VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ HẢI HOÀN
HỆ SINH THÁI HỖ TRỢ
DOANH NGHIỆP XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ VẬN TÀI THỦY-BỘ
NỘI ĐỊA Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Chuyên ngành:
Mã số:
Quản lý kinh tế
9.34.04.10
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2018`
1
Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
Tập thể hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Trương Thị Nam Thắng
2. PGS.TS. Bùi Quang Tuấn
Phản biện 1: PGS.TS. Lê Xuân Đình
Phản biện 2: PGS.TS. Tô Trung Thành
Phản biện 3: TS. Đặng Thị Phương Hoa
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện,
tại: Học viện Khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội
Vào hồi giờ, ngày tháng năm
Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Một thế giới với nhiều vấn đề xã hội như đói nghèo, bệnh tật,
thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, an toàn thực phẩm, người khuyết
tật,…thì DNXH được coi như một giải pháp cho sự phát triển bền
vững. Để phát triển và nhân rộng mô hình DNXH, cần phải có một
hệ sinh thái hỗ trợ DNXH được thiết lập và vận hành một cách tích
cực và toàn diện. Ở VN, những năm gần đây, hệ sinh thái hỗ trợ
DNXH đã bắt đầu được hình thành nhưng có rất nhiều hạn chế và
vấp phải nhiều khó khăn thách thức như: chưa có một khái niệm cụ
thể rõ ràng về DNXH và hệ sinh thái cho DNXH, chưa có chính
sách hỗ trợ cụ thể, các hoạt động truyền thông lẻ tẻ và rải rác, chưa
có thị trường đầu tư xã hội, các hoạt động tư vấn, nâng cao năng lực
và trợ giúp trung gian mới chỉ dừng lại ở số lượng ít và mức độ tác
động chưa mạnh mẽ.
VN với chủ trương xây dựng đất nước bình đẳng nhân ái trong
sự phát triển bền vững thì cần có sự nỗ lực của tất cả các đối tượng
hữu quan để tạo nên một hệ sinh thái hỗ trợ sự phát triển của
DNXH. Để đóng góp vào sự phát triển của hệ sinh thái hỗ trợ
DNXH ở VN, tác giả đã lựa chọn: “Hệ sinh thái hỗ trợ doanh
nghiệp xã hội ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1 Mục tiêu nghiên cứu tổng thể
Trên cơ sở lý luận và kinh nghiệm của hệ sinh thái hỗ trợ
DNXH, luận án nghiên cứu thực trạng hệ sinh thái hỗ trợ DNXH ở
3
VN, từ đó đưa ra các phương hướng và giải pháp phát triển hệ sinh
thái hỗ trợ DNXH ở Việt Nam.
2.2 Các nhiệm vụ cụ thể
+ Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế
về DNXH và hệ sinh thái hỗ trợ DNXH; + Nghiên cứu và đánh giá
thực trạng hệ sinh thái hỗ trợ DNXH ở VN dựa trên các tiêu chí
đánh giá hệ sinh thái hỗ trợ DNXH; + Đề xuất những giải pháp chủ
yếu phát triển hệ sinh thái hỗ trợ DNXH ở VN.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: hệ sinh thái hỗ trợ DNXH ở Việt Nam.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Nội dung: thực trạng hệ sinh thái hỗ trợ DNXH ở VN, với 5 cấu
phần: khung pháp lý - chính sách, hỗ trợ trung gian, đào tạo-nghiên
cứu, hỗ trợ tài chính, truyền thông. Không gian: TP. Hồ Chí Minh
và Hà Nội. Thời gian: Từ 2007 đến 2017.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1 Câu hỏi nghiên cứu
- Những cấu phần nào tạo nên hệ sinh thái hỗ trợ DNXH ở VN?
- Thực trạng hệ sinh thái hỗ trợ DNXH ở VN hiện nay như thế nào?
- Làm thế nào để phát triển hệ sinh thái hỗ trợ DNXH ở VN trong
điều kiện hiện nay?
4.2 Phương pháp luận
Trên cơ sở sử dụng phương pháp duy vật lịch sử và duy vật biện
chứng, luận án xem xét tổng thể các đối tượng có sự tác động qua
lại lẫn nhau và đặt chúng trong sự vận động, phát triển liên tục.
4
4.3 Phương pháp nghiên cứu
a)
Thu thập dữ liệu và số liệu:
- Dữ liệu thứ cấp: báo cáo; các công bố trên báo và tạp chí, sách,
giáo trình. - Dữ liệu sơ cấp: Tác giả thu thập từ các phương pháp:
phương pháp quan sát tham dự, phỏng vấn sâu, điều tra khảo sát.
b)
Xử lý dữ liệu, số liệu:
Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa,
so sánh đối chiếu; phương pháp nghiên cứu trường hợp (case study),
SWOT, thống kê mô tả.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
(1) Luận án đưa ra mô hình mới cho hệ sinh thái hỗ trợ DNXH
nhằm bổ sung thêm cho lý thuyết và thực tiễn; (2) Luận án đưa ra
Bộ tiêu chí đo lường hệ sinh thái hỗ trợ DNXH tại VN nhằm góp
phần phát triển hệ thống đo lường và đánh giá một hệ sinh thái
trong lĩnh vực kinh tế nói chung; (3) Luận án đã khắc họa một bức
tranh tổng thể về hệ sinh thái DNXH Việt Nam nhằm làm giàu thêm
những hiểu biết, góp phần làm thay đổi thái độ và hành vi của cộng
đồng xã hội đối với một lĩnh vực mới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
(1) Nghiên cứu đóng góp vào quá trình hệ thống hóa và phát
triển lý thuyết về DNXH và hệ sinh thái hỗ trợ DNXH; (2) Luận án
giúp thống nhất về nhận thức và lý luận của một phạm trù trong
khoa học quản lý mà đối tượng cần phải nắm bắt và vận dụng là các
nhà quản lý, quản trị ở Việt Nam; (3) Kết quả của luận án là nguồn
thông tin có giá trị đối với các tác nhân chính trong hệ sinh thái này
để vận dụng vào quá trình nghiên cứu và thực hành trong lĩnh vực
của mình; (4) Đề xuất một bộ giải pháp tổng thể có ý nghĩa thực
5
tiễn đối với các tác nhân trong hệ sinh thái và các nhà quản trị chiến
lược có thể lựa chọn giải pháp phát triển cho hệ sinh thái.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, lời cam đoan, trang bìa và phụ bìa,
danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt, danh mục bảng hình, tài liệu
tham khảo và phụ lục, luận án được kết cấu thành bốn chương như
sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu;
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế về hệ sinh thái
hỗ trợ DNXH;
Chương 3: Thực trạng hệ sinh thái hỗ trợ DNXH ở VN;
Chương 4: Phương hướng và giải pháp phát triển hệ sinh thái hỗ trợ
doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam.
6
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1 Tổng quan các nghiên cứu trước đây
1.1.1 Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
1.1.1.1 Các nghiên cứu về DNXH
Khái niệm “Doanh nghiệp xã hội”: Thuật ngữ doanh nghiệp xã
hội (DNXH) nổi lên trong giới học thuật từ cuối những năm 1990 ở
Mỹ và Anh (Boschee, 1995; Dees 1998a; Thompson, Alvy & Lees,
2000; Drayton, 2002; Leadbeater, 1997; School for Social
Entrepreneurs, 2002). Đây là sự kết hợp niềm đam mê về một sứ
mệnh xã hội với nguyên tắc, sáng tạo và sự quyết tâm của doanh
nhân (Dees, 1998), một ý tưởng mới đầy sức mạnh kết hợp với tầm
nhìn xa và khả năng sáng tạo để giải quyết những vấn đề trong thế
giới thực (Bornstein, 1998). Thompson, Alvy và Lees (2000) cho
rằng DNXH là nơi tập trung những nguồn lực cần thiết để đáp ứng
một số nhu cầu của xã hội mà hệ thống phúc lợi nhà nước sẽ không
hoặc không thể đáp ứng được. Loại hình kinh doanh này làm mờ
ranh giới truyền thống giữa khu vực tư nhân và khu vực công, tạo ra
doanh nghiệp lai ghép (Wallace, 1999; Johnson, 2000; Doherty,
Helen Haugh, Fergus Lyon, 2014; Ofer Eldar, 2017).
Lịch sử và vai trò của DNXH: Năm 1665, Thomas Firmin cung
cấp việc làm cho 1.700 công nhân đang thất nghiệp, đồng thời
chuyển lợi nhuận cho các quỹ từ thiện (CIEM, CSIP & BC và cộng
sự, 2012), Florence Nightingale đã thực hiện một cuộc cách mạng để
cải thiện điều kiện của bệnh viện vào cuối những năm 1800
(Bornstein, 2007). Nicholls (2008, 23) cho rằng DNXH thực hiện
5
một tập hợp các hoạt động sáng tạo và hiệu quả nhằm tập trung vào
giải quyết những thất bại của thị trường và tạo ra cơ hội mới để tăng
thêm giá trị xã hội một cách hệ thống. DNXH như một hình thức
kinh doanh mới tạo ra sự giàu có về mặt xã hội nhiều hơn là tạo ra sự
giàu có về kinh tế (Dees, 2001; Drayton, 2002; Leadbeater, 1997).
Các mô hình và hình thức pháp lý cho doanh nghiệp xã hội
Các DNXH ở Mỹ có thể xuất hiện dưới hình thức là các công ty
một chủ sở hữu, tập đoàn, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu
hạn, tổ chức phi lợi nhuận và tổ chức vì lợi nhuân (Giulia Galera &
Carlo Borzaga, 2009), và cũng có thể nằm trong một tổ chức thuộc
khu vực công (Pontus Braunerhjelm and Ulrika Stuart Hamilton,
2012). Ở Châu Âu hầu hết DNXH ở đây có hình thức pháp lý là hợp
tác xã, hiệp hội. Các hiệp hội được phép tự do bán hàng hóa và dịch
vụ trên thị trường mở, còn hợp tác xã có những biểu hiện thú vị hơn
khi họ có đặc điểm kinh doanh rõ ràng” (Giulia Galera & Carlo
Borzaga, 2009).
Nghiên cứu về quản trị DNXH: Song song với thực tiễn phát
triển mạnh mẽ của DNXH trong 10 năm trở lại đây, trong giới học
thuật cũng xuất hiện những nghiên cứu về vấn đề quản trị DNXH.
Một số kết quả nghiên cứu sau đây có tính hệ thống và tương đối
toàn diện đã tạo nền tảng cho những nghiên cứu trong tương lai như
nghiên cứu của EMES và UNDP (2008), Heather Douglas và
Suzannes Grant (2014), Maureen Royce (2007).
1.1.1.2 Các nghiên cứu liên quan đến hệ sinh thái hỗ trợ DNXH
Đối với các DNXH, khi hệ sinh thái không sẵn sàng hỗ trợ sẽ tạo
ra một lỗ hổng nghiêm trọng, cản trở sự phát triển và tiến bộ (Lina
Sonne, 2014). Những hỗ trợ cần thiết để DNXH phát triển như: sự
6
cần thiết của các nhà tư vấn (Leeming, 2002), về cơ sở hạ tầng
(Leeming, 2002), về nhu cầu mạng lưới hỗ trợ tiếp cận vốn (Sharir
và Lerner, 2006), hỗ trợ từ các nhà học thuật (Haugh & Rubery,
2005), hỗ trợ tiếp thị, tài chính vi mô và đào tạo (Ndemo, 2006) và
hỗ trợ từ chính quyền thành phố (Korosec và Berman, 2006).
1.1.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
1.1.2.1 Các nghiên cứu về những vấn đề chung về DNXH
Nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam có giá trị tham khảo rất lớn về
chủ đề DNXH là báo cáo “Doanh nghiệp xã hội ở VN: Khái niệm,
bối cảnh và chính sách” do CIEM, CSIP và Hội đồng Anh thực hiện
năm 2012. Nguyễn Thị Ngọc Anh (2012) bàn về ba mô hình DNXH
theo quan điểm của John Elkington và Pamelia Hartigan”; Dương
Thị Liễu (2012) đề cập đến: “giải pháp đồng bộ cho sự phát triển
DNXH trong những năm tới”; Nguyễn Mạnh Quân (2015) đề xuất
“xây dựng cụm liên kết hay chuỗi DNXH để phát triển bền vững”.
1.1.2.2 Những nghiên cứu về chủ đề hệ sinh thái hỗ trợ DNXH
Trương Thị Nam Thắng (2015) nghiên cứu về “Hệ sinh thái cho
doanh nghiệp xã hội: nghiên cứu quốc tế và khuyến nghị chính sách
cho VN”. Trần Văn Nam (2015) và Nguyễn Vũ Hoàng (2015) bàn về
vấn đề pháp lý của DNXH. Nguyễn Trọng Hiếu và Nguyễn Hồng
Điệp (2016), nghiên cứu “chính sách thuế nhằm thúc đẩy doanh
nghiệp xã hội phát triển tại VN”. Đỗ Thị Đông (2016) nhấn mạnh
việc nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh xã hội ở trường đại học.
1.2 Đánh giá bình luận về các nghiên cứu đã có
Nghiên cứu về hệ sinh thái hỗ trợ DNXH muộn với số lượng chưa
nhiều. Chủ yếu các nghiên cứu này tìm hiểu những vấn đề như khái
niệm, đặc điểm, vai trò, mô hình hoạt động, lịch sử tiến hóa của lĩnh
7
vực và cho đến nay vẫn chưa thống nhất trên nhiều khía cạnh.
Nghiên cứu về một hệ sinh thái cho DNXH với đầy đủ các cấu phần
hỗ trợ còn là mảnh đất mới. Thông qua luận án này, tác giả muốn
thực hiện một nghiên cứu toàn diện hơn về hệ sinh thái hỗ trợ DNXH
ở VN trong bối cảnh hiện nay. Đặc biệt, tác giả sẽ làm rõ vấn đề lý
luận về DNXH, hệ sinh thái cho DNXH, thực trạng của hệ sinh thái
DNXH ở VN và trên cơ sở đó đề xuất các định hướng và giải pháp
nhằm phát triển hệ sinh thái DNXH ở Việt Nam.
CHƯƠNG 2:
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
VỀ HỆ SINH THÁI HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI
2.1 Cơ sở lý thuyết về doanh nghiệp xã hội
2.1.1
Khái niệm về doanh nghiệp xã hội
“DNXH là một mô hình kinh doanh được thành lập nhằm thực
hiện các mục tiêu xã hội và sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư cho mục
tiêu đó hoặc cho cộng đồng, thay vì tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông
hoặc chủ sở hữu” (Department for Business, Innovation and Skills,
2011). Đây là khái niệm được lựa chọn để tham khảo trong quá trình
nghiên cứu đề tài này.
2.1.2
Đặc điểm của doanh nghiệp xã hội
Thứ nhất là, DNXH trước hết phải đặt mục tiêu xã hội lên hàng
đầu. Thứ hai là, DNXH phải tổ chức các hoạt động kinh doanh nhằm
duy trì sự tồn tại và phát triển của chính doanh nghiệp mình.
8
Thứ ba là, lợi nhuận của DNXH phải được tái phân bổ lại phần lớn
cho các hoạt động của doanh nghiệp và cho cộng đồng.
2.1.3
Vai trò của doanh nghiệp xã hội
Thứ nhất, DNXH cung cấp các nhu cầu cơ bản của con người.
Thứ hai, DNXH tạo việc làm và sự hòa nhập xã hội cho những người
yếu thế. Thứ ba, DNXH cung cấp hàng hóa và dịch vụ mang tính lợi
ích kinh tế - xã hội cao.
2.1.4
Các mô hình doanh nghiệp xã hội phổ biến
(i) Mô hình doanh nghiệp phi lợi nhuận được tài trợ (Leveraged
non-profit ventures); (ii) Mô hình DNXH không vì lợi nhuận (Hybrid
non-profit ventures); (iii) Mô hình doanh nghiệp kinh doanh định
hướng xã hội (Social business ventures).
2.1.5
Xu hướng của các doanh nghiệp xã hội trên toàn cầu
Năm xu hướng: (1) sự thống nhất về mục tiêu của DNXH, (2) tác
động xã hội của DNXH, (3) hình thức tồn tại đa dạng của DNXH, (4)
thành lập cơ quan chức năng phụ trách về DNXH, (5) xây dựng và
hoàn thiện Khung chính sách cho DNXH và thúc đẩy mạng lưới kết
nối giữa các cấu phần hỗ trợ DNXH.
2.2 Cơ sở lý thuyết về hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp xã hội
2.2.1
Hệ sinh thái hỗ trợ DNXH và các khái niệm liên quan
Tác giả đề xuất khái niệm và mô hình như sau: “Hệ sinh thái hỗ
trợ doanh nghiệp xã hội là môi trường tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển doanh nghiệp xã hội, trong đó bao gồm các cấu phần chính
như: chính sách-pháp lý, hỗ trợ trung gian, hỗ trợ tài chính, đào tạonghiên cứu và truyền thông” (Hình 2.7).
9
Hình 2.7. Hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp xã hội
2.2.2
Các cấu phần của hệ sinh thái hỗ trợ DNXH
Gồm sáu cấu phần: (i) Chính sách, pháp lý; (ii) Hỗ trợ trung gian;
(iii) Hỗ trợ tài chính; (iv) Đào tạo-nghiên cứu; (v) Truyền thông.
2.2.3 Vai trò của hệ sinh thái hỗ trợ DNXH
Năm vai trò là: (i)Làm thay đổi quan niệm, nâng cao nhận thức về
DNXH; (ii) Ươm mầm và hỗ trợ cho sự phát triển của DNXH; (iii)
Tác động đến cơ chế chính sách hỗ trợ sự phát triển DNXH; (iv) Kết
nối; (v) Thúc đẩy phát triển xã hội và bền vững về kinh tế.
2.2.4 Các yếu tố tác động đến hệ sinh thái hỗ trợ DNXH
Năm yếu tố tác động là: (i) Toàn cầu hóa; (ii) Bối cảnh xã hội;
(iii) Thể chế; (iv) Quan điểm, nhận thức; (v) Văn hóa.
10
2.2.5 Các tiêu chí đo lường sự phát triển của hệ sinh thái hỗ trợ
DNXH
Sáu tiêu chí: (1) Số lượng; (2) Nguồn lực; (3) Kết nối; (4) Thuận
lợi; (5) Kết quả; (6) Tinh thần xã hội.
2.3 Kinh nghiệm về hệ sinh thái hỗ trợ DNXH trên thế giới
2.3.1 Kinh nghiệm của nước Anh
Gồm 6 cấu phần sau: (i) Khung chính sách và khung pháp lý cho
DNXH; (ii) Chương trình hỗ trợ công nhằm mục tiêu DNXH; (iii)
Hỗ trợ chuyên biệt và cơ sở hạ tầng cho DNXH; (iv) Mạng lưới các
cơ chế hỗ trợ lẫn nhau; (v) Hệ thống chứng chỉ, nhãn mác và đo
lường, báo cáo tác động xã hội; (vi) Thị trường đầu tư xã hội.
2.3.2 Kinh nghiệm của Ấn Độ
Gồm 5 cấu phần sau: (i) Chính sách; (ii) Đào tạo-nghiên cứu; (iii)
Hỗ trợ tài chính và các nhà đầu tư tác động; (iv) Hỗ trợ trung gian;
(v) Truyền thông.
2.3.3 Những vấn đề có thể tham khảo cho Việt Nam
Thứ nhất, Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong một số lĩnh
vực có tính chất quyết định như xây dựng khung pháp lý và chính
sách riêng cho DNXH. Thứ hai, vấn đề sống còn đối với DNXH đó
là nguồn vốn/tài chính. Thứ ba, đối với các hoạt động đào tạo nghiên cứu, đặc biệt ở Anh đã thực hiện nhiều hoạt động phong phú
mà Việt Nam có thể mô phỏng với một cách thức tương tự. Thứ tư,
đối với hỗ trợ trung gian, VN có thể lồng ghép nhiệm vụ này vào các
tổ chức hay mạng lưới có sẵn và đang hoạt động. Thứ năm, để tăng
cường việc tuyên truyền phổ biến, cần phải đa dạng hóa các loại hình
truyền thông khác nhau.
11
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG HỆ SINH THÁI
HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
3.1 Doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam
3.1.1 Thực trạng DNXH VN và trường hợp nghiên cứu điển hình
Tính đến năm 2015, VN có khoảng 300 DNXH và hơn 165.000
đơn vị/tổ chức hoạt động dưới hình thức từ thiện, phi lợi nhuận. Đa
số các DNXH tập trung ở Hà Nội (41%) và thành phố Hồ Chí Minh
(13%) (CIEM, CSIP & BC, 2012). Phạm vi tác động của DNXH ở
38 tỉnh còn lại là không đáng kể. Thống kê của CIEM, CSIP & BC
(2012) cho thấy khoảng 70% DNXH đã và đang hỗ trợ vào việc xóa
đói giảm nghèo, ổn định cuộc sống, nâng cao thu nhập, đào tạo nghề
và tạo cơ hội công ăn việc làm. Đồng thời cũng có 48% DNXH theo
đuổi mục tiêu vì môi trường như cung cấp các sản phẩm dịch vụ thân
thiện với môi trường, hoạt động thân thiện với môi trường và nâng
cao nhận thức của cộng đồng xã hội về vấn đề môi trường (Ngô Tuấn
Anh và cộng sự, 2015). Về lĩnh vực hoạt động, có 56,3% DNXH
hoạt động trong lĩnh vực đào tạo-giáo dục, 37,7% trong ngành thủ
công mỹ nghệ, 20,4% trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, 9% trong
truyền thông cộng đồng và 6,6% trong bảo vệ môi trường (CIEM,
CSIP & BC, 2012). Nghiên cứu trường hợp của Koto và Kym Việt.
3.1.2 Đánh giá về thực trạng DNXH ở Việt Nam
Thông qua kết quả thu thập dữ liệu, tác giả nhận thấy rằng lý do
quan trọng nhất để một DNXH có thể được thành lập, tồn tại và phát
triển, đó là tinh thần xã hội. Dựa trên tiêu chí về số lượng, nguồn lực,
tính kết nối thì những con số cho thấy thực trạng DNXH còn quá nhỏ
12
bé về quy mô, mỏng về nguồn lực và chưa mạnh về tính kết nối. Về
số lượng DNXH được công nhận mới chỉ dừng lại ở con số 22 DN
đến nay, còn lại là những mô hình tổ chức khác mà hoạt động tương
tự như một DNXH. Về tính thuận lợi trong quá trình hoạt động của
DNXH, đa phần các DNhXH thừa nhận rằng họ thường gặp khó
khăn chồng chất nhiều hơn so với DN thông thường.
3.2 Thực trạng các cấu phần trong hệ sinh thái hỗ trợ DNXH ở
Việt Nam
3.2.1 Chính sách – pháp lý
Tác giả đã phỏng vấn các chủ thể trong cấu phần chính sách-pháp
lý mà đại diện là CIEM nhằm mục đích thu thập dữ liệu về tất cả
những hoạt động và kết quả mà CIEM đã làm nhằm tạo tác động
trong quá trình phát triển DNXH ở VN.
3.2.2 Hỗ trợ trung gian
Để hiểu một cách cụ thể về cấu phần hỗ trợ trung gian, trong
khuôn khổ luận án này, tác giả chọn CSIP là trường hợp nghiên cứu
điển hình bởi CSIP được xem như “bà đỡ” thành công của rất nhiều
DNXH ra đời và đang phát triển, gián tiếp tạo ra những thay đổi tích
cực cho cộng đồng, xã hội.
3.2.3 Hỗ trợ tài chính
Một số tổ chức hỗ trợ tài chính nổi bật hiện nay như: Lotus
Impact, Microcredit Funds, IPP, Thriive, Nafosted, LGTVP, Oxfam.
Trong nghiên cứu này, tác giả lựa chọn Oxfam là trường hợp nghiên
cứu vì đây là một tổ chức có nhiều đóng góp cho sự phát triển xã hội
của VN trong nhiều thập kỷ qua cho đến nay.
3.2.4 Đào tạo – nghiên cứu
13
Những tổ chức đào tạo-nghiên cứu tham gia vào hệ sinh thái hỗ
trợ DNXH ở VN như CIEM, Hội đồng Anh, Trung tâm Hỗ trợ Sáng
kiến phục vụ công đồng (CSIP), Trung tâm phát triển DNXH
(SPARK), Trường ĐH KTQD, ĐH Ngoại thương HN, ĐH Kinh tế
(ĐH QG), ĐH Thái Nguyên. Trong số các tổ chức trên, Trường ĐH
KTQD là nơi kết hợp được cả việc đào tạo và nghiên cứu về DNXH
một cách tương đối bài bản, chuyên sâu, có chiến lược phát triển
mạnh mẽ trong tương lai. Vì vậy, tác giả lựa chọn Trường ĐH
KTQD làm trường hợp nghiên cứu về cấu phần đào tạo – nghiên cứu.
3.2.5 Truyền thông
Truyền hình là một hình thức truyền thông ưa chuộng nhất hiện
nay với số lượng khán giả đông đảo. Tuy nhiên, cho đến nay, ở VN
chỉ có duy nhất một đài truyền hình đã dành riêng một chương trình
chuyên biệt với thời lượng phát sóng đều đặn hàng tuần về doanh
nghiệp xã hội và sáng tạo xã hội, đó là Hanoi TV. Vì vậy, trong
nghiên cứu này, tác giả lựa chọn Hanoi TV là trường hợp nghiên cứu
điển hình như một cấu phần truyền thông quan trọng trong hệ sinh
thái hỗ trợ DNXH.
3.3 Đánh giá về hệ sinh thái hỗ trợ DNXH ở Việt Nam
3.3.1 Đánh giá các cấu phần theo tiêu chí đo lường hệ sinh thái
Hệ sinh thái hỗ trợ DNXH còn non trẻ nhưng với những hoạt
động tích cực, mục đích rõ ràng và đặc biệt tâm huyết của các chủ
thể tham gia hệ sinh thái đã tạo nên tầm ảnh hưởng đáng kể đối với
cộng đồng, xã hội. Nhiều kết quả đạt được như việc thay đổi nhận
thức của con người, tuyên truyền lan tỏa tinh thần kinh doanh xã hội,
đào tạo tập huấn cho một số đối tượng là sinh viên, giảng viên,
nghiên cứu viên, doanh nhân xã hội, cán bộ cơ quan quản lý, hỗ trợ
14
tài chính và nâng cao năng lực cho DNXH. Dựa trên kết quả khảo sát
với 112 chủ thể tham gia hệ sinh thái hỗ trợ DNXH, tác giả đã thống
kê điểm trung bình của các cấu phần dựa trên kết quả mà họ đạt được
trong sáu tiêu chí đo lường như bảng dưới đây.
Bảng 3.8. Bảng đánh giá hệ sinh thái hỗ trợ DNXH ở VN
Các cấu phần
Điểm
trung bình
Cao nhất
Thấp
nhất
Chính sách pháp lý
2,57
2,89
2,21
Hỗ trợ tài chính
2,52
2,93
2,00
Hỗ trợ trung gian
2,93
3,25
2,61
Đào tạo - nghiên cứu
2,76
3,18
2,46
Truyền thông
2,28
2,61
2,18
Doanh nghiệp xã hội
3,43
4,07
2,07
(Nguồn: Tác giả)
Từ bảng thống kê 3.8, tác giả minh họa điểm trung bình của các
cấu phần bằng mô hình đánh giá hệ sinh thái hỗ trợ DNXH ở VN
như hình 3.1. Thang điểm đánh giá cao nhất là 5, thấp nhất là 1.
Theo kết quả đánh giá, bản thân DNXH là đối tượng năng động
nhất với kết quả cao nhất (3,43 điểm). Trong số năm cấu phần của hệ
sinh thái, hỗ trợ trung gian là cấu phần đạt điểm cao nhất (2,93) và
truyền thông đạt điểm thấp nhất (2,28). Các cấu phần còn lại đạt trên
mức trung bình, bao gồm chính sách pháp lý là 2,57 điểm; hỗ trợ tài
chính 2,52 và đào tạo-nghiên cứu 2,76 điểm. Trật tự này tương đối
đồng nhất với kết quả phỏng vấn trực tiếp ý kiến của các chủ thể
trong hệ sinh thái về thực trạng của hệ sinh thái hiện nay
15
Hình 3.1. Mô hình đánh giá hệ sinh thái hỗ trợ DNXH ở VN
(Nguồn: Tác giả)
3.3.2 Phân tích những khó khăn và hạn chế của hệ sinh thái hỗ
trợ DNXH ở Việt Nam
(i) Nhận thức về DNXH còn rất hạn chế
Đây là khó khăn thuộc về cả chủ quan và khách quan. Bởi vấn đề
nhận thức ở đây không chỉ là của nhân dân mà bao gồm cả những tri
thức, những người quản lý, lãnh đạo và cả người tham gia hệ sinh
thái hỗ trợ DNXH bấy lâu nay. Điều này có lẽ bởi chúng ta chưa định
hình rõ ràng được loại hình DN này, chưa tiếp cận thực tế và nắm bắt
được cách thức hoạt động của nó, vì vậy hiểu chưa đúng hoặc bị
nhầm lẫn với loại hình khác.
16
(ii) Chưa có sự đầu tư về nguồn lực cho hệ sinh thái hỗ trợ DNXH
Kết quả nghiên cứu hệ sinh thái hỗ trợ DNXH cho thấy nguồn lực
dành cho mỗi cấu phần còn rất hạn hẹp. Nhân sự mỏng, không có bộ
phận chuyên trách về lĩnh vực mới này. Không có sự tiếp nối, kế
thừa của các thế hệ tiếp theo trong tương lai hoặc ngay trong hiện tại
cũng không chắc chắn các tổ chức đó sẽ tiếp tục đầu tư nhân lực cho
lĩnh vực mới này. Nguồn lực về tài chính cũng rất khó khăn. Nguyên
nhân một phần do nhận thức của các nhà quản lý chưa thực sự đánh
giá đúng mức tiềm năng của lĩnh vực mới này, một phần đến từ thực
trạng eo hẹp về tài chính trong tổ chức khiến các nhà quản lý phải
cân nhắc tập trung vào những lĩnh vực “nóng” hơn, hấp dẫn nguồn
tài trợ hơn và dễ sinh lời hơn.
(iii) Chưa có khung khổ pháp lý và chính sách riêng cho DNXH
DNXH đang hoạt động dựa trên khung khổ pháp lý quy định về
loại hình tổ chức doanh nghiệp (Luật Doanh nghiệp) hoặc là tổ chức
NGO (hoạt động theo Nghị đinh, Thông tư về các hội, quỹ từ thiện,
quỹ xã hội, tổ chức khoa học công nghệ). Do không có khung khổ
pháp lý và các chính sách quy định rõ ràng, chi tiết hơn cho DNXH,
nên nhiều vướng mắc trong quá trình thành lập, vận hành và phát
triển của các DNXH đã nảy sinh như: nhiều quy định chồng chéo,
quy trình phức tạp, thủ tục rườm rà, quá nhiều yêu cầu đặt ra khiến
cho nhiều tổ chức/DNXH không đáp ứng được kịp thời gây mất thời
gian, lãng phí nguồn lực.
(iv) Thiếu hụt những hỗ trợ cơ bản để nâng cao năng lực cho DNXH
Bản thân các cấu phần trong hệ sinh thái cũng còn rất thiếu về
nguồn lực, yếu về liên kết hoặc chịu nhiều ràng buộc nên mới chỉ đáp
ứng được một phần nhỏ nhu cầu của DNXH. Nguồn lực ở đây bao
17
gồm: nhân sự, năng lực, kinh phí, cơ sở vật chất, kỹ thuật và công
nghệ. Các chủ thể tham gia hệ sinh thái hiện nay đều là những người
có năng lực tốt vì thông thường khi được giao phó cho những nhiệm
vụ hoàn toàn mới, cần lựa chọn những người có trình độ và kinh
nghiệm tương đối vững vàng. Tuy nhiên, nguồn lực quá mỏng không
thể đáp ứng được nhu cầu của các DNXH, không thể có sẵn để cung
cấp cho các DNXH khi họ cần.
(v) Thị trường vốn đầu tư xã hội tại Việt Nam khó tiếp cận
VN chưa thực sự có một thị trường vốn đảm bảo đáp ứng nhu cầu
của DNXH. Điều này thể hiện ở việc thiếu vốn cũng như thiếu các
hình thức và kênh cấp vốn phù hợp với DNXH phát triển ở các giai
đoạn khác nhau và trong các lĩnh vực khác nhau. Gần đây, thị trường
vốn xã hội xuất hiện như một khái niệm mới đồng thời cũng bắt đầu
có sự xuất hiện của một vài quỹ đầu tư xã hội chuyên biệt áp dụng
hình thức hỗ trợ cho vay một khoản vốn tương đối lớn dành DNXH
đang hoạt động. Tuy nhiên, tiêu chí để DNXH được cung cấp tài
chính từ những tổ chức này lại không hề dễ dàng. Đại đa số các
DNXH vẫn chưa tiếp cận được với nguồn vốn mà họ cần.
(vi) Truyền thông hoạt động đơn lẻ, rải rác
Chưa có một tờ báo, tạp chí nào chuyên biệt về DNXH hay các
vấn đề liên quan. Đài phát thanh, truyền hình hầu như không có một
kênh nào dành riêng một chuyên mục cho chủ đề này, ngoại trừ một
chương trình duy nhất của HanoiTV kéo dài từ 8/2014 đến 8/2016 thì
dừng. Truyền thông về DNXH chưa phát huy được sức mạnh to lớn
của mình trong việc tăng cường nhận thức, phổ biến và lan tỏa về
DNXH và tinh thần kinh doanh xã hội.
18
- Xem thêm -