Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hậu quả của nạn bạo lực gia đình đối với phụ nữ miền núi thực trạng tại huyện na...

Tài liệu Hậu quả của nạn bạo lực gia đình đối với phụ nữ miền núi thực trạng tại huyện nam đông tỉnh thừa thiên huế (giai đoạn 2008 2010)

.DOCX
18
190
146

Mô tả:

A. MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Chúng ta đều biết bạo lực gia đình là một hiện tượng xã hội không mới, nhưng lại nổi lên như một căn bệnh xã hội hết sức nan giải trong giai đoạn hiện nay. Tỉ lệ bạo lực đối với phụ nữ Việt Nam ở mức cao, cứ 3 người phụ nữ có gia đình hoặc đã từng có gia đình thì có một người(34%) cho biết họ đã từng bị bạo hành về thể xác hoặc tình dục.Nếu xem xét đến cả 3 hình thức bạo hành chính trong đời sống vợ chồng: thể xác, tinh thần, tình dục, thì có hơn một nữa(58%)phụ nữ Việt Nam cho biết đã từng là nạn nhân của ít nhất một hình thức bạo lực kể trên.Qua các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy khả năng phụ nữ bị chồng mình lạm dụng nhiều hơn gấp 3 lần so với khả năng bị người khác lạm dụng. Bạo lực gia đình đã gây hậu quả hết sức nghiêm trọng đối với sức khỏe thể chất và tin thần của người phụ nữ. Cứ 4 người phụ nữ bị chồng bạo hành về thể chất và tình dục thì có một người cho biết họ phải chịu đựng những vết thương trên cơ thể và hơn một nữa số này cho biết họ đã bị thương tích nhiều lần. So với những người phụ nữ chưa từng bị bạo hành thì những người bị chồng bạo hành có nhiều khả năng bị bệnh tật, sức khỏe kém hơn gấp 2 lần và khả năng nghĩ đến việc tự tử nhiều hơn gấp 3 lần. Những thực trạng và hậu quả như vậy, đã gây những hệ lụy xấu đến chính những gia đình có tình trạng bạo lực và cho xã hội. Nam Đông là huyện miền núi phía nam của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là một huyện nghèo, 7/10 xã được xét là đặc biệt khó khăn và 6 xã có đồng bào dân tộc thiểu số chiếm trên 70%. Mặc dù dân số ít nhưng địa bàn phức tạp, trình độ dân trí thấp, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Địa bàn huyện chỉ có một tuyến đường thông thương ra ngoài. Đời sống nhân dân còn duy trì những phong tục tập quán lạc hậu. Đó chính là những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tình trạng bạo lực ở vùng cao. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có những công trình chuyên sâu để tìm hiểu rõ hơn về nạn bạo lực gia đình đối với phụ nữ miền núi. 1 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 1 Đề tài nghiên cứu khoa học Trong những năm qua Đảng và nhà nước Việt Nam đã rất quan tâm đến công tác đấu tranh phòng chống bạo lực gia đình. Từ năm 1980, chính phủ Việt Nam đã ký kết gia nhập Công ước về loại bỏ các tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ(CEDAW). Luật phòng chống bạo lực gia đình đã được Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua vào tháng 11/2007 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2008.Qúa trình thực hiện đã đạt đươc những kết quả đáng khích lệ.Tuy nhiên tình trạng bạo lực gia đình vẫn diễn biến phức tạp cả về số vụ và mức độ nghiêm trọng. Do đó, chúng ta cần phải đầu tư nghiên cứu nghiêm túc về bạo lực gia đình và tìm ra những giải pháp hợp lý nhằm hạn chế tình trạng bạo lực đối với phụ nữ miền núi hiện nay. 2.Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài của đề tài Đề tài hướng đến những mục tiêu như sau: -Nâng cao nhận thức sâu sắc hơn về nạn bạo lực gia đình đối với phụ nữ miền núi. -Đánh giá thực trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở huyện Nam Đông,tỉnh Thừa Thiên Huế. -Tìm ra những nguyên nhân cơ bản dẫn đến bạo lực gia đình đối với phụ nữ huyện Nam Đông -Đánh giá được những hậu quả nghiêm trọng của bạo lực gia đình đối với phụ nữ huyện Nam Đông -Đề xuất những giải pháp nhằm hạn của bạo lực gia đình đối với phụ nữ miền núi huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Tiên Huế Từ những mục tiêu trên đề tài hướng tới những nhiệm vụ sau: -Làm sáng rỏ khái niệm đặc điểm của bạo lực gia đình. -Chỉ ra và phân tích các đặc điểm các hình thức bạo lực gia đình. -Nêu lên các hình thức và phương pháp đấu tranh phòng chống bạo lực gia đình. 2 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 2 Đề tài nghiên cứu khoa học -Chỉ rõ những hậu quả mà nạn bạo lực gia đình đã để lại cho phụ nữ, cho trẻ em và cho cả toàn xã hội. -Đề xuất những kiến nghị và giải pháp để nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống bạo lực gia đình tại huyện Nam Đông tỉnh thừa Thiên Huế. 3.Đối Tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung phân tích, đánh giá và xem xét về hậu quả của nạn bạo lực gia đình đối với phụ nữ địa bàn huyện Nam đông nói riêng, Tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung. Phạm Vi nghiên cứu: Với mục đích đề tài đã được nêu trên, đề tài đi sâu vào nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bạo lực gia đình và hậu quả mà nạn bạo lực gia đình đã để lại cho phụ nữ Huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đặc biệt chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề trên chủ yếu vào giai đoạn 2008_2010. 4.Ý Nghĩa của đề tài Về mặt lý luận: -Quá trình thực hiện đề tài sẽ góp phần hệ thống hóa các quy định của pháp luật hiện hành quy định về việc triển khai thực hiện luật phòng chống bạo lực gia đình, những kết quả đạt được và chưa đạt được. -Trang bị kiến thức nâng cao hiểu biết về vấn đề phòng chống bạo lực gia đình và luật phòng chống bạo lực gia đình. Về mặt thực triễn: Kết quả nghiên cứu này góp phần giúp cho các cơ quan chức năng và cả xã hội có những cách nhìn khách quan đúng đắn và toàn diện về vấn đề bạo lực gia đình cũng như thực tiễn thực hiện luật bạo hành gia đình trên địa bàn huyện Nam Đông nói riêng và địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung.Từ đó các cơ quan có chức năng thẩm quyền có thể đưa ra những phương pháp cũng như cách thức nhằm thực hiện luật phòng chống bạo lực gia đình có hiệu quả hơn đẩy lùi và ngăn chặn các hành vi bạo lực. 5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài 3 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 3 Đề tài nghiên cứu khoa học Để thực hiệ đề tài “Hậu quả của nạn bạo lực gia đình đối với phụ nữ miền núi_thực trạng tại huyện Nam Đông tỉnh Thừa Thiên Huế (giai đoạn 20082010)”. Chúng tôi đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sữ. Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp cụ thể như: phân tích, giải thích, thống kê, tổng hợp, khảo sát thực tế. 6. Cơ cấu của đề tài khoa hoc Đề tài gồm có 3 phần: A.PHẦN MỞ ĐẦU B.PHẦN NỘI DUNG: Gồm có 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về bạo lực gia đình Chương 2:Thực trạng và hậu quả của bạo lực gia đình đồi với phụ nữ huyện Nam Đông ở giai đoạn năm 2008 đến 2010. Chương 3:Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng chống bạo lực gia đình với phụ nữ tại huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế. C.PHẦN KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 4 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 4 Đề tài nghiên cứu khoa học B. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH 1.1. Những vấn đề lý luận về bạo lực gia đình 1.1.1. Khái niệm về gia đình và bạo lực gia đình 1.1.1.1. Khái niệm gia đình Dưới góc độ xã hội học, gia đình được coi là tế bào của xã hội. Không giống với bất cứ nhóm xã hội nào khác, gia đình có sự đan xen giũa các yếu tố sinh học, kinh tế, tâm lý, văn hóa… Những mối liên hệ của gia đình bao gồm vợ chồng, cha mẹ va con, ông bà và cháu, những mối liên hệ khác:cô, gì, chú, bác với cháu, cha mẹ chồng với con dâu, cha mẹ vợ với con rể…Mối quan hệ gia đình được thể hiện ở các khía cạnh như : có đời sống tình dục, sinh con và nuôi dạy con cái, lao động tạo ra của cải vật chất để duy trì đời sống gia đình và đóng góp cho xa hội. Mối liên hệ này có thể dựa trên những căn cứ pháp lý hoặc có thể dựa trên những căn cứ thực tế một cách tự nhiên, tự phát. Bản thân khái niệm về gia đình cũng như các nhận thức về gia đình của mọi xã hội đều không phải là nhất thành bất biến. Thực tế chỉ rõ trong sự thuật biến đổi của khoa học kỹ thuật và kinh tế-xã hội trên phạm vi toàn cầu, thiết chế gia đình ở mọi nơi trên thế giới cũng đang biến đổi một cách mạnh mẽ, nhanh chống và sâu sắc. Theo đó gia đình được định nghĩa “là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội thu nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con người bởi tính cộng đồng về sinh hoạt trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng nhu cầu riêng của thành viên cũng như để thể hiện tính tất yếu của xã hội về phát triển sản xuất con người”. Dưới góc độ pháp lý, gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của luật này(Điều 8, luật hôn nhân và gia đình năm 2000) 5 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 5 Đề tài nghiên cứu khoa học Tuy nhiên, trong thực tế đời sống cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm gia đình: gia đình là tập hợp những người có cùng tên trong một sổ hộ khẩu; gia đình là tập hợp những cùng chung sống với nhau dưới một mái nhà Dù gia đình được định nghĩa như thế nào thì chung quy lại, gia đình là một thiết chế xã hội trong đó các thành viên trong gia đình,được xây dựng trên quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và được gắn bó chặt chẽ với nhau nhằm thực hiện nhiệm vụ sản xuất và tái sản xuất ra con người 1.1.1.2Khái niệm bạo lực gia đình Theo định nghĩa của Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc thông qua năm 1993 được các tổ chức cũng như các nhà khoa học trên thế giới chấp nhận rộng rãi.Theo đó, bạo lực gia đình bao gồm bất kỳ một hành động bạo lực dựa trên cơ sở một giới nào dẫn đến, hoặc có khả năng dẫn đến những tổn hại về thân thể, tình dục hay tâm lý, hay những đau khổ của phụ nữ bao gồm cả sự đe dọa có những hành động như vậy, sự cưỡng bức hay tước đoạt một cách tỳ tiện sự tự do, dù xảy ra nơi công cộng hay cuộc sống riêng tư. Bộ luật của bang Georgia(Mỹ)số 19-13-1 định nghĩa bạo lực trong gia đình là một số hành vi tội phạm thực hiện giữa những người có quan hệ với nhau. Các hình thức tội phạm bao gồm hành hung, dọa nạt, rình rập, phá hoại tài sản mang tính tội phạm, câu thúc bất hợp pháp, xâm nhập mang tính tội phạm, và bất cứ tội hình sự nào khác. Các hành vi diễn ra giữa những con người có liên hệ với nhau như vợ chồng trong hiện tại hay quá khứ, là cha mẹ chung của cùng một đứa trẻ, cha mẹ và con cái, cha mẹ kế và con kế hoặc ngay cả những người ngoài hiện đang hoặc đã sống chung trong một gia đình. Như vậy, bạo lực gia đình bao gồm các yếu tố bạo hành về thể chất, bạo hành về tinh thần, bạo hành tình dục và cả bạo hành về kinh tế. Những hành vi bạo lực gia đình gây ra để lại nhiều tổn hại đối với cộng đồng xã hội, đối với con người, đặc biệt đối với phụ nữ- đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp của bạo lực gia đình. 6 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 6 Đề tài nghiên cứu khoa học Phụ nữ là đối tượng chủ yếu hứng chịu bạo lực gia đình, vì vậy các triệu chứng trầm cảm, stress mạnh , gây hại hơn là suy giảm thần kinh đã trở thành bệnh là những di chứng và hậu quả của bạo lực gia đình. Không chỉ thế, phụ nữ còn là đối tượng hứng chịu những tổn hại về sinh lý dưới tác dụng của các hành vi bạo lực về tình dục. Trong khi đó, tổn thất cho việc giải quyết vấn đề bạo lực gia đình là không nhỏ, bao gồm nhiều khoản chi phí cho các dịch vụ hổ trợ pháp luật; cho công tác tuyên truyền; y tế, giáo dục, và cũng không hề sai lầm khi cho rằng bạo lực gia đình là một thảm kịch quốc gia. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có một văn bản pháp luật nào định nghĩa về bạo lực đối với phụ nữ.Theo định nghĩa của liên hợp quốc về bạo lực đối với phụ nữ là: “Bạo lực đối với phụ nữ là bất kỳ một hành động bạo lực trên cơ sở giới mà gây hậu quả hoặc có khả năng gây hậu quả tổn thương hoặc đau đớn về thể chất tình dục hoặc tâm lý đối với phụ nữ bao gồm cả việc đe doạ thực hiện những hành động đó, ép buộc hoặc tước đoạt tự do một cách độc đoán, xảy ra trong xã hội hay trong cuộc sống riêng tư”(điều1) 1.1.2. Các hình thức của bạo lực gia đình Phân loại các loại hình bạo lực gia đình là một vấn đề phức tạp, tuy nhiên lại hết sức quan trọng bởi nó cho phép mô tả đa diện thực trạng vấn đề để tìm ra phương cách hữu hiệu cho phép khắc phục thực trạng vấn đề. Dựa theo kết quả các nghiên cứu về thực trạng bạo lực gia đình có thể chia bạo lực gia đình theo 4 hình thức: Bạo lực thể xác; Bạo lực tinh thần; Bạo lực tình dục; Bạo lực kinh tế; 7 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 7 Đề tài nghiên cứu khoa học 1.1.2.1 Bạo lực thể xác Theo luật mẫu của liên hợp quốc bạo lực thể xác bao gồm bất cứ hành vi nào gây ra thương tích về mặt thể chất hoặc tổn thương thân thể ở bất kỳ mức đội nào. Theo tài liệu của Viện Khoa học xã hội: Bạo lực thể xác là hành vi cưỡng bức thân thể, đánh đập nhằm gây thương tích cho nạn nhân hoặc ngăn cấm phụ nữ tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng như ngăn ngừa họ không được tiếp cận các nhu cầu vật chất thiết yếu như: ăn uống, nghĩ ngơi, Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 của Việt Nam cũng đã nêu: Hành vi “hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng” được xem là hành vi bạo lực gia đình về mặt thể xác. Những hành vi bạo lực về thể xác thường sử dụng sức mạnh cơ bắp hoặc công cụ ( thậm chí cả vũ khí) để gây ra sự đau đớn về thân thể đối với nạn nhân và mức độ có thể từ nhẹ tới nặng: thờ ơ; đánh đau, gây thương tích ở khu vực khó phát hiện; đấm đá; gây thương tích nặng không cho nạn nhân đi chữa trị; dùng phương tiện có dự định( dao, súng ) ;giết. Hành vi bạo lực thể xác mà phụ nữ thường gặp là tát hoặc ném đồ vật gì đó từ phía họ. Tỉ lệ hành vi bạo lực này trong đời người phụ nữ tại Việt Nam là 28,6% và tỉ lệ hiện tại của hành vi này là 5,3%.Tỉ lệ phụ nữ Việt Nam bị chồng đánh đấm trong đời là 11,8%. Phụ nữ bị tát, xô, đẩy(không có những hành vi nghiêm trọng hơn) được xếp vào nhóm bị bạo lực ở mức độ nhẹ và những người bị đấm đá kéo lê hoặc đe dọa dùng vũ khí được coi là bị bạo lực ở mức độ nghiêm trọng.Thường thì phụ nữ phải gánh chịu nhiều hành vi bạo lực thể xác chứ không phải đơn thuần 1 hành vi. Trên thực tế không chỉ có những người trình độ văn hóa thấp mà cả những người có trình độ văn hóa tương đối cao, có địa vị trong xã hội cũng là nạn nhân của bạo lực trong gia đình. Trong đó bạo lực thể xác đối với người phụ nữ là rõ 8 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 8 Đề tài nghiên cứu khoa học nhất .Mặt khác, bạo lực về thể xác đối với phụ nữ ở nông thôn cao hơn so với thành thị và phần lớn là tập trung vào các gia đình có chồng trình độ hoc vấn thấp, làm nông nghiệp. Bạo lực thể xác để lại hậu quả rất nghiêm trọng , nó không chỉ tác động trực tiếp đến sức khỏe, tinh thần của người phụ nữ mà còn gây ảnh hưởng đến sự phát triển tình cảm của trẻ con trong gia đình. Gia đình không hòa thuận, cha mẹ đánh đập nhau sẽ tác động không không tốt đến tư tưởng, làm mất niềm tin của con trẻ vào cha mẹ của mình.V.AXukhômlinkini đã nhận xét:”những đứa trẻ tốt thong gia đình mà bố mẹ chúng yêu thường lớn lên trong gia đình mà bố mẹ chúng yêu thương nhau thực sự, cũng biết yêu thương và tôn trọng người khác.Ở những đứa trẻ đó có sự yên tỉnh trong tâm hồn, một tam hồn mạnh khỏe, khỏe khoắn, vững chắc, một niềm tin chân thành vào điều kiện”. Như vậy,có thể thấy rằng bạo lực thể xác là một trong những nguyên nhân chính của tình trạng ly hôn hiện nay, đẩy nhiều gia đình đến bờ vực khủng hoảng và tan vỡ, trẻ em thì xa vào con đường tội phạm. 1.1.2.2 Bạo lực tinh thần Bạo lực về tinh thần là loại hình bạo lực không sử dụng đến vũ lực để tác động lên thể xác của nạn nhân mà chỉ tác động lên tinh thần của nạn nhân như:chì triết, mắng chửi,lăng mạ, xỉ nhục, tỏ thái dộ lạnh lùng, không nói chuyện, không quan tâm. Bạo lực về tinh thần cũng là một loại hình bạo lực không kém phần nghiêm trống so với bạo lực về thể xác, số động phụ nữ đếu cho rằng: ảnh hưởng của bạo lực tinh thần thường nặng nề hơn bạo lực thể xác.Liên quan đến vấn đề này thì luật phòng chống bạo lực gia đình có nêu lên một số hành vi bạo lực tinh thần như: “Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý và gây hậu quả nghiêm trọng; lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm ” Một số những hành vi bạo lực tinh thần : 9 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 9 Đề tài nghiên cứu khoa học -Dùng lời nói để mắng nhiếc, đay nghiên nạn nhân; -Chửi mắng, lăng mạ, chì chiết; -Xúc phạm nhân phẩm, hạ thấp uy tín( tiết lộ đời tư, phát tán tờ rơi làm ảnh hưởng đến danh dự, cưỡng ép lột bỏ quần áo trước mặt người khác ) -Cấm đoán( quyền được chăm sóc con cái, người thân,dược làm việc, được tham gia vào công tác xã hội, quyền được giao tiếp, quyền được quyết định ) -Cô lập không cho tiếp xúc với người khác; -Đe doa, gây áp lực tâm lý; -Nhốt, giam hãm; -Xua đuổi, quấy rối hoặc gây áp lực thường xuyên về mặt tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng; -Buộc tội, nghi ngờ, thedo dõi; -Phớt lờ cảm xúc của người khác, không quan tâm, đối xử lạnh nhạt; -Chê bai, chế nhạo, hạ thấp giá trị trước mặt người khác; -Chửi mắng, mang tên bố mẹ của nạn nhân ra nguyền rủa; -Bị đe dọa hoặc dọa nạt bằng bất cứ cách nào(đập phá đồ đạc, bị hăm dọa đánh đập hoặc đánh đập người thân ) Bạo lực tinh thần gây ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý nạn nhân, gây tổn thương trực tiếp lên nạn nhân và ảnh hưởng đến những người thân trong gia đình đặc biệt là trẻ em.Những tiểu xảo trong bạo lực tinh thần có thể ngày càng làm cho không khí trong gia đình trở nên căng thẳng hơn và sẽ khiến tâm lý trẻ bất ổn định, gây lệch lạc về nhận thức cũng như sự phát trển về thể chất của trẻ.Dần dần một cách không ý thức, trẻ học theo cách hành xử của những người cha(người mẹ) cuối cùng khi đã làm chồng(vợ) họ lại lặp lại mô hình hành xử đã bị tiêm nhiễm.Đây thực sự là một nguy cơ đe dọa đến nền tảng của gia đình trong xã hội hiện đại. Với bạo lực thể xác, nổi đau đớn thể hiện rõ ràng trên cơ thể người phụ nữ nhưng với bạo lực về tinh thần thì vết thương ấy nông sâu như thế nào không ai 10 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 10 Đề tài nghiên cứu khoa học có thể đo đếm được.Bạo lực tinh thần từng ngày từng giờ gặm nhấm ý chí, tâm can của người phụ nữ khiến những nạn nhân này luôn trong tình trạng căng thẳng dẫn đến “stress”,tâm thần ở thể nhẹ hoặc thần kinh và hậu quả đau lòng nhất là nhiều người do quá bế tắc đã phải tìm đến cái chết để giải tỏa. Bạo lực tinh thần đang dần làm mai một đi bản chất tốt đẹp vốn có của mỗi một thành viên trong gia đình, gây tan vỡ hạnh phúc lứa đôi của các cặp vợ chồng, gây dỗ vỡ cuộc sống gia đình. 1.1.2.3 Bạo lực tình dục Quan hệ tình dục giữa vợ và chồng là quan hệ tình dục đồng thuận,nhưng không phải lúc nào cũng là quan hệ tình dục được mong muốn.Vì vậy, không phải cứ là vợ chồng thì đương nhiên chồng được quan hệ và vợ phải chiều chồng, mà cần có sự mong muốn và đồng thuận của đôi bên. Hành vi ép buộc tình dục có thể xảy ra trong hôn nhân giữa vợ và chồng, kể cả khi ly thân, ly hôn và ngay cả trong tình yêu -giữa bạn tình với nhau. Bạo lực tinh thần được định nghĩa là: hành vi sử dụng vũ lực, cưỡng bức hoặc chấn áp về tâm lý nhằm ép buộc một người phụ nữ quan hệ tình dục ngoài ý muốn cho dù có đạt mục đích hay không.Bạo lực tình dục bao gồm hiếp dâm, quấy rối tình dục và các hình thức bạo lực tình dục khác trong hôn nhân mà đối tượng gây ra là các thành viên trong gia đình, người quen, cưỡng ép kết hôn, cưỡng ép làm nghề mại dâm.i của bạo lực tình dục thường xử dụng vũ lực để ép buộc người kia có quan hệ tình dục, hoặc hành vi cố lôi kéo họ vào hoạt đọng tình dục ngay cả khi họ không có khả năng tử chối bởi các lý do như: sức khỏe, bị ảnh hưởng của chất kích thích, chưa đủ năng lực để hiểu biết về hậu quả của quan hệ tình dục đó, hoặc sự hăm doa, quấy rối tình dục. Trong luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 của Việt Nam cũng có nêu rõ” cưỡng ép quan hệ tình dục” cũng là một trong những hành vi bạo lực 11 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 11 Đề tài nghiên cứu khoa học gia đình.Chúng ta có thể xác định bạo lực tinh dục qua một số hành vi cụ thể sau: -Đùa cợt về phụ nữ và về tình dục trước mặt nạn nhân; -Xem phụ nữ như một đồ vật để thỏa mãn; -Làm mất cảm xúc và nhu cầu sinh lý của nạn nhân; -Sờ mó bộ phận sinh dục của nạn nhân khi nạn nhân không đồng ý; -Sử dụng những hình thức quan hệ tình dục gây đau đớn; -Sử dụng những lời lẽ liên quan tới dục tính gây khó chịu về tâm lý; -Cưỡng ép thực hiện hành vi khiêu dâm, các thuốc kích dục; -Ép buộc quan hệ tình để làm nhục, gây đau; -Buộc cởi bỏ y phục trước mặt con cái, công chúng; -Cố tình lăng nhăng với phụ nữ khác(cho nạn nhân biết); -Buộc nạn nhân nhìn thủ phạm làm tình với người khác; -Quan hệ tình duc sau khi đánh đập; -Sử dụng đồ vật để làm tình; -Bạo dâm, cắt bỏ bộ phận sinh dục; -Giết nạn nhân sau khi quan hệ tình dục; Trong đời sống vợ chồng ở nhều gia đình, hôn nhân được hiểu như là sự cho phép người đàn ông có quyền tiếp cận tình dục với người vợ vô điều kiện và họ có sức mạnh để cũng cố sự tiếp cận này thông qua cưỡng bức nếu thấy cần thiết. Không ít phụ nữ khi không đồng ý quan hệ với chồng đã bị chồng chì chiết, chửi mắng thậm tệ.Bị bạo hành về tình dục khiến cho người phụ nữ cảm giác như mình chỉ là công cụ giải quyết sinh lý của chồng nên họ cảm thấy sợ mỗi khi gần gũi chồng.Trong quan hệ “phòng the” lẽ ra người phụ nữ có quyền được trân trọng thì trái lại bị tước đi quyền làm vợ, quyền được nâng niu chiều chuộng và được yêu thương. Họ chỉ có một nhiêm vụ duy nhất là phục vụ ! Đa phần phụ nữ gặp khó khăn hơn khi khi tiết lộ về những trận đòn của bạo lực tình dục so với những loại bạo lực khác như: bạo thể xác, bạo lực tinh 12 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 12 Đề tài nghiên cứu khoa học thần, bạo lực kinh tế. Bởi theo quan niệm của phần lớn người phụ nữ Á Đông thì vấn đề này được xem như đều “cấm kỵ”, họ cảm thấy xấu hổ và thiếu tự tin khi được đề cập đến vấn đề này. Các hành vi bạo lực tình dục chủ yếu là dùng sức mạnh thể lực để ép quan hệ tình dục ngoài ý muốn, đa phần người phụ nữ phải quan hệ tình dục vì sợ rằng nếu không đáp ứng nhu cầu sinh ý cho chồng tì sẽ có điều xấu xảy ra và bị ép làm những viecj có liên quan đến tình dục mà người vợ cảm thấy bị nhục nhã hoặc hạ thấp nhân phẩm. Một số phụ nữ khác cho rằng: họ bị ép quan hệ tình dục vì họ sợ, vì họ nghĩ tới lần quan hệ sau những chuyện như này sẽ tiếp diễn. Tình dục cưỡng ép không chỉ xảy ra một lần mà có thể tiếp tục lặp đi lặp lại nhiều lần. Đa phần, phụ nữ sau khi bị chồng dùng bạo lực để ép quan hệ, sử dụng những hình thức quan hệ tình dục gây đau đớn, cưỡng ép thực hiện hành vi khiêu dâm hoặc người chồng đút gì đó vào trong âm đạo, nhưng lại không người phụ nữ nào dám lên tiếng bởi họ cảm thấy ngượng ngùng và tự cho rằng thât chẵng hay ho gì khi tiết lộ chuyện này ra. Mặt khác, người phụ nữ cũng cho rằng nhu cầu tình dục của nam giới cao và phải được thỏa mãn , Nếu không phải là vợ thì sẽ là một người phụ nữ khác nên họ nghĩ thà rằng họ thỏa mãn nhu cầu tình dục của chồng, mặc dù họ không muốn để tránh chồng đi ngoại tình. Phụ nữ chỉ có thể từ chối quan hệ tình dục với chồng trong trường hợp họ quá mệt mỏi, hoặc đang mang thai, hoặc đang có kinh nguyệt. Nếu không chồng có thể đặt dấu chấm hỏi về tình cảm của vợ. Vì vậy tình dục vừa là trách nhiệm vừa là phương thức để giữ chồng và hạnh phúc gia đình cho dù họ có muốn hay không. Như vậy, có thể nói nạn bạo lực tình dục đã và đang trở thành vấn nạn của các gia đình và toàn xã hội. Bạo lực tình dục không chỉ gây đau đớn về mặt thể xác đối với phụ nữ mà còn gây ra hậu quả về mặt tinh thần hết sức nghiêm trọng , là nỗi kinh hoàng trong đêm của nhiều phụ nữ. Sự lạm dụng về tình dục có thể gây ra các căn bệnh có thể liên quan đến sức khỏe sinh sản khó điều trị như: hiv, 13 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 13 Đề tài nghiên cứu khoa học mang thai ngoài ý muốn, các bệnh lây truyền qua đường tình dục hay những tai biến chứng thai sản Do bạo lực tin hf dục có mối quan hệ chặt chẽ với vấn đề đạo đức và được ngụy trang một cách kính đáo bởi “quan hệ tình cảm” giữa hai vợ chồng. Mặt khác, vì nó là vấn đề tế nhị, nên chị em thương giấu diếm vì không muốn “ vạch áo cho người xem lưng”. Những điều này góp phần làm cho bạo lực tình dục ngày một phát triển, đe dọa đến tinh thần và sức khỏe của người phụ nữ. 1.1.2.4. Bạo lực kinh tế Bạo lực kinh tế là hành vi kiểm soát tài chính, bắt phụ thuộc vào tài chính đối với thành viên trong gia đình.Theo nghị định 110/2009/NĐ-CP quy định sử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình có quy định một số hành vi về bạo lực kinh tế trong gia đình như sau: -Không cho thành viên trong gia đình sử dụng tài sản chung vào mục đích chính đáng; -Kiểm soát chặt chẽ nguồn tài chin hs của thành viên gia đình hoặc nguồn tài chính chung của gia đình nhằm tạo cho thành viên gia đình sự phụ thuộc về tài chính; -Buộc thành viên gia đình đóng góp tài chính vượt qúa khả năng của họ; -Đập phá tài sản riêng của mình nhằm gây áp lực về tâm lý đối với thành viên gia đình; -Có hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên gia đình hoặc tài sản chung của gia đình; -Chiếm đoạt tài sản riêng của thành viên gia đình; -Chiếm đoạt tài sản chung của gia đình để sử dụng vào mục đích cá nhân; -Ép buộc thành viên gia đình lao động quá sức hoặc làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại hoặc làm những công việc khác tráu với quy định của pháp luật về lao động; -Ép buộc thành viên trong gia đình đi ăn xin hoặc lang thang kiếm sống; 14 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 14 Đề tài nghiên cứu khoa học Bạo lực về kinh tế cũng là một trong những loại hình bạo lực gây nhiều sức ép cho phụ nữ, đặc biệt là sức ép về mặt tinh thần, khiến cho họ luôn luôn rơi vào tình trạng căng thẳng và mệt mỏi.Như vậy, chúng ta có thể thấy bạo hành gia đình là con sống ngầm có sức tàn phá rất lớn hạnh phúc của mỗi gia đình, nó để lại rất nhiều hậu quả , mà dễ thấy nhất là hạnh phúc gia đình bị dỗ vỡ, con cái thiếu sự quan tâm dễ xa ngã vào các tệ nạn xã hội Qua những hình thức bạo lực gia đình nói trên chúng ta đả có những cách nhìn khách quan về đặc điểm cũng như tính nguy hiểm của từng loại hình.Từ đó cần phải có những giải pháp nhằm đấu tranh chống lại nạn bạo lực gia đình đang ngày một phát triển trong giai đoạn hiện nay. 1.1.3. Một số yêu tố tác động đến bạo lực gia đình 1.1.3.1. Phong tục, tập quán Việt Nam là một nước Á Đông, đã trãi qua một thời gian dài của chế độ phong kiến nên tư tưởng gia trưởng còn rất nặng nề, điều này có ảnh hưởng lớn đến vấn đề bạo lực gia đình ở nước ta hiện nay. Tính gia trưởng được chấp nhận trong gia đình và ngoài xã hội như một lẽ đương nhiên đã tạo một vị trí đặc biệt cho những người đàn ông trong gia đình: họ có quyền quyết định những vấn đề quan trọng, quyết định thái độ ứng xử với các thành viên khác, họ có quyền dạy dỗ vợ con theo ý mình…thậm chí có người còn coi việc sử dụng bạo lực là ứng xử cần thiết để đảm bảo hạnh phúc gia đình. Đi cùng với đó là tư tưởng “đèn nhà ai nấy rạng”, “vợ chồng đóng cửa bảo nhau” nên những việc trong gia đình thì những người khác không muốn can thiệp vào hoặc có thể người trong gia đình cũng không muốn cho mọi người biết vi họ cho rằng “xấu chồng thì hổ ai”. Đây là một trong những yếu tố gây khó khăn rất lớn trong công tác phòng chóng bạo lực gia đình hiện nay. Bên cạnh những phong tục tập quán lạc hậu chúng ta cũng không thể không nhắc đến những truyền thống tốt đẹp như: kính già yêu trẻ, con cái phải hiếu thảo với cha mẹ, ông bà hay những triết lý nho giáo tiến bộ “phu thê cung 15 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 15 Đề tài nghiên cứu khoa học kính như khách”đã và đang có những tác động tích cực đến việc bảo vệ những thành viên yếu thế trong gia đình:người già được kính trọng, trẻ con được yêu thương vợ chồng tôn trọng lẫn nhau…Những tư tưởng này được phát huy và áp dụng phù hợp với xã hội hiện nay thì sẽ góp phần quan trọng, tích cực trong phòng, chống bạo lực trong các gia đình Việt Nam có hiệu quả 1.1.3.2. Tâm lý Khái niệm tâm lý được đề cập ở đây không phải là tâm lý xã hội nói chung mà là tâm lý của từng thành viên trong gia đình với tư cách là cha, mẹ, con, anh, chị, em…với nhau và với vấn đề bạo lực gia đình. Tâm lý của mỗi cặp vợ chồng nói chung vẫn là”phu xướng phụ tùy”, đề cao vai trò tự chủ của đàn ông trong gia đình. Điều này có đã làm mất đi quyền tụ vệ của người vợ trước những hành vi bạo lực của chồng mình.Điều này đã ăn sâu rất nhiều thế hệ người Việt Nam: vợ đánh chồng luôn được coi là hành vi xấu, bị xã hội lên án; còn chồng đánh vợ thì mặc nhiên được coi là biết dạy vợ, xã hội coi đó là chuyện hết sức bình thường; hành vi đòi hỏi của người chồng luôn được coi là chính đáng và người vợ có nghĩa vụ phải phục tùng theo…Hơn thế nữa, với người đàn ông, việc sử dụng sức mạnh thể chất để thể hiện mình dường như đã trở thành một thói quen, một điều không thể thiếu; và khả năng kiềm chế của họ cũng không bằng phụ nữ nên rất dễ “động tay động chân” khi giải quyết các mâu thuẩn trong gia đình. Tuy cũng cần phải nhìn nhận rằng:trong suy nghĩ của một số phụ nữ việc đay nghiến chì chiết là hoàn toàn bình thường, mà không hề nghĩ đó là hành vi bạo lực, gây ra những tổn thương về tinh thần cho người chồng. Cha mẹ luôn dành những tình cảm yêu thương, trân trọng cho con cái mình. Song quan niệm giáo dục con cái mình phần đông vẫn là “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Chính vì vậy mà việc cha mẹ đánh đập con cái là chuyện rất bình thường, thậm chí còn có quan điểm cho rằng đánh con là một việc cần thiết và không thể thiếu để dạy con nên người. Những đứa con trong gia đình phải chấp nhận cách giáo dục này, và cuối cùng cũng cảm thấy đó là 16 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 16 Đề tài nghiên cứu khoa học điều bình thường để chịu đựng. Bên cạnh đó còn có nhiều bậc phụ huynh cho rằng con cái là của mình không ai có thể can thiệp nên có quyền đối xử tùy ý. Với các thành viên khác trong gia đình, tâm lý “kính già yêu trẻ”, “kính trên nhường dưới “vẫn được đề cao. Tuy nhiên, do ảnh hưởng nhều yếu tố văn hóa, sự áp đặt của những thành viên lớn tuổi với thành viên nhỏ tuổi hơn trong gia đình là khá phổ biến và thường xuyên vì quan niệm “khôn không đến trẻ, khỏe không đến già”. Trong xã hội hiện nay, điều này thường làm phát sinh tư tưởng chống đối ở giới trẻ khiến các mối quan hệ trong gia đình trở nên căng thẳng, dễ làm phát sinh bạo lực gia đình. 1.1.3.3 Điều kiện kinh tế xã hội Điều kiện kinh tế xã hội luôn là yếu tố tác động mạnh tới các mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội. Kinh tế khó khăn thường gây nên sự căng thẳng, tranh chấp trong gia đình, là nhân tố dẫn tới các hành vi bạo lực về thể chất, tinh thần không đáng có.Việc thiếu thốn về vật chất cũng làm cho các thành viên trong gia đình không có điều kiện giao lưu học tập tiếp cận những tri thức tiến bộ từ bên ngoài, cũng như không có được định hướng về cách ứng xử trong gia đình, khiến tình trạng bạo lực càng dễ có nguy cơ xảy ra. Đây là mọt trong những nguyên nhân chủ yếu ở các gia đình ở vùng sâu vùng xa, vùng núi hiềm trở, những vùng tập trung đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, ở rất nhiều gia đình, dù điều kiện vật chất đầy đủ nhưng vẫn có hiện tượng bạo lực gia đình . Điều này được lý giải như sau:khi kinh tế phát triển, các thành viên tron gia đình có xu hướng thỏa mãn các lợi ích cá nhân mà thiếu đi sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau; hoặc vì quá ham mê các lợi ích kinh tế mà phát sinh tranh chấp giữa các thành viên trong gia đình. Ở những gia đình này, bạo lực gia đình về tinh thần có xu hướng phát triển hơn bạo lực về thể chất, kinh tế hay tình dục bởi vì những nhu cầu này đã phần nào đáp ứng bằng tiền bạc. Hiện nay,bạo lực gia đình đang có xu hướng gia tăng trong xã hội Việt Nam: mọi người dễ dàng tìm đến việc dùng bạo lực để giải quyết các mâu thuẩn 17 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 17 Đề tài nghiên cứu khoa học phát sinh. Ngoài ra sự suy giảm các giá tri truyền thống cũng làm gia tăng các hành vi bạo lực vốn hiếm gặp trước đây: vợ đánh chồng, con cái đánh đập, mắng chửi cha mẹ, bạo lực tình dục trong gia đình, đặc biệt với trẻ em 1.1.3.4. Định kiến giới Việt Nam đã trải qua nhiều thế kỷ tồn tại dưới chế độ phong kiến, quan điểm trọng nam khinh nữ đã ăn sâu vào tiềm thức vào con người Việt ngàn năm nay và thực sự đã và đang cướp đi nhiều quyền lợi chính đáng của người phụ nữ. Người vợ, người mẹ thường không có được sự tôn trọng xứng đáng trong gia đình, không được hưởng những quyền lợi về vật chất và tinh thần, thường xuyên phải chịu nhiều tổn thương: bị đánh đập, bị xúc phạm danh dự nhân phẩm, bị cưỡng ép tình dục,bị hạn chế tiếp xúc với xã hội với quan niệm phụ nữ không ra khỏi nhà bếp…Ngay cả với trẻ em,quan niệm con gái là con người ta cũng khiến cho nhiều bé gái phải chịu nhiều thiệt thòi hơn bé trai. Sự bất bình đẳng về giới này được cả xã hội chấp nhận, thậm chí ngay cả những người phụ nữ cũng coi đó là chuyện bình thường. Điều này cũng là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới nạn bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình, gây khó khăn trong chiến dịch ngăn chặn bạo lực gia đình ở nước ta hiện nay. 1.1.3.5. Trình độ dân trí Những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng tới việc phòng, chống bạo lực gia đình nêu trên điều có thể giải quyết phần nào bằng việc nâng cao trình độ dân trí. Khi được tiếp xúc với những tri thức tiến bộ, được hiểu biết về vai trò của gia đình, nghĩa vụ và quyền của các thành viên trong gia đình cũng như các quy định của pháp luật về phòng chống bạo lự gia đình thì các hành vi vi phạm trong lĩnh vực này sẽ giảm xuống. Như đã phân tích ở trên, những yếu tố như: tâm lý, phong tục tập quán, định kiến về giới, điều kiên kinh tế xã hội…đã làm cho những người có hành vi bạo lực gia đình, nạn nhân và những người xung quanh, ngay cả những cơ quan có thẩm quyền cho rằng hành vi đó là đúng, là đươc phép và không chịu bất cứ trách nhiệm nào. Chính vì vậy mà tình trạng bạo lực gia đình 18 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 18 Đề tài nghiên cứu khoa học vẫn cứ tiếp tục,vẫn cứ phổ biến, và không được ngăn chặn một cách hiệu quả. Nhưng nếu trình độ dân trí được nâng cao, vị trí của gia đình và mỗi thành viên trong gia đình được khẳng định, kiến thức pháp luật được cung cấp đầy đủ thì những hành vi bạo lực sẽ khó có môi trường để hình thành và phát triển. Bạo lực gia đình sẽ hạn chế nếu như: nạn nhân hiểu rõ quyền của mình và có thể áp dụng các biện pháp tự vệ cần thiết: người có hành vi bạo lực biết tính chất sai trái của hành vi và những hậu quả có thể gánh chịu do đó sẽ cân nhắc kỹ càng trước khi hành động: những người xung quanh, những cơ quan có thẩm quyền khi biết được quyền lợi và nghĩa vụ của mình sẽ tham gia phòng chống bạo lực gia đình một cách tích cực, chủ động, thiết thực hơn. 1.1.4. Thực trạng bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay. Bạo lực gia đình là một vấn đề nghiêm trọng ở mọi quốc gia, và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.Theo nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam được chính phủ Việt Nam và Liên Hợp Quốc công bố ngày 25.11.2010 thì cứ 3 người phụ nữ có gia đình hoặc đã từng có gia đình thì có một người(34%) đã từng bị bạo hành về thể xác hoặc tình dục. Sau khi luật phòng chống bạo lực gia đình được ban hành năm 2007, tại nhiều địa phương đã triển khai nhiều mô hình phòng và chống bạo lực gia đình;quyết định thành lập nhóm phòng và chống bạo lực gia đình, tổ tư vấn Nếu năm 2008, tại 64 xã phường thị trấn thực hiện thí điểm đã xảy ra 1071 vụ bạo lực gia đình thì đến cuối năm 2010 giảm xuống còn 248 vụ bạo lực gia đình. Hiện Việt Nam được cộng đồng Quốc tế đánh giá là một trong những nước có hệ thống pháp luật về bình đẳng giới tương đối tiến bộ và thực tế được Liên Hợp Quốc xếp thứ 87/144 nước có chỉ số phát triển giới tốt và thuộc nhóm nước có thành tựu bình đẳng giới tốt nhất khu vực Đông Nam á. Tuy nhiên, con số phụ nữ bị bạo lực gia đình ở mức cao. Theo nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở việt nam được tổng cục thống 19 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 19 Đề tài nghiên cứu khoa học kê(GSO) và liên hợp quốc(UN) tại Việt Nam sáng ngày 25 tháng 11 tại Hà Nội, trong số những phụ nữ việt nam được khảo sát có 34% số người từng bị chồng bạo hành thể xác hoặc tình dục. Có tới 58% phụ nữ Việt Nam được họ cho biết họ từng là nạn nhân ít nhất một trong số các hình thức bạo lực gia đình: thể xác, tình dục,tinh thần,kinh tế. Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy khả năng phụ nữ bị chồng mình lạm dụng nhiều hơn gấp 3 lần so với khả năng họ bị người khác lạm dụng. Theo kết quả nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình, đối với phụ nữ Việt Nam năm 2010 thì: Tỉ lệ bạo lực thể xác của Việt Nam là 6,4%(trong đó ở nông thôn 6.8%,ở thành thị là 5,6%), tỉ lệ này dao động từ 5%(vùng trung du và miền núi phía bắc và vùng đồng bằng sông cửu long ) đến 10.3%(vùng tây nguyên) [15,55] Đáng chú ý hơn tỉ lệ phụ nữ bị bạo lực thể xác ít nhất một lần trong khi mang thai là 4,7% (nông thôn 4,9%,thành thị 4,2%) bạo lực đối với phụ nữ đang mang thai phổ biến ở những phụ nữ chưa học hết lớp 1. Hơn thế nữa, có 22% phụ nữ đã từng bị đánh, đấm, đá vào bụng trong khi mang thai. Có tới 99,4% phụ nữ bị đánh trong lần mang thai gần nhất bởi chính bố đứa trẻ. Mang thai là giai đoạn nguy ngơ đối với bạo lực: Khoảng ¼ phụ nữ nói rằng họ bi bạo lực trong suốt thời kỳ mang thai.[15,56]. Hậu quả do chồng 20 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 20 Đề tài nghiên cứu khoa học gây ra đối với phụ nữ mang thai là rất trầm trọng.có tới 21,3% phụ nữ bị bạo lực thể xác đã từng bị xảy thai, trong khi đó tỉ lệ này ở phụ nữ không bị bạo lực là 15,9%.tỉ lệ phần trăm phụ nữ bị bạo lực thể xác đã từng nạo hút thai là 30,1%. Trong khi đó tỉ lệ này ở phụ nữ không bị bạo lực chỉ có 21%.và có 15,7% phụ nữ bị bạo lực thể xác cho biết là con của họ bị chết sau khi sinh, tỉ lệ thai chết lưu ở phụ nữ bị bạo lực thể xác là 4,7%[15,85]. Từ những con số trên cho thấy, bạo lực về thể xác đã để lại hậu quả nghiêm trọng đối với người phụ nữ, đặc biệt là sức khỏe sinh sản. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sức khỏe của chính con cái họ. Theo nghiên cứu của quốc gia về bạo lực gia đình tại Viêt Nam, hình thức bạo lực về tinh thần đối với phụ nữ có tỉ lệ là 53,6% trong cuộc đời, trong đó nông thôn cao hơn thành thị(56,2% so với 47,2%) và thông thường tỉ lệ bạo lực tinh thần cao hơn ở phụ nữ có trình độ học vấn thấp.Hình thức bạo lực tinh thần ngày càng còn có xu hướng gia tăng ở Việt Nam.Đặc biệt, đối với gia đình có trình độ học vấn cao thì baọ lực gia đình chủ yếu ở hình thức bạo lực tinh thần. Theo số liệu khảo sát của nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình ở việt nam thì: Có khoảng 1/10 (9,9%) phụ nữ từng kết hôn tại Việt Nam bị bạo lực tình dục trong đời do chồng gây ra. Ở nông thôn tỉ lệ này cao hơn ở thành thị(10,1% so với 9,5%)tỉ lệ này dao động từ 7,4% tại vùng đồng bằng sông Cửu Long đến 15,8% tại vùng Đông Nam Bộ liên quan đến tỉ lệ bạo lực hiện tại, con số chung của Việt Nam 4,2% dao động từ 3% tại tây nguyên tới 7% tại đông nam bộ [ 15,56] . 21 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 21 Đề tài nghiên cứu khoa học Tỉ lệ phụ nữ bị bạo lực kinh tế trong cả nước là 9%.đặc biệt phụ nữ ở nông thôn bị bạo lực kinh tế lớn hơn ở thành thị(9,6% so với 7,4% và tỉ lệ này ở nhóm phụ nữ có trình độ học vấn tiểu học gấp 5 lần so với phụ nữ có trình độ cao đẳng trở lên [15,192]. Nghiên cứu của quốc gia về bạo lực gia đình cho thấy tỉ lệ phụ nữ đã bị một hoặc nhiều hơn các hành vi kiểm soát của chồng là 33,3% trên toàn quốc,nó dao động từ 22,3% tại các vùng trung du và miền núi phía bắc đến 39,3% tại vùng đông nam bộ. Ở thành thị, tỉ lệ này cao hơn so với ở nông thôn(35% so với 32,6%) và hành vi thường thấy nhất là đàn ông trở nên tức giận nếu thấy vợ nói chuyện với người đàn ông khác(18,8%) chồng phớt lờ và đối xử thờ ơ với vợ (15,5%)[12,191] 1.1.5. Ý nghĩa của việc phòng, chống bạo lực gia đình Với thực trạng như trên thì việc phòng, chống bạo lực gia đình có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của các thành viên trong gia đình; đảm bảo sự phát triển lành mạnh của trẻ em; đảm bảo bình yên, hạnh phúc trong mỗi gia đình cũng như trật tự xã hội. 22 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 22 Đề tài nghiên cứu khoa học Việc phòng chống bạo lực gia đình trước hết là nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi bạo lực hoặc nguy cơ gây ra hành vi bạo lực gia đình, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các chủ thể , đặc biệt là nạn nhân của hành vi bạo lực gia đình.Không chỉ đem lại sự an toàn tạm thời cho họ mà việc hiểu biết thêm những quy định về vấn đề này, nhận thức được tác động xấu của hành vi này tới những người xung quanh , đặc biệt đối với trẻ em, mà còn giúp cho họ khả năng tự bảo vệ bản thân và gia đình. Với phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình, là thành viên của gia đình có xảy ra tình trạng bạo lực gia đình thì việc phòng chống bạo lực gia đình là một cách đảm bảo quyền phụ nữ, là chổ dựa vững chắc cho hạnh phúc của gia đình. Với những chủ thể gây ra bạo lực gia đình, việc được thông tin về hậu quả của bạo lực gia đình, về quyền và nghĩa vụ của các thành viên gia đình, về những trách nhiệm phải gánh chịu về hành vi bạo lực của mình…có những tác động rất lớn trong giáo duc, răn đe, thậm chí là cải tạo làm thay đổi nhận thức của họ. Việc phòng chống bạo lực gia đình sẽ nâng cao ý thức bảo vệ gia đình cho các thành viên, góp phần bảo đảm cho một gia đình dân chủ, hòa thuận, hạnh phúc, bền vững. Bắt đầu bằng việc nhận ra hậu quả của hành vi bạo lực , những quyền và nghĩa vụ của mình với hành vi bạo lực trong gia đình. Mỗi thành viên trong gia đình sẽ có ý thức sâu sắc hơn về việc cần tôn trọng lẫn nhau, cần có sự quan tâm đúng cách tới nhau, cần có những ứng xử hợp lý khi xảy ra tranh chấp…Từ đó họ sẽ hiểu và trân trọng hơn gia đình và những người thân của mình. Phòng chống bạo lực gia đình không phải là trách nhiệm của riêng ai mà là trách nhiệm của toàn xã hội: các cá nhân, gia đình, các tổ chức xã hội và nhà nước. Việc thực hiện các quy định về phồng chống bạo lực gia đình sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm của từng cá nhân với cộng đồng, góp phần xóa bỏ quan niệm “đèn nhà ai nấy sáng”, thiếu sự quan tâm đến hành vi bạo lực gia đình cũng như thái độ thờ ơ với nạn nhân của bạo lực gia đình. Từ đó nhận thức của 23 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 23 Đề tài nghiên cứu khoa học mỗi người về gia đình, về vai trò của từng thành viên trong gia đình, đặc biệt là vai trò của người phụ nữ được nâng lên. Đây là yếu tố quan trọng góp phần bảo đảm bình đẳng giới thực chất trong gia đình và xã hội cũng như đảm bảo một xã hội dân chủ văn minh. 24 Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Nga 24 Đề tài nghiên cứu khoa học CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ HẬU QUẢ CỦA BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐÔI VỚI PHỤ NỮ HUYỆN NAM ĐÔNG Ở GIAI ĐOẠN NĂM 2008 ĐẾN 2010. 2.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội của huyện Nam Đông 2.1.1.Vị trí địa lí Huyện Nam Đông là một huyện miền núi của tỉnh thừa thiên huế, cách thành phố Huế khoảng 45km về phía đông. Địa bàn huyện là một thung lũng phía đông dãy trường sơn có chiều dài 37km, nơi rộng nhất 27km, nơi hẹp nhất 14km. Phía tây giáp huyện A Lưới, phía đông giáp huyện Phú Lộc, Phía nam giáp huyện Hòa Vang – Đà Nẳng, phía bắc giáp xã Hương Thủy, Huyện Nam Đông nằm trong tọa độ từ 15 0 59’ đến 16 0 15’ vĩ độ bắc, 107 0 53’ kinh độ đông, tổng diện tích 698,77 km 2 , trong đó chủ yếu là diện tích rừng tự nhiên 45915 ha, diện tích lúa nước 482 ha, lúa rẩy 305 ha, ngô 77 ha, sắn 602 ha, đậu 232 ha…. 2.1.2 Địa hình Huyện Nam Đông là vùng núi non hiểm trở, có nhiều hang động, bị chia cắt bởi hệ thống núi non. Nằm giữa dãy đông trường sơn và tây trường sơn, độ cao trung bình là 500m, nơi cao nhất là 1700 m so với mục nước biển, xung quanh bao bởi nhiền núi cao. Địa hình huyện bị chia cắt bởi mạng lưới sông suối dày đặc. 2.1.3 Tổ chức hành chính Địa giới được chia thành 10 xã và một thi trấn đó là các xã Thượng Long, Thượng Quảng, Thượng Nhật, Hương Giang, Hương Hòa, Hương Hữu, Hương phú, Hương Sơn,Thượng Lộ, Hương lộc và thị trấn Khe Tre. Trung tâm huyện nằm ở thị trấn Khe Tre, trên trục đường tỉnh lộ 14.Dân số 23875 người, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số là 10292 người chiếm 34% dân số toàn huyện. 25
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan