnh của kiếp người, vừa “cõng” thêm nỗi bất hạnh của “phận đàn bà”. Đặc biệt những ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến. Cũng thời đại của Hồ Xuân Hương, cao trào khởi nghĩa nông dân nổ ra liên tiếp khắp nơi, nhân dân vùng lên đòi quyền sống. Trào lưu dân chủ dâng lên mạnh mẽ, những ràng buộc “tam cương, ngũ thường” trở nên lỏng lẻo hơn trước. Nhân dân đã thấy được sự bất lực của giai cấp thống trị. Đây chính là tiền đề, cơ sở nảy sinh và ra đời của trào lưu dân chủ, nhân văn chủ nghĩa trong xã hội. Điều này làm cho ý thức hệ phong kiến - tư tưởng chính thống bị phá sản. Thời kỳ này kinh tế hàng hoá có sự phát triển đáng kể, thương nghiệp có sự khởi sắc. Trong xã hội, xuất hiện tầng lớp thị dân đông đảo, góp phần thay đổi lối sống cũ, tù đọng của môi trường văn hoá cổ truyền. Tất cả thực trạng đó khiến con người bừng tỉnh, nảy sinh nhu cầu đòi quyền sống. Đồng thời, nó tác động mạnh mẽ đến văn học. Hồ Xuân Hương sống trong vòng xoáy của xã hội, thơ bà chính là sản phẩm của xã hội. 16 Biêlinxki có nhận xét xác đáng rằng: “Văn thơ nào không có gốc rễ trong thực tế đương thời, văn thơ nào không rọi sáng vào thực tế khi lý giải nó thì chỉ là một sự vô công rồi nghề, chỉ là một lối đốt thời gian một cách vô tội vạ, nhưng hão huyền, chỉ là trò chơi trẻ con, chỉ là công việc của những người trống rỗng”.(1) 1.2. Tình hình văn học giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX Trong mười thế kỷ xây dựng quốc gia phong kiến độc lập của dân tộc Việt Nam, thế kỷ XVIII đóng một vai trò lịch sử đặc biệt. Thế kỷ XVIII có trách nhiệm tiếp tục bảo vệ, phát huy, hoàn chỉnh những giá trị tinh thần văn hoá văn nghệ - bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ cương giới, lãnh thổ và quyền độc lập, tự chủ của đất nước. Những hào quang của quá khứ lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước qua các thời đại Lý, Trần, Lê sơ và chiến công đại phá 20 vạn quân Thanh của phong trào Tây Sơn đã đưa đến một bước phát triển mới của chủ nghĩa yêu nước, ý thức dân tộc: cốt cách Việt Nam được bộc lộ hoàn chỉnh về bề rộng và kết tinh rực rỡ ở bề sâu, ở sự kết hợp giữa truyền thống nhân văn và truyền thống yêu nước tạo nên diện mạo văn hoá rực rỡ, phong phú chưa từng có. Khi chiếc ngai vàng ngày càng mục ruỗng, khi những mũ cao, áo dài trở nên bất lực thì giá trị chân chính của thời đại sẽ bắt nguồn từ hai yếu tố dân tộc và dân chủ. Trên cơ sở quá trình phát triển văn hoá lâu dài của quá khứ và hiện thực bi kịch của bản thân lịch sử giai đoạn này. Trí thức nghệ sĩ phong kiến đương thời đã tiếp thu khá sâu sắc truyền thống nhân văn từ văn học dân gian và sự tác động từ phong trào đấu tranh giai cấp của thời đại. Đồng thời, tiếp thu một cách sáng tạo tinh hoa văn hoá ngoại sinh qua giao lưu. (1) Biêlinxki, Dẫn theo tạp chí Văn học, số 6/1993, Tr. 93. 17 Văn học luôn là “Tấm gương phản chiếu thời đại” một cách trung thực. Thế kỷ XVIII - XIX là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của văn học Trung đại Việt Nam. Hoà trong xu thế của lịch sử, thơ ca phản ánh một phần đời sống tinh thần của xã hội. Giai đoạn này, văn học dân gian với nội dung giàu tính chiến đấu và trữ tình đẹp đẽ, những biểu hiện phong phú, sinh động đã có ảnh hưởng trực tiếp, mạnh mẽ đến văn học viết, làm cho diện mạo văn học nước nhà càng trở nên đa dạng, hấp dẫn. Như vậy, có thể nói, qua quá trình xây dựng nền văn học những giai đoạn trước đã để lại cho thời đại văn học này những kinh nghiệm quý báu. Để rồi có những cây bút sáng giá như Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du,… xuất hiện. Họ đều có những sáng tạo, tìm tòi riêng. Hồ Xuân Hương là tiêu biểu trong số đó. Hồ Xuân Hương tiếp nhận những di sản quý báu của văn học dân gian và văn học bác học một cách xuất sắc, độc đáo thông qua sự tiếp nhận sáng tạo của mình. Từ những hình ảnh người phụ nữ qua ca dao, dân ca, qua các truyện thơ Nôm như “Hoa tiên”, “Phan Trần”, “Tống Trân - Cúc Hoa”,… Hồ Xuân Hương đã đứng lên cất cao tiếng nói khẳng định vai trò của người phụ nữ trong xã hội. Nữ sĩ giống như con sóng còn để lại dư ba lâu dài, bởi những gì thi sĩ để lại cho đời không chỉ có giá trị đương thời mà còn có giá trị tới ngày nay và mãi mãi. Văn hoá dân gian là môi trường văn hoá phi chính thống đậm đặc. Trong đó hội hè, phong tục thật rộn ràng, tự do và phóng khoáng. Thơ Hồ Xuân Hương cũng có những cảnh sinh hoạt hội hè như đánh đu, dệt cửi,…Văn học dân gian phong phú những biểu tượng, hình ảnh về cuộc sống, về con người. Tiếng cười cất lên từ những truyện Trạng, những câu chuyện tiếu lâm. Rồi ca dao, cổ tích khắc họa nhân vật phụ nữ thôn quê thuỷ chung, nhân hậu dù cuộc sống thua thiệt nhiều bề,… Thơ Hồ Xuân Hương vọng lên tất cả những nỗi niềm, những hoàn cảnh như thế. 18 Bên cạnh đó, Hồ Xuân Hương còn sáng tạo nên những hình ảnh, biểu tượng độc đáo thể hiện nội dung nhà thơ đã gửi gắm. Biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương luôn gợi nên những ý nghĩa lấp lửng hai mặt với không gian buồng khuê và những câu chuyện ái ân nhục cảm. Tất cả là nhờ tài năng riêng và sự tiếp thu từ văn học dân gian của nữ sĩ. Như vậy, mối quan hệ giữa thơ Hồ Xuân Hương và văn học dân gian là mối quan hệ gắn bó, thống nhất với nhau. Thơ Hồ Xuân Hương là: “Kết quả của sự va chạm, xung đột giữa cuộc sống thực của dân gian với những lề thói chính thống đầy kiêng kị, hình thức giả dối,… Có thể nói, phương hướng nghiên cứu thơ Nôm Hồ Xuân Hương là tìm hiểu các lễ hội dân gian, các trò chơi với ý nghĩa của nó”. [4, tr. 38] Cùng với việc tiếp thu thi hứng từ văn học dân gian, thơ Hồ Xuân Hương còn có đóng góp vào sự sáng tạo độc đáo, “làm mới” cho thơ Nôm Đường luật. Nữ sĩ đã kế tục khuynh hướng dân chủ hoá thể loại. Bà đưa vào thơ Nôm Đường luật những sự vật, con người bình thường, đi sâu vào những uẩn khúc tâm trạng con người. Bà đã đưa thể thơ trang nghiêm, cao quý này vào quỹ đạo văn thơ trào phúng hóm hỉnh, sâu cay. Là sự đoạn tuyệt khá triệt để với tinh thần đẳng cấp của Nho giáo. “Với nhà thơ, thể thơ Đường luật đã xa phong cách trữ tình trang nghiêm, cao quý đi thẳng vào cuộc sống đời thường, góc cạnh, chua xót, bi kịch nhưng đó là cuộc sống đích thực không chỉ là dân tộc mà còn là dân dã”. (1) Với những đặc điểm trên, Hồ Xuân Hương trở thành tác giả giao thoa, hợp lưu giữa hai vùng văn hoá, văn học dân gian và bác học. 1.3. Tác giả Hồ Xuân Hương 1.3.1. Cuộc đời Hồ Xuân Hương xuất hiện trên thi đàn văn học Việt Nam đến nay khoảng 200 năm. Vấn đề về tác giả không còn phức tạp lắm nhưng giới (1) Đặng Thanh Lê, Hồ Xuân Hương và dòng thơ Nôm Đường luật, Dẫn theo tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy theo sách giáo khoa Văn 10 mới, ĐHSP Hà Nội, 1990, Tr. 198. 19 nghiên cứu vẫn chưa thể có kết luận cuối cùng về nữ sĩ qua phương diện: tiểu sử, cuộc đời, thơ văn. Theo tài liệu lưu truyền, Hồ Xuân Hương quê ở Quỳnh Đôi - Quỳnh Lưu - Nghệ An. Thân sinh bà là ông Hồ Phi Diễn, rời quê ra Bắc dạy học, sau lấy người phụ nữ họ Hà làm lẽ và sinh ra Hồ Xuân Hương. Gia đình bà có thời gian sống ở gần Hồ Tây. Sau này, khi trưởng thành, Hồ Xuân Hương có dựng một ngôi nhà cạnh Hồ Tây lấy tên là Cổ Nguyệt Đường - một ngôi nhà giản dị nhưng thơ mộng. Những văn nhân tài tử biết tiếng nữ sĩ luôn tìm đến để đối thoại văn chương. Trong đó, có những tên tuổi như Mai Sơn Phủ, Tốn Phong Thị, Cư Đình, Thạch Đình, Chí Hiên, Thanh Hiên, Chiêu Hổ,… Bà là người giao du rộng rãi, đi du lãm nhiều nơi, những nơi nữ sĩ đi qua in dấu đậm nét trong sáng tác.Cũng qua sáng tác còn lại, có thể nhận thấy, bà là người lận đận về tình duyên, gặp nhiều bất hạnh, éo le. Tương truyền, bà lấy hai đời chồng nhưng đều làm lẽ, goá bụa, dở dang. Hồ Xuân Hương đã sống một cuộc đời không bình thường, không âm thầm, lặng lẽ như bao nhiêu cuộc đời của người đàn bà trong xã hội cũ, mà là cuộc đời đầy sóng gió trong một giai đoạn lịch sử cũng đầy ba động. Tóm lại, cuộc đời Hồ Xuân Hương vẫn là một dấu hỏi. Tuy nhiên, có một số vấn đề có thể khẳng định: Nhà thơ có cuộc đời bất như ý. Đương thời, bà là người phụ nữ bị xô đẩy vào nhiều hoàn cảnh éo le, trắc trở. Với tất cả sự phẫn nộ, với một tình yêu tha thiết cuộc sống cùng sự thương cảm đối với người phụ nữ, bà đã viết nên những vần thơ nhọn sắc, độc đáo. Qua đó, độc giả có thể đồng cảm cùng nữ sĩ. 1.3.2. Sự nghiệp sáng tác Hồ Xuân Hương sáng tác cả chữ Hán và chữ Nôm nhưng tên tuổi của nhà thơ gắn liền với những sáng tác bằng chữ Nôm đặc biệt là mảng thơ Nôm truyền tụng. 20 Theo giới nghiên cứu, nữ sĩ có khoảng hơn 40 bài thơ Nôm truyền tụng. Ngoài ra, còn có tập “Lưu hương ký” với khoảng hơn 50 bài bao gồm cả sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm. Hồ Xuân Hương nổi tiếng chủ yếu với những sáng tác bằng chữ Nôm. Những bất công trong cuộc đời riêng và những điều “mắt thấy tai nghe” hàng ngày khiến sáng tác của nữ sĩ luôn giàu giá trị hiện thực và tư tưởng nhân đạo. Thơ bà là tiếng nói tha thiết đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người. Những bài thơ Nôm của bà dung dị, đời thường nhưng chứa đựng những tư tưởng nhân văn cao cả. Hồ Xuân Hương là nhà thơ giàu sức sống, đầy tài hoa, có cá tính độc đáo. Với những thành công xuất sắc trong mảng thơ Nôm, Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”. Đánh giá về thơ Hồ Xuân Hương, Xuân Diệu viết “Chúng ta tiếp nhận ở Xuân Hương một tâm hồn thành khẩn, sâu sắc, có dũng khí, táo gan, một hồn thơ hết sức độc đáo, đã chống lại sự bóp nghẹt con người của xã hội phong kiến tàn tạ, đã bênh vực phụ nữ, đã yêu đất nước và bình dân đồng thời đã làm nên những bài thơ rất sống, rất đại chúng, rất hay, những “thơ Hồ Xuân Hương” mà không ai quên được”. (1) (1) Xuân Diệu, Các nhà thơ Cổ điển Việt Nam, tập II, Dẫn theo “Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương, Tlđd. Tr. 158. 21 Chương 2 HỆ THỐNG BIỂU TƯỢNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG 2.1. Quan niệm về biểu tượng và một số biểu tượng phổ biến trong văn học 2.1.1. Quan niệm về biểu tượng 2.1.1.1. Quan niệm về biểu tượng Thuật ngữ “biểu tượng” trong tiếng Việt có xuất xứ từ thuật ngữ “Symbole” trong tiếng Pháp. “Symbole” dịch sang tiếng Việt thành biểu tượng hoặc biểu trưng. Tuy nhiên, trong tiếng Việt, khái niệm biểu trưng không nằm cùng bình diện với biểu tượng. Cách dịch thành biểu tượng được chấp nhận rộng rãi hơn. Vì vậy, trên các tài liệu khác nhau, biểu tượng được hiểu theo những quan niệm khá linh hoạt. Thực chất, khái niệm biểu tượng chỉ xuất hiện về sau khi tri thức nhân loại đạt đến trình độ nhất định để có thể ý thức được sự tồn tại của biểu tượng và có nhu cầu khám phá nó. Tuy nhiên, từ xa xưa, khi con người bắt đầu thoát thai khỏi loài thú, cái gọi là biểu tượng đã tồn tại như một bộ phận cấu thành trong đời sống tinh thần con người. Từ bấy đến nay, âm thầm xây cất lên nền tảng văn hoá nhân loại. Quả thực, không phải con người sống giữa một “rừng biểu tượng” như cách nói của chủ soái thi ca tượng trưng Pháp Ch.Baudelaire mà là cả một thế giới biểu tượng sống trong con người. Sự tạo thành biểu tượng trong tâm thức nhân loại là một quá trình vô thức, nhưng tự bản thân chúng thể hiện nỗ lực của con người muốn xuyên qua bức màn mờ mịt của hiện thực, vượt lên trên những kinh nghiệm cảm tính cá nhân để nhận thức về một thực tại siêu việt bị che lấp. Trong“Từ điển biểu trưng văn hoá thế giới” của Jêan Cheralir Gheebrant thì “biểu tượng được dùng với những biến đổi đáng kể về ý nghĩa và chú ý nhiều ở ý nghĩa tượng trưng”. [3, tr. 268] 22 Các tác giả “Từ điển biểu trưng văn hoá thế giới” cũng chỉ ra một số đặc trưng cơ bản của biểu tượng: “Biểu tượng luôn rộng lớn hơn ý nghĩa được gán cho một cách nhân tạo, nó có sức vang cốt yếu và tự sinh […]. Biểu tượng luôn được so sánh với các dạng thức gây cảm xúc có tính chức năng và động lực cao”. [3, tr. 278] Theo Pêtit Larousse (1993) biểu tượng là “một dấu hiệu ám ảnh, con vật hay đồ vật biểu thị một điều trừu tượng: nó là hình ảnh cụ thể của một sự vật hay một điều gì đó”. (1) Nhà phân tâm học Thụy Sĩ C.G.Jung, từ góc độ ngôn ngữ nói rõ hơn: “Biểu tượng là một danh từ, một tên gọi hay một đồ vật tuy đã quen thuộc với ta hằng ngày nhưng còn gợi thêm nhiều ý nghĩa khác bổ sung vào ý nghĩa ước định, hiển nhiên và trực tiếp của nó”. (2) Từ điển Tiếng Việt lại định nghĩa: “Biểu tượng là hình ảnh sáng tạo nghệ thuật có ý nghĩa tượng trưng trừu tượng”, “Biểu tượng là hình thức của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan của ta đã chấm hết”. [12, tr. 88] Tác giả Đỗ Lai Thuý lại có cách định nghĩa khác: “Biểu tượng là một thứ xác định toàn bộ hiện thực trừu tượng, nằm ngoài tầm với của các giác quan trong hình thức một hình ảnh hay một vật thể”. (3) Tóm lại, đây là những cách hiểu phổ biến mà người viết đã sưu tầm được. Sau khi tổng hợp, phân tích những cách hiểu trên, tác giả khoá luận dùng cách hiểu của Đỗ Lai Thuý làm cơ sở cho sự khảo sát của mình. Khi đi vào văn học, biểu tượng với tư cách là một phương tiện của nghệ thuật, cho ta thấy cách thức con người nắm bắt thế giới sự vật, biến nó thành sự phản ánh những khía cạnh khác nhau trong đời sống tinh thần và xúc cảm (1), (2), (3) Dẫn theo Đỗ Lai Thuý, Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực. In trong “Hồ Xuân Hương về tác gia và tác phẩm”, Tlđd, Tr. 268 - 269. 23 của con người như thế nào? Chúng ta sẽ tìm hiểu về biểu tượng dưới góc độ văn học. 2.1.1.2. Biểu tượng dưới góc độ văn học Sau khi đã tổng hợp những thành tựu mĩ học, lí luận văn học Mác - xít, các tác giả “Từ điển thuật ngữ văn học” đã có sự kiến giải về biểu tượng dưới góc độ văn học trên hai cấp độ nghĩa rộng và nghĩa hẹp: Văn học phản ánh cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật. Đặc điểm này của hình tượng nghệ thuật là sự tái hiện thế giới, làm cho con người và cuộc sống hiện lên y như thật. Hình tượng cũng là hình tượng đầy tính ước lệ. Bằng hình tượng, nghệ thuật sáng tạo ra một thế giới mang tính hình tượng. Theo nghĩa rộng “Biểu tượng là đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng của văn học nghệ thuật”. [12, tr. 24] Theo nghĩa hẹp, “Biểu tượng là một phương thức chuyển nghĩa của lời nói hoặc một loại hình nghệ thuật đặc biệt có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay triết lý sâu xa về con người và cuộc đời”. [12, tr. 24]. Chẳng hạn, hình tượng “Đạm Tiên” (Truyện Kiều - Nguyễn Du), hình tượng “cây sồi” (Chiến tranh và hoà bình - L.Tônxtôi), hình tượng “Bò khoang” (Phiên chợ Giát - Nguyễn Minh Châu)… là những hình tượng mang tính biểu tượng cao. Đặc biệt các tác giả “Từ điển thuật ngữ văn học” còn nhấn mạnh đến phương diện khác của biểu tượng đó là “bên cạnh những biểu tượng thể hiện ý thức chung của xã hội, trong văn học nghệ thuật có rất nhiều biểu tượng in đậm dấu ấn cá tính sáng tạo của nhà văn, nhà thơ”. [12, tr. 26] Vì vậy, phải thực sự thâm nhập vào phong cách, khuynh hướng sáng tác và toàn bộ thế giới nghệ thuật của tác giả mới có thể giải mã được các tầng ý nghĩa mà biểu tượng gợi ra. Điều này được thể hiện rõ nét trong phong cách của một số tác giả như Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan,… Đặc biệt là nữ sĩ Hồ Xuân Hương. 24
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan