Môn học : KINH TẾ QUẢN LÝ
Họ và tên : Nguyễn Thị Thùy Dung
Mã học viên
: CH190405
Hệ
: Sau đại học
Trường : ĐH Kinh tế quốc dân
Đề bài: Hãy trình bày về các loại hình doanh nghiệp. Tại sao nói công ty
cổ phần là hình thức tiên tiến nhất? Liên hệ quá trình cổ phần hóa doanh
nghiệp Nhà nước ở Việt Nam.
Bài làm:
1. Các loại hình doanh nghiệp:
1.1. Doanh nghiệp một chủ sở hữu (Proprietorship)
Đây là hình thức đơn giản nhất của một tổ chức kinh doanh: Doanh
nghiệp có một người chủ sở hữu duy nhất. Người chủ sở hữu này cung
cấp vốn, trực tiếp ra quyết định và hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi
khoản lỗ, lãi của doanh nghiệp.
Ưu điểm: Tốc độ ra quyết định, và tính linh hoạt của doanh nghiệp
trước những sự thay đổi của thị trường.
Nhược điểm: Lượng vốn của người sở hữu và trách nhiệm vô hạn
của người chủ đối với các khoản lỗ của doanh nghiệp.
Lĩnh vực hoạt động: Nông nghiệp, bán lẻ, xây dựng và dịch vụ.
1.2. Doanh nghiệp đồng sở hữu (Partnership):
Đây là loại hình doanh nghiệp có từ hai chủ sở hữu hoặc nhiều hơn.
Họ cùng góp vốn và cùng tham gia vào việc ra quyết định kinh doanh.
Ưu điểm: Mỗi thành viên góp vốn có thể chuyên môn hóa theo
một lĩnh vực nào đó của hoạt động kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp. Tốc độ ra quyết định, và tính linh hoạt
của doanh nghiệp trước những sự thay đổi của thị trường.
Nhược điểm:Lượng vốn của người sở hữu và trách nhiệm vô hạn
của người chủ đối với các khoản lỗ của doanh nghiệp. Sự tồn tại của loại
hình doanh nghiệp này phụ thuộc vào sự nhất trí của các thành viên và
điều này rất khó duy trì trong các điều kiện biến động của thị trường.
Lĩnh vực hoạt động: Dịch vụ tư vấn, y tế và luật.
1.3. Công ty cổ phần (The joint stock company):
Công ty cổ phần là một thể chế kinh doanh, một loại hình doanh
nghiệp hình thành, tồn tại và phát triển bởi sự góp vốn của nhiều cổ
đông. Trong công ty cổ phần, số vốn điều lệ của công ty được chia nhỏ
thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần. Các cá nhân hay tổ chức sở
hữu cổ phần được gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy chứng
nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu. Chỉ có công ty cổ phần mới được
phát hành cổ phiếu.Như vậy, cổ phiếu chính là một bằng chứng xác nhận
quyền sở hữu của một cổ đông đối với một Công ty Cổ phần và cổ đông
là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu. Công ty cổ phần là một
trong loại hình công ty căn bản tồn tại trên thị trường và nhất là để niêm
yết trên thị trường chứng khoán.
Bộ máy các công ty cổ phần được cơ cấu theo luật pháp và điều lệ
công ty với nguyên tắc cơ cấu nhằm đảm bảo tính chuẩn mực, minh bạch
và hoạt động có hiệu quả.
Công ty Cổ phần phải có Đại hội đồng Cổ đông, Hội đồng Quản trị
và Ban Điều hành. Đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ đông
phải có Ban Kiểm soát.
Ưu điểm:
Nhà đầu tư chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn tương ứng với tỷ lệ góp
vốn trong công ty;
Quy mô hoạt động lớn và khả năng mở rộng kinh doanh dễ dàng từ
việc huy động vốn cổ phần;
Nhà đầu tư có khả năng điều chuyển vốn đầu tư từ nơi này sang nơi
khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác dễ dàng thông qua hình thức
chuyển nhượng, mua bán cổ phần;
Việc hoạt động của công ty đạt hiệu quả cao do tính độc lập giữa
quản lý và sở hữu.
-
-
Nhược điểm:
Mức thuế tương đối cao vì ngoài thuế mà công ty phải thực hiện nghĩa
vụ với ngân sách nhà nước, các cổ đông còn phải chịu thuế thu nhập
bổ sung từ nguồn cổ tức và lãi cổ phần theo qui định của luật pháp.
Chi phí cho việc thành lập doanh nghiệp khá tốn kém.
Khả năng bảo mật kinh doanh và tài chính bị hạn chế do công ty phải
công khai và báo cáo với các cổ đông.
Khả năng thay đổi phạm vi lĩnh vực kinh doanh cũng như trong hoạt
động kinh doanh không linh hoạt do phải tuân thủ theo những qui
định trong Điều lệ của công ty, ví dụ có trường hợp phải do Đại hội
đồng Cổ đông của Công ty Cổ phần quyết định.
Nhưng Công ty Cổ phần vẫn được coi là loại hình doanh
nghiệp tiên tiến nhất là do:
- Chế độ trách nhiệm của công ty cổ phần là trách nhiệm hữu hạn, các
cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
công ty trong phạm vi vốn góp nên mức độ rủi do của các cổ đông
không cao
- Khả năng hoạt động của công ty cổ phần rất rộng, trong hầu hết các
lịch vực, ngành nghề. Quy mô hoạt động lớn và khả năng mở rộng
kinh doanh dễ dàng từ việc huy động vốn cổ phần.
- Cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết sức linh hoạt tạo điều kiện nhiều
người cùng góp vốn vào công ty.
- Khả năng huy động vốn của công ty cổ phần rất cao thông qua việc
phát hành cổ phiếu ra công chúng, đây là đặc điểm riêng có của công
ty cổ phần
- Việc chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần là tương đối dễ dàng,
do vậy phạm vi đối tượng được tham gia công ty cổ phần là rất rộng,
ngay cả các cán bộ công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của công
ty cổ phần. Nhà đầu tư có khả năng điều chuyển vốn đầu tư từ nơi này
sang nơi khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác dễ dàng thông qua
hình thức chuyển nhượng, mua bán cổ phần.
- Dễ tiếp cận với các công nghệ tiên tiến hiện đại do có thể huy động
được một lượng vốn đủ lớn để đáp ứng kịp thời sự thay đổi nhanh
chóng của công nghệ.
- Mô hình tổ chức và quản lý chặt chẽ và hoàn thiện nhất trong tất cả
các loại hình doanh nghiệp.
2. Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt
Nam
2.1. Bối cảnh:
Để có thể tiến hành cải cách kinh tế bắt đầu từ nửa sau của thập kỷ
1990, Việt Nam đã đề nghị sự giúp đỡ về tài chính và kỹ thuật của các
thể chế tài chính toàn cầu như Nhóm Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ
Quốc tế, Ngân hàng Phát triển châu Á và các nhà tài trợ mà hầu hết là
những nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Một trong những cái giá
Việt Nam phải trả là phải tiến hành một số cải cách theo đề nghị của
những tổ chức và nhà tài trợ - những cải cách mà vào thời điểm đầu thập
niên 1990 Việt Nam còn chưa nhận thức đầy đủ sự cần thiết và do đó rất
miễn cưỡng thực hiện. Trong số những cải cách miễn cưỡng này có tư
nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước. Để tránh gây ra mâu thuẫn sâu sắc
với bộ phận cán bộ và nhân dân lo ngại về sự phát triển của khu vực kinh
tế tư nhân, Chính phủ Việt Nam đã quyết định sẽ không bán đứt các
doanh nghiệp của mình cho các cá nhân, thay vì đó tiến hành chuyển các
doanh nghiệp nhà nước thành doanh nghiệp cổ phần. Tài sản của doanh
nghiệp được chia thành các cổ phần bán cho cán bộ công nhân trong
doanh nghiệp và phần còn lại do nhà nước sở hữu. Tùy từng doanh
nghiệp, phần cổ phần do nhà nước sở hữu có thể nhiều hay ít, từ 0% tới
100%.
2.2. Quá trình thực hiện:
Giai đoạn thí điểm rụt rè (6/1992 – 4/1996)
Cổ phần hóa ở Việt Nam được thực hiện theo đường lối thử và sửa
(try and fix). Năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ra
Quyết định số 143/HĐBT ngày 10 tháng 5 năm 1990 lựa chọn một số
doanh nghiệp nhỏ và vừa để thử chuyển đổi thành công ty cổ phần. Kết
quả là có 2 doanh nghiệp trong năm 1990-1991 được cổ phần hóa. Năm
1991, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lại ra Quyết định số 202 ngày 8
tháng 6 năm 1992 yêu cầu mỗi bộ ngành trung ương và mỗi tỉnh thành
chọn ra từ 1-2 doanh nghiệp nhà nước để thử cổ phần hóa.
Kết quả là đến tháng 4 năm 1996, có 3 doanh nghiệp nhà nước do
trung ương quản lý và 2 doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý
được cổ phần hóa. Trừ Công ty dịch vụ vận tải mà Nhà nước chỉ còn giữ
18% tổng số cổ phần, 4 công ty khác Nhà nước đều giữ khoảng 30%
tổng số cổ phần. Các nhà đầu tư bên ngoài chỉ mua được cao nhất là gần
35% tổng số cổ phần trong trường hợp Công ty cổ phần Giày Hiệp An,
còn lại đều ở khoảng 20%.
Giai đoạn thí điểm mở rộng (5/1996 – 6/1998)
Từ kinh nghiệm của 7 trường hợp cổ phần hóa nói trên, năm 1996
Chính phủ quyết định tiến hành thử cổ phần hóa ở quy mô rộng hơn.
Nghị định 28/CP được Chính phủ ban hành ngày 7 tháng 5 năm 1996
yêu cầu các bộ, ngành trung ương và các chính quyền tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương lập danh sách doanh nghiệp nhà nước do mình
quản lý sẽ được cổ phần hóa cho đến năm 1997. Tinh thần của Nghị định
28/CP là chọn những doanh nghiệp mà Nhà nước thấy không còn cần
thiết phải nắm giữ 100% vốn nữa làm đối tượng. Nghị định số 25/CP
ngày 26 tháng 3 năm 1997 của Chính phủ cho phép các lãnh đạo bộ,
ngành, địa phương có thêm quyền hạn trong việc tiến hành cổ phần hóa
các doanh nghiệp được chọn làm thử. Theo đó, đối với doanh nghiệp có
vốn từ 10 tỷ đồng trở xuống thì lãnh đạo bộ, ngành, địa phương có quyền
tự tổ chức thực hiện cổ phần hóa trên cơ sở Nghị định số 28/CP.
Kết quả của giai đoạn thí điểm cổ phần hóa mở rộng này là có 25
doanh nghiệp nhà nước đã được chuyển thành công ty cổ phần.
Giai đoạn đẩy mạnh (29/06/1998 – 31/12/2001)
Sau hai giai đoạn cổ phần hóa thí điểm trên, Chính phủ Việt Nam
quyết định chính thức thực hiện chương trình cổ phần hóa. Ngày 29
tháng 6 năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP về
chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định này
quy định rằng đối với cổ phần phát hành lần đầu của doanh nghiệp được
chuyển đổi nhưng Nhà nước vẫn muốn nắm quyền chi phối, cá nhân
không được phép mua quá 5% và pháp nhân không được phép mua quá
10%. Đối với doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm quyền chi
phối, cá nhân được phép mua tới 10% và pháp nhân được phép mua tới
20% tổng cổ phần phát hành lần đầu. Riêng đối với các doanh nghiệp mà
Nhà nước hoàn toàn không còn muốn sở hữu, cá nhân và pháp nhân
được phép mua không hạn chế. Tiền thu được từ bán cổ phần sẽ được sử
dụng để đào tạo lại lao động, sắp xếp việc làm cho lao động dư thừa, bổ
sung vốn cho các doanh nghiệp nhà nước khác.
Sau khi Nghị định 44/1998/NĐ-CP được áp dụng cho đến ngày 31
tháng 12 năm 2001, có 548 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa.
Giai đoạn tiến hành ồ ạt (2002 đến nay)
Tháng 8 năm 2001, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX họp về doanh nghiệp nhà nước và ra
nghị quyết của Trung ương Đảng về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Để triển khai Nghị quyết
trung ương này, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 04/2002/CT-TTg
ngày 08 tháng 02 năm 2002 về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, và Chính phủ ra Nghị định
số 64/2002/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 về chuyển doanh nghiệp
nhà nước thành công ty cổ phần. Các văn kiện pháp lý này đã mở ra một
giai đoạn mới của cổ phần hóa - giai đoạn tiến hành ồ ạt.
Theo Nghị định số 64/2002/NĐ-CP có một số hình thức cổ phần
hóa sau:
Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ
phiếu thu hút thêm vốn.
Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
Thực hiện các hình thức 2 hoặc 3 kết hợp với phát hành cổ phiếu
thu hút thêm vốn.
Đối với cổ phần phát hành lần đầu, các nhà đầu tư trong nước được
phép mua không hạn chế. Các nhà đầu tư nước ngoài không được phép
mua quá 30%.
Tháng 1 năm 2004, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam khóa IX họp phiên thứ IX, tại đó có thảo luận và quyết định
đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Cuối năm 2004, Chính
phủ ra Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về chuyển công ty nhà nước thành
công ty cổ phần, theo đó cả các công ty thành viên của các tổng công ty
nhà nước và ngay cả chính tổng công ty nhà nước nào mà Nhà nước
không muốn chi phối đều có thể trở thành đối tượng cổ phần hóa. Điểm
mới quan trọng nữa trong Nghị định này là quy định việc bán cổ phần
lần đầu phải được thực hiện bằng hình thức đấu giá tại các trung tâm
giao dịch chứng khoán nếu là công ty có số vốn trên 10 tỷ đồng, tại các
trung tâm tài chính nếu là công ty có số vốn trên 1 tỷ đồng, và tại công ty
nếu công ty có số vốn không quá 1 tỷ đồng. Bán đấu giá khiến cho giá cổ
phiếu phát hành lần đầu của nhiều công ty nhà nước được đẩy vọt lên,
đem lại những nguồn thu rất lớn cho Nhà nước. Chẳng hạn, đợt đấu giá
cổ phần của 5 công ty nhà nước được cổ phần hóa là Công ty cổ phần kỹ
nghệ thực phẩm, Nhà máy thiết bị bưu điện, Nhà máy thủy điện Vĩnh
Sơn - Sông Hinh, Công ty điện lực Khánh Hòa, Công ty sữa Việt Nam,
Nhà nước đã thu vượt dự kiến 450 tỷ đồng. Mặt khác, bán đấu giá cổ
phần của các doanh nghiệp cổ phần hóa còn trở thành một động lực cho
sự phát triển của thị trường cổ phiếu niêm yết ở Việt Nam. Trong số 30
công ty niêm yết cổ phiếu tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán thành
phố Hồ Chí Minh (nay là Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí
Minh) vào ngày 31 tháng 10 năm 2005, có 29 công ty là doanh nghiệp
nhà nước cổ phần hóa.Quá trình cổ phần hóa kiểu này đến 2008, đã thực
hiện ở khoảng trên 3.000 doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ được cổ
phần hóa.
Chính phủ Việt Nam cũng khẳng định quyết tâm cổ phần hóa các
trường đại học. Các cơ sở giáo dục ở Việt Nam muốn tránh nguy cơ bị
biến dạng do đưa các hoạt động giáo dục thành các dịch vụ đơn thuần,
mang nặng tính thương mại, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sứ mệnh và
mục tiêu của trường nên sẽ có quá trình tách bạch và phân định rõ các bộ
phận thương mại hay phi thương mại hóa.
Các ngành như thể thao vốn chưa từng biết đến cổ phần hóa cũng
đã bắt đầu quá trình này, song song với việc ra đời một loạt các cơ sở thể
thao cố phần hay tư nhân từ đầu.
2.3. Kết quả đạt được
Với khoảng 3000 doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được cổ phần
hóa (CPH) trong 17 năm qua đang hoạt động tương đối có hiệu quả, chủ
trương này đã thể hiện tính đúng đắn và phù hợp thực tiễn. Các DNNN
giảm mạnh về số lượng và được cải thiện đáng kể về quy mô vốn. Cơ
cấu DNNN đã chuyển đổi theo hướng Nhà nước chỉ nắm giữ những lĩnh
vực, ngành then chốt với thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm, dịch vụ
chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn ở tất cả các ngành, lĩnh
vực và sản phẩm của nền kinh tế.
Nhìn chung, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã thu
được những kết quả đáng khích lệ về mặt kinh tế – xã hội. Kết quả hoạt
động của doanh nghiệp cổ phần đã hoạt động trên 1 năm cho thấy: hơn
90% doanh nghiệp có hiệu quả sản xuất cao, vốn điều lệ tăng 40%, nộp
ngân sách tăng 25%, thu nhập của người lao động tăng 11,84%, cổ tức
bình quân là 17,11%/năm, số lao động tăng gần 7%. Các doanh nghiệp
nhà nước cổ phần hóa đã góp phần làm giảm gánh nặng của Nhà nước
phải bao cấp, bù lỗ hằng năm. Hơn thế, trong quá trình cổ phần hóa, nợ
xấu của doanh nghiệp nhà nước cũng được xử lý một cách cơ bản; đồng
thời, chấm dứt xu hướng thành lập doanh nghiệp nhà nước một cách tràn
lan. Trong các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa, vai trò làm chủ
của người lao động – cổ đông được nâng lên rõ rệt, từ đó góp phần nâng
cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
2.4. Những hạn chế, tồn tại:
Tuy vậy, nếu đánh giá một cách khách quan thì rõ ràng quá trình cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong thời gian qua vẫn còn
những hạn chế nhất định. Quá trình cổ phần hóa vẫn còn những sai phạm
và hạn chế như sau:
- Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước vẫn mang tính khép
kín. Phần lớn các doanh nghiệp được cổ phần hóa là những doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Về cơ cấu cổ đông, bình quân Nhà nước giữ
45,6% vốn điều lệ, cán bộ, công nhân viên giữ 39,3%, cổ đông bên
ngoài giữ 15,1% và số doanh nghiệp cổ phần hóa mà Nhà nước nắm
cổ phần chi phối (trên 50%) là 27,4%. Những con số đó đã cho thấy
sự tham gia của các cổ đông bên ngoài còn rất hạn chế, chưa thu hút
được nhiều cổ đông lớn, có tiềm lực về công nghệ và tài chính.
- Tiến độ cổ phần hóa còn chậm thể hiện qua những số liệu về số lượng
các doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa đều thấp hơn chỉ tiêu
đề ra. Có nhiều nguyên nhân làm chậm tiến trình cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước, song điều đáng lưu ý là do những nguyên nhân chủ
quan như sau:
Thứ nhất, còn nhiều vướng mắc về tư tưởng, nhận thức của lãnh
đạo, đảng viên và người lao động trong các doanh nghiệp. Những
vướng mắc này xuất phát từ nhận thức về việc cổ phần hóa còn hạn
chế và trên hết là tâm lý lo ngại lợi ích của mình sẽ không được bảo
đảm. Nhiều lãnh đạo các doanh nghiệp không muốn doanh nghiệp
chuyển sang hình thức cổ phần bởi vị trí quản lý của họ có thể sẽ bị
thay đổi, và ngay cả khi còn nắm giữ vị trí quản lý, cũng khó có thể
điều hành công ty theo lối cũ mà phải chịu sự giám sát mới chặt
chẽ hơn của hội đồng quản trị và các cổ đông. So với khi chưa cổ
phần hóa, người lãnh đạo ở các doanh nghiệp cổ phần hóa còn phải
đương đầu và chịu trách nhiệm nhiều hơn, trong khi sự hiểu biết về
cách thức điều hành một công ty cổ phần còn hạn chế. Điều đó sẽ
làm cho họ lúng túng ngay cả đối với những vấn đề tưởng đơn
giản. Người lao động trong các doanh nghiệp cũng có nhiều điều
phải lo lắng như sau cổ phần hóa họ sẽ làm gì nếu như trở thành lao
động dôi dư. Bản thân doanh nghiệp khó có đủ kinh phí để giải
quyết chính sách hay tìm việc làm mới cho người lao động….
Thứ hai, các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình
tiến hành cổ phần hóa. Đó là: quy trình cổ phần hóa rườm rà, phức
tạp, có phần còn cứng nhắc; khó xác định đúng được giá trị của
doanh nghiệp khi chuyển sang công ty cổ phần bởi chưa có chế tài
cụ thể tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp, ngay
cả các cơ quan chức năng nhiều khi cũng không thống nhất được
các mức giá khác nhau về tài sản của doanh nghiệp. Thêm nữa, nếu
như trường hợp giá trị quyền sử dụng đất được tính vào giá trị của
doanh nghiệp thì lại kéo theo những tranh chấp mà các doanh
nghiệp phải đương đầu trong quá trình sử dụng. Các doanh nghiệp
còn khó định được giá trị của các lợi thế kinh doanh (như thương
hiệu) như là một phần giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp…
Thứ ba, nhiều doanh nghiệp không muốn chuyển sang cổ phần hóa
bởi chưa có được môi trường thật sự bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế. Trong thực tế, khi các doanh nghiệp đã được cổ phần hóa
thì thường được coi là doanh nghiệp ngoài quốc doanh, không được
đối xử ngang hàng như những những doanh nghiệp nhà nước khác.
Điều này thể hiện rất rõ qua khả năng tiếp cận các nguồn vốn của
những tổ chức tín dụng nhà nước. Nếu như khi còn là doanh nghiệp
nhà nước, những doanh nghiệp này không chỉ nhận được nguồn
vốn từ nhiều kênh khác nhau như đầu tư cơ bản, bổ sung vốn lưu
động, được xóa nợ, hay bảo lãnh nợ, thì nay không những không
còn các nguồn vốn trên, mà lại còn bị rơi vào tình trạng khó được
vay vốn bởi tâm lý lo ngại họ là các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh, không có người bảo đảm (Chính phủ, các Bộ hay Uỷ ban
nhân dân các cấp) khi không có khả năng trả được nợ. Trong lĩnh
vực thuế, cách tính thuế đối với một số tài sản của doanh nghiệp
nhà nước được cổ phần hóa cũng chứa đựng những bất hợp lý.
Chẳng hạn, nếu tài sản được chuyển giao khi còn là doanh nghiệp
nhà nước thì không bị tính thuế trước bạ, nhưng sau khi doanh
nghiệp đã cổ phần hóa thì phải chịu thuế này… Sự phân biệt đối xử
như kiểu “con cùng cha khác mẹ” đã tạo lên tâm lý lo ngại trong
lãnh đạo doanh nghiệp khi phải đương đầu với nhiều khó khăn phía
trước, nên rất lưỡng lự trước việc lựa chọn phương án cổ phần hóa
doanh nghiệp.
- Việc cổ phần hóa chưa được thực hiện đều khắp trong các lĩnh vực.
Công tác cổ phần hóa mới chỉ tập trung ở các doanh nghiệp trong
ngành công nghiệp, thương mại và xây dựng, còn số lượng doanh
nghiệp cổ phần hóa trong các lĩnh vực khác vẫn ít. Trên thực tế, cũng
chưa đặt ra vấn đề cần cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước có quy
mô lớn hay một số doanh nghiệp 100% vốn nhà nước nhưng lại đang
hoạt động trên những địa bàn không thật sự cần thiết. Các doanh
nghiệp được cổ phần hóa chủ yếu là những doanh nghiệp vừa và. Vì
thế, chưa đem lại những tác động tích cực và toàn diện cho nền kinh
tế quốc dân.
- Hiệu quả của quá trình cổ phần hóa chưa cao như mong muốn. Cổ
phần hóa là nhằm đưa các doanh nghiệp nhà nước đạt được hiệu quả
sản xuất, kinh doanh cao, tăng khả năng cạnh tranh trên thương
trường. Tuy vậy, vì một số khó khăn mà các doanh nghiệp cổ phần
hóa vấp phải như đã trình bày ở trên, nên nếu đánh giá thật khách
quan thì hiệu quả hoạt động của những doanh nghiệp đã cổ phần hóa
chưa cao, chưa tạo ra được những bước ngoặt như mong muốn. Chủ
yếu các doanh nghiệp đã cổ phần hóa mới chỉ tập trung vào việc tiết
kiệm chi phí, giảm giá thành để tăng lợi nhuận chưa kể được ưu tiên
giảm và miễn thuế 2 năm đầu. Thực tế hoạt động của nhiều doanh
nghiệp cổ phần hóa vẫn cầm chừng, phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn
của Nhà nước hiện có tại các doanh nghiệp và vay vốn ngân hàng vì
phần vốn huy động qua phát hành cổ phiếu nhỏ bé (chiếm 15,1%),
không thực sự thu hút được những nhà đầu tư chiến lược. Cũng chính
vì vậy, đầu tư cho đổi mới công nghệ ở các công ty cổ phần hóa diễn
ra chậm chạp và các công ty này ít có khả năng mở rộng sản xuất,
kinh doanh trên quy mô lớn một cách có hiệu quả. Ngoài ra, cách thức
quản lý trong những công ty cổ phần hóa hiện cũng còn nhiều bất cập
giữa mối quan hệ của cơ quan chủ quản, hội đồng quản trị, giám
đốc… làm hạn chế tính năng động, sáng tạo để nâng cao hiệu quả của
các doanh nghiệp sau cổ phần hóa.
2.5. Giải pháp:
Từ những kết quả đạt được và những hạn chế còn tồn tại, nhiệm vụ
của công tác cổ phần hóa của nước ta trong thời gian tới sẽ rất nặng nề.
Để đẩy nhanh và nâng cao hiệu quả cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
trong thời gian tới cần tập trung vào một số vấn đề sau:
- Trước hết, cần tiếp tục nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận trong
lãnh đạo, cán bộ, đảng viên và người lao động ở các ngành, các cấp,
các doanh nghiệp để mọi người hiểu rõ sự cần thiết, cấp bách của
việc cổ phần hóa doanh nghiệp là bởi sự sống còn của chính các
doanh nghiệp, nhằm đáp ứng những yêu cầu đổi mới kinh tế của đất
nước và sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nền kinh tế kém phát
triển. Đồng thời, cũng cần xác định rõ dù đây là một quá trình khó
khăn, nhưng không thể khác được mà thậm chí yêu cầu đặt ra sẽ còn
cao hơn, cổ phần hóa rộng khắp hơn trong nhiều lĩnh vực kể cả các
tổng công ty lớn của Nhà nước để từ đó có quyết tâm cao hơn trong
việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
- Hai là, cần hoàn thiện cơ sở pháp lý cho cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước vì đây là vấn đề rất nhạy cảm. Hiện tại các quy định pháp
luật về cổ phần hóa của chúng ta còn nhiều bất cập. Một số văn bản
pháp quy ban hành chậm. Không ít cơ chế chính sách không phù hợp
với cơ chế thị trường, nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời.
Các văn bản về cổ phần hóa phần nhiều mới là những thông tư, chỉ
thị, quyết định chưa tạo được nền tảng pháp lý vững chắc cho cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Kinh nghiệm của nhiều nước trên
thế giới cho thấy, khi cổ phần hóa có rất nhiều vấn đề từ thủ tục tiến
hành cổ phần hóa đến các vấn đề kinh tế khác sẽ phát sinh đòi hỏi
phải được xử lý trên cơ sở pháp lý công khai, minh bạch, vì thế họ đã
ban hành đạo luật liên quan. Rõ ràng, chúng ta cần khẩn trương rút
kinh nghiệm trong quá trình tiến hành cổ phần hóa vừa qua để nhanh
chóng hoàn thiện cơ sở pháp lý cần thiết, đồng bộ cho vấn đề này.
- Ba là, tạo môi trường thuận lợi cho các công ty cổ phần hoạt động và
phát triển. Cần thống nhất các chính sách ưu đãi để khuyến khích các
công ty cổ phần nâng cao hiệu qủa sản xuất, kinh doanh. Tạo ra sân
chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế,
nhất là trong việc giải quyết vấn đề quyền sử dụng đất, mặt bằng sản
xuất, kinh doanh, trong đáp ứng nhu cầu về vốn. Các công ty cổ phần
cần được tạo điều kiện thuận lợi trong việc huy động vốn rộng rãi từ
nhiều nguồn, giảm bớt sự can thiệp, mà trong nhiều trường hợp là quá
sâu, của các cơ quan nhà nước vào quản lý điều hành công ty sau cổ
phần. Ngoài ra, cần xác định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của
người đại diện vốn nhà nước; ban hành tiêu chuẩn cụ thể về người đại
diện sở hữu cổ phần nhà nước và người trực tiếp quản lý cổ phần nhà
nước tại các công ty cổ phần, Quy chế thực hiện dân chủ trong các
doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa … Bởi, tất cả những điều này
đều ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các bên trong công ty và từ
đó đến hiệu quả hoạt động , sự phát triển của công ty.
- Những vấn đề khác như hỗ trợ công ty cổ phần về thông tin kinh tế,
đào tạo cán bộ, giúp đỡ trong công tác quản lý chất lượng sản
phẩm… đều là những việc làm cần thiết để đẩy nhanh tốc độ và hiệu
quả quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.
- Xem thêm -