Hành vi cảnh báo của người Việt - Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------
NGUYỄN THỊ KIM HUỆ
HÀNH VI CẢNH BÁO CỦA NGƯỜI VIỆT
LUẬN VĂN THẠC SI ̃ NGÔN NGỮ HỌC
Hà Nội - 2013
Hành vi cảnh báo của người Việt - Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------
NGUYỄN THỊ KIM HUỆ
HÀNH VI CẢNH BÁO CỦA NGƯỜI VIỆT
Chuyên ngành Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Nguyễn Văn Hiệp
Hà Nội - 2013
Hành vi cảnh báo của người Việt - Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 9
1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 9
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 10
3. Mục đích nghiên cứu................................................................................. 12
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nguồn tƣ liệu ................................... 13
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................... 13
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ................................................ 14
7. Bố cục của luận văn .................................................................................. 15
NỘI DUNG........................................................................................................ 16
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT................................................................ 16
1.1. Lý thuyết về hành vi ngôn ngữ ............................................................. 16
1.1.1. Hành vi ngôn ngữ ............................................................................. 16
1.1.1.1. Giới thiệu chung về lý thuyết hành vi ngôn ngữ .......................... 16
1.1.1.2. Các loại hành vi ngôn ngữ .......................................................... 18
1.1.1.3. Phân loại các hành vi ở lời.......................................................... 19
1.1.1.4. Điều kiện thành công của các hành vi ở lời ................................ 23
1.1.1.5. Hành vi ở lời trực tiếp và hành vi ở lời gián tiếp ........................ 24
1.1.1.6. Phân biệt ngôn hành tƣờng minh và ngôn hành nguyên cấp ...... 26
1.1.2. Động từ ngữ vi, biểu thức ngữ vi và phát ngôn ngữ vi ................... 27
1.1.2.1. Động từ ngữ vi ............................................................................. 27
1.1.2.2. Biểu thức ngữ vi ........................................................................... 28
1.1.2.3. Phát ngôn ngữ vi.......................................................................... 30
1.2. Lý thuyết hội thoại ................................................................................. 31
Hành vi cảnh báo của người Việt - Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
1.2.1. Khái niệm lý thuyết hội thoại ........................................................... 31
1.2.2. Những đặc điểm khái quát của cuộc hội thoại.................................. 31
1.2.3. Cấu trúc hội thoại .............................................................................. 33
1.3. Nguyên tắc lịch sự trong giao tiếp ........................................................ 36
1.3.1. Quan điểm phép lịch sự của R.Lakoff ............................................. 36
1.3.2. Phép lịch sự của G.Leech ................................................................. 37
1.3.3. Phép lịch sự của P.Brown và S.Levinson ........................................ 37
1.4. Khái niệm cảnh báo, hành vi cảnh báo ................................................ 39
1.4.1. Khái niệm ........................................................................................... 40
1.4.2. Phân biệt hành vi cảnh báo với một số hành vi ngôn ngữ khác ...... 41
1.4.2.1. Hành vi cảnh báo ......................................................................... 41
1.4.2.2. Hành vi cầu khiến ........................................................................ 43
1.4.2.3. Hành vi đe dọa ............................................................................. 44
CHƢƠNG 2. ...................................................................................................... 51
HÀNH VI CẢNH BÁO TRỰC TIẾP CỦA NGƢỜI VIỆT .......................... 51
2.1. Hành vi cảnh báo tƣờng minh (có ĐTNV "cảnh báo") ..................... 51
2.1.1. Cấu trúc của hành vi cảnh báo tường minh ................................... 51
2.1.2. Các thành tố của biểu thức ngữ vi cảnh báo tường minh .............. 55
2.1.2.1. Ngƣời nói (SP1) - Ứng với NP1 trong mô hình của Ross ........... 55
2.1.2.2. Động từ ngữ vi biểu thị hành vi cảnh báo - Ứng với V trong mô
hình của Ross ............................................................................................ 58
2.1.2.3. Ngƣời tiếp nhận hoặc chứng kiến hành vi cảnh báo (SP2) - Ứng
với NP2 trong mô hình của Ross .............................................................. 59
2.1.2.4. Nội dung mệnh đề (Dictum) - Ứng với S2 (NP1 + VP2) trong mô
hình của Ross ............................................................................................ 61
Hành vi cảnh báo của người Việt - Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
2.2. Hành vi cảnh báo nguyên cấp (không có động từ ngữ vi "cảnh báo")
......................................................................................................................... 64
2.2.1. Kết cấu: Nếu A thì B (hễ A thì B) .................................................... 65
2.2.2. Cụm từ: Liệu hồn; Liệu thần hồn; Liệu thần xác .......................... 68
2.2.3. Cảnh báo thông qua vị từ phát ngôn ............................................... 69
CHƢƠNG 3. ...................................................................................................... 73
HÀNH VI CẢNH BÁO GIÁN TIẾP CỦA NGƢỜI VIỆT............................ 73
3.1. Tình huống giao tiếp và cách thức cảnh báo gián tiếp ....................... 73
3.1.1. Tình huống giao tiếp......................................................................... 73
3.1.2. Các cách thức cảnh báo gián tiếp .................................................... 73
3.1.2.1. Hành vi cảnh báo thông qua hình thức chửi ............................... 73
3.1.2.2. Hành vi cảnh báo bằng hình thức điều khiển .............................. 76
3.1.2.3. Hành vi cảnh báo bằng hình thức cam kết .................................. 90
KẾT LUẬN.......................................................................................................93
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 99
NGUỒN TƢ LIỆU ......................................................................................... 103
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 105
Hành vi cảnh báo của người Việt - Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
KN
: Khẩu ngữ
BTNV
: Biểu thức ngữ vi
BTNVTM
: Biểu thức ngữ vi tường minh
BTNVNC
: Biểu thức ngữ vi nguyên cấp
BTNVCBTM
: Biểu thức ngữ vi cảnh báo tường minh
BTNVCBNC
: Biểu thức ngữ vi cảnh báo nguyên cấp
ĐT
: Động từ
ĐTNN
: Động từ nói năng
ĐTNV
: Động từ ngữ vi
HVNN
: Hành vi ngôn ngữ
MR, TPMR
: Mở rộng, thành phần mở rộng.
NDMĐ
: Nội dung mệnh đề
PNNV
: Phát ngôn ngữ vi
PNNVCB
: Phát ngôn ngữ vi cảnh báo
SP1
: Người nói
SP2
: Người nghe
SP3
: Nhân vật thứ 3
Hành vi cảnh báo của người Việt - Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Các nhà ngôn ngữ học truyền thống trước đây thường nghiên cứu về câu có
thể đánh giá tính đúng/sai về nghĩa (xét theo tiêu chuẩn logic). Đó là những câu
miêu tả, trần thuật, khẳng định, phủ định. Trong ngôn ngữ học truyền thống, đối
tượng nghiên cứu chủ yếu là phân tích cấu trúc dựa trên những khái niệm về
thành phần câu như: chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ,… Hay nói cách khác,
các nhà ngôn ngữ học truyền thống khi nghiên cứu ngôn ngữ thường không đặt
chúng vào cuộc sống. Vì vậy, họ không thấy được mặt động của ngôn ngữ.
Trong những năm gần đây, ngôn ngữ học thế giới chứng kiến sự trỗi dậy
mạnh mẽ của ngữ dụng học và ngữ pháp chức năng. Sự phát triển này đánh dấu
một sự thay đổi trong nhận thức của các nhà nghiên cứu: mở rộng phạm vi
nghiên cứu của ngôn ngữ học, không chỉ đóng khung trong hệ thống ngôn ngữ
mang tính tĩnh tại mà còn quan tâm đến thực tiễn hành ngôn của các đơn vị
ngôn ngữ trong lời nói sinh động; không coi các mô hình cấu trúc trừu tượng là
mục đích duy nhất của việc miêu tả ngôn ngữ mà còn nghiên cứu, chú trọng đến
các nhân tố ngữ dụng và nghĩa học đứng đằng sau những mô hình đó, đặc biệt
là chú ý đến các hành vi ngôn ngữ (HVNN), đến khía cạnh nghĩa liên nhân
(interpersonal meaning) của câu nói và khía cạnh tương tác xã hội khi ngôn ngữ
được dùng trong giao tiếp...
Nghiên cứu cơ chế hoạt động của ngôn ngữ thông qua chính những hiện
tượng ngôn ngữ cụ thể, sinh động trong thực tiễn giao tiếp là một hướng đi
đúng đắn, thể hiện cái nhìn biện chứng của các nhà ngữ dụng học, bởi lẽ ngôn
ngữ (theo F.de.Saussure) đã, đang và chỉ có thể được tồn tại, nhận biết và bộc lộ
bản chất thông qua thực tiễn hành chức đa dạng của nó. Vì lý do trên mà trong
Hành vi cảnh báo của người Việt - Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
thời gian gần đây, ngữ dụng học và ngữ pháp chức năng đã trở thành lĩnh vực
nghiên cứu được quan tâm đặc biệt. Và khi nghiên cứu các nhân tố đứng đằng
sau thực tiễn hành ngôn, không thể không chú ý đến lý thuyết hội thoại, lý
thuyết hành vi ngôn ngữ (HVNN), đến khía cạnh nghĩa liên nhân (interpersonal
meanning) của câu nói, và khía cạnh tương tác xã hội khi ngôn ngữ được dùng
trong giao tiếp… Có thể nói, những nghiên cứu về HVNN đã cho thấy, bên
cạnh những nét chung, mỗi ngôn ngữ còn có những nét riêng biệt độc đáo, gắn
liền với tâm thức, phong tục và nét văn hoá của từng cộng đồng sử dụng ngôn
ngữ đó.
Do đó, chúng tôi nhận thấy rằng, nghiên cứu về các HVNN là đề tài rất
thú vị. Và từ trước tới nay chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu hành
vi "cảnh báo" trong tiếng Việt. Chỉ mới có một vài công trình nghiên cứu các
HVNN như: thề, khuyên, mời, rủ, ra lệnh, nhờ, hứa hẹn, đe dọa, phản bác, cầu
khiến… Đó là lý do khiến chúng tôi chọn đề tài: "Hành vi cảnh báo của ngƣời
Việt". Khi thực hiện đề tài này, chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu hành vi cảnh báo
có những dấu hiệu đặc trưng như thế nào? Cảnh báo ai? Để làm gì? Và cảnh
báo như thế nào?
2. Lịch sử vấn đề
"Ngữ dụng học được hiểu là dụng học vận dụng vào ngôn ngữ học". Nói
rõ hơn theo A.G.Smith: "… Kết học nghiên cứu quan hệ giữa các tín hiệu,
nghĩa học nghiên cứu quan hệ giữa tín hiệu với sự vật và dụng học nghiên cứu
quan hệ giữa tín hiệu với người dùng".
Trên thế giới, ngữ dụng học đã xuất hiện từ nửa đầu của thế kỷ XX với
hàng loạt các tên tuổi của các nhà nghiên cứu như: J.L.Austin, J.R.Searle, A.
Weirzbicka, G. Leech, G.Yule,…
Hành vi cảnh báo của người Việt - Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu như: Hoàng Phê, Đỗ Hữu Châu,
Nguyễn Đức Dân,… là những người có công mở đường cho ngành ngữ dụng
học Việt Nam:
- Năm 1998 cuốn "Ngữ dụng học" (tập 1) của tác giả Nguyễn Đức Dân
với những cơ sở lý thuyết khá căn bản về dụng học cũng đề cập đến vấn đề
HVNN.
- Năm 2000, tác giả Nguyễn Thiện Giáp cho ra đời cuốn "Dụng học Việt
ngữ". Trong cuốn sách này, tác giả lý giải một số vấn đề thuộc ngữ dụng học áp
dụng vào tiếng Việt.
- Đến năm 2001, tác giả Đỗ Hữu Châu đã cho tái bản có sửa chữa và bổ
sung phần "Ngữ dụng học" trong cuốn "Đại cƣơng ngôn ngữ học"- tập 2, phần
"Ngữ dụng học". Những cơ sở lí thuyết mở đầu về ngữ dụng học cũng được tác
giả trình bày trong cuốn "Cơ sở ngữ dụng học" - tập 1 (2003). Có thể nói, các
vấn đề về ngữ dụng và ngữ nghĩa đã được tác giả trình bày một cách rất hệ
thống và chi tiết.
- Bên cạnh đó còn có một số luận văn Thạc sỹ, luận án Tiến sỹ cũng đã
trình bày về các vấn đề HVNN như:
+ Luận văn Thạc sỹ của các tác giả Nguyễn Thị Ngận, Đinh Thị Hà, Lê
Thị Thu Hoa (1996) đã nghiên cứu về cấu trúc ngữ nghĩa của một nhóm động
từ nói năng, biểu thị các HVNN trong tiếng Việt như: nhóm "thông tin", nhóm
"bàn, tranh luận, cãi"; nhóm "khen, tặng, chê".
+ Sau này có các luận văn của: Vũ Tố Nga, Nguyễn Thị Hoàng Yến, Hà
Thị Hải Yến với đề tài về các hành vi: "cam kết", "chê", "cảm thán". Những
luận văn này đã đặt hành vi ngôn ngữ trong tương tác hội thoại để nghiên cứu.
Hành vi cảnh báo của người Việt - Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Các tác giả này đã xác lập được các biểu thức ngữ vi, các phát ngôn ngữ vi cho
hành vi ngôn ngữ tướng ứng.
Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu hay bài viết của một số tác
giả khác về đề tài HVNN, nhưng chúng tôi không thể kể hết ra đây được. Có
thể nói trong những năm gần đây, việc nghiên cứu hành vi ngôn ngữ trong
tiếng Việt đã có sự phát triển vượt bậc về lượng và chất. Tuy nhiên, nhiều đề
tài, nhiều vấn đề chưa được khai thác hoặc chưa được nghiên cứu một cách
thấu đáo, đang chờ đợi những nghiên cứu tiếp theo.
Nếu đánh giá chung, có thể khẳng định rằng: Các công trình trên thực sự
là những cơ sở lý thuyết vô cùng bổ ích và thiết thực đối với chúng tôi trong
quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu về hành vi cảnh báo của người Việt.
Những nghiên cứu đó đã xác lập cho chúng tôi một cái khung vấn đề để triển
khai một cách có hiệu quả nhiệm vụ nghiên cứu của mình.
Chúng tôi cho rằng, đề tài nghiên cứu của chúng tôi là một sự tiếp nối
hướng nghiên cứu của các tác giả trên - hướng nghiên cứu đặt hành vi ở lời vào
vị trí trung tâm của giao tiếp hội thoại.
3. Mục đích, nội dung nghiên cứu
Khi nghiên cứu về hành vi cảnh báo của người Việt ở phương diện
HVNN. Chúng tôi xác định những mục đích và nội dung sau:
- Xác lập cách hiểu về hành vi cảnh báo trong giao tiếp của người Việt (bao
gồm hành vi cảnh báo trực tiếp và hành vi cảnh báo gián tiếp), và từ đó rút ra
các đặc trưng của hành vi này.
- Phân biệt hành vi cảnh báo với một số HVNN khác.
Hành vi cảnh báo của người Việt - Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
- Xác định các biểu thức ngữ vi (BTNV) tương ứng với từng nhóm hành vi cảnh
báo.
Các kết quả của luận văn sẽ góp phần làm phong phú thêm những hiểu
biết về các HVNN trong tiếng Việt.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nguồn tƣ liệu
Đối tượng nghiên cứu là hành vi cảnh báo trong tiếng Việt. Với đối tượng
nghiên cứu này, đề tài chủ yếu sử dụng các nguồn tư liệu chính đó là:
- Lời thoại trong giao tiếp hàng ngày (khẩu ngữ - KN).
- Những bài viết trên báo.
- Một số tác phẩm văn học nổi tiếng của các tác giả: Nam Cao, Vũ Trọng
Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố, Thạch Lam,...
Từ chương 1 trở đi, các ví dụ sẽ được đánh số theo thứ tự để độc giả tiện
theo dõi. Và trong phần cuối của luận văn, chúng tôi sẽ đưa ra bảng phụ lục về
tư liệu và nguồn gốc xuất xứ của chúng. Phần phụ lục trích dẫn trong bảng tổng
kết sẽ được đặt trong dấu ngoặc đơn. Số đầu tiên tương ứng với tên tài liệu, số
thứ hai sẽ là số trang. Phần tư liệu trích dẫn sẽ được đặt trong dấu ngoặc vuông.
Số đầu tiên trong dấu ngoặc vuông sẽ tương ứng với tên tài liệu được ghi ở
phần tài liệu tham khảo ở cuối luận văn, số thứ hai sẽ là số trang.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng một số phương pháp sau:
+ Phƣơng pháp thống kê: Dùng để thu thập tư liệu về hành vi cảnh báo trong
tiếng Việt.
Hành vi cảnh báo của người Việt - Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
+ Phƣơng pháp miêu tả, quan sát ngữ cảnh: Dùng để miêu tả ý nghĩa và cấu
trúc các phát ngôn cảnh báo trong tiếng Việt. Sử dụng phương pháp quan sát,
tìm hiểu thực tế phát ngôn qua lời ăn tiếng nói hàng ngày. Xây dựng các tình
huống tiền giả định trong giao tiếp theo những mô thức đã được chuẩn bị trước
để quan sát, miêu tả và tìm nguồn cứ liệu phục vụ cho nghiên cứu.
+ Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu: Dùng để so sánh hành vi cảnh báo với một số hành vi
gần với nó.
+ Một số thủ pháp ngôn ngữ học như: cải biến, phân tích ngữ cảnh, phân tích
ngữ nghĩa, ngữ dụng... cũng được sử dụng linh hoạt nhằm phát hiện những đặc
điểm về hình thức và nội dung hành vi cảnh báo của người Việt.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Về mặt lý luận khoa học: Đề tài của chúng tôi nếu thực hiện tốt sẽ tiếp tục phát
triển hướng nghiên cứu các HVNN: Nghiên cứu HVNN trong hội thoại. Nghiên
cứu hành vi ở lời trong sự tương tác hội thoại:
+ Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ tạo ra mô hình tương đối hoàn chỉnh về hành
vi cảnh báo trong tiếng Việt.
+ Chỉ ra các phương tiện từ vựng và ngữ pháp có khả năng biểu thị hành vi
cảnh báo.
+ Cung cấp một cái nhìn mới về cách phân loại hành vi cảnh báo trong tiếng
Việt.
+ Phát hiện ra nhiều đặc trưng ngữ nghĩa-ngữ dụng của hành vi cảnh báo thể
hiện qua quá trình sử dụng, gắn với văn cảnh.
Hành vi cảnh báo của người Việt - Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
- Về mặt thực tiễn:
+ Cung cấp một số ví dụ sinh động và chỉ ra một số kiểu hành vi cảnh báo trong
các tác phẩm văn học để góp phần hữu hiệu trong việc giảng dạy môn Văn tiếng Việt trong nhà trường.
+ Luận văn có thể là tài liệu tham khảo về các chiến thuật trong giao tiếp, về hành
vi cảnh báo.
+ Tư liệu và nội dung của luận văn này có thể là tài liệu tham khảo cho các
công trình khác liên quan về ngữ dụng học, đặc biệt là các công trình có liên
quan tới hành vi kết ước nói chung.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,…
luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý thuyết. Trong chương này, luận văn trình bày 4 vấn
đề lớn: Lý thuyết hành vi ngôn ngữ; Lý thuyết hội thoại; Vấn đề lịch sự trong
giao tiếp; Phân biệt hành vi cảnh báo với một số hành vi ngôn ngữ khác.
Chương 2: Hành vi cảnh báo trực tiếp của ngƣời Việt. Chương này sẽ
giới thiệu một số dấu hiệu ngôn ngữ đặc trưng và biểu thức ngữ vi của hành vi
cảnh báo trực tiếp (bao gồm cả hành vi cảnh báo tường minh và hành vi cảnh
báo nguyên cấp).
Chương 3: Hành vi cảnh báo gián tiếp của ngƣời Việt. Nội dung chính
của chương này sẽ giới thiệu một số cách thức biểu hiện và biểu thức ngữ vi của
hành vi cảnh báo gián tiếp.
Hành vi cảnh báo của người Việt - Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Lý thuyết về hành vi ngôn ngữ
1.1.1. Hành vi ngôn ngữ
1.1.1.1. Giới thiệu chung về lý thuyết hành vi ngôn ngữ
Năm 1955, tại trường Đại học Harvard (Mỹ), J. L. Austin - nhà triết học
người Anh, đã trình bày 12 chuyên đề mà sau khi ông mất, đã được các học trò
tập hợp lại thành sách, in năm 1962, với nhan đề: "How to do things with word"
(Hành động như thế nào bằng lời nói).
Trong cuốn sách này, Austin đã phê phán thuyết nguỵ biện miêu tả (ảo
tưởng miêu tả), tức quan điểm của một số nhà ngôn ngữ và triết học ngôn ngữ
đương thời chỉ quan tâm đến nghĩa miêu tả, loại nghĩa có liên quan đến tính
chân thực hay sai lầm của câu nói, xét theo tiêu chuẩn chân lí. Austin đã chỉ ra
một khía cạnh nghĩa quan trọng nhất của câu nói. Đó là nghĩa liên nhân
(interpersonal meaning), hay nghĩa tương tác xã hội.
Tư tưởng cốt lõi của Austin được thể hiện qua các bước sau:
Trước tiên, ông nêu ra sự phân biệt giữa phát ngôn miêu tả hay tường
thuật (constative) và phát ngôn ngôn hành (performative). Austin cho rằng có
những câu miêu tả không dễ dàng đánh giá được tính đúng-sai của câu nói:
VD: trong tiếng Việt ta có thể gặp những câu như:
Hoa hồng đẹp hơn hoa ly.
Bạn Nam và bạn Phong đều tốt bụng.
Hành vi cảnh báo của người Việt - Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Những câu nói như thế này rất khó phân biệt tính đúng-sai. Nó phụ thuộc
vào sở thích, gu thẩm mỹ, quan niệm hay cách nhìn nhận của từng người.
Tiếp đó, Austin cho rằng có những phát ngôn không hề thể hiện một sự
miêu tả hay tường thuật nào cả để có thể đánh giá được tính chân thực của nó.
Chẳng hạn, nếu ta nói: "Tôi xin lỗi anh", thì không phải ta đang nói một điều gì
đó đúng hay sai, mà là ta đang "xin lỗi". Nghĩa là khi ta phát ngôn ra câu nói
này cũng có nghĩa là ta đang thực hiện một hành động, hành động "xin lỗi".
Austin đã phân biệt phát ngôn miêu tả và phát ngôn ngôn hành (phát ngôn ngữ
vi). Phát ngôn ngôn hành là những phát ngôn nói ra để thực hiện hành động nào
đó. Đối với những phát ngôn ngôn hành ta không thể đánh giá tính chân thực
(đúng - sai) của nó được, mà chỉ có thể đánh giá về tính hợp thức hoặc điều kiện
thành công (felicity conditions) của chúng mà thôi.
Sau đó, Austin đi đến từ bỏ sự đối lập giữa phát ngôn tường thuật (miêu
tả) và phát ngôn ngôn hành. Ông cho rằng tất cả câu nói đều là phát ngôn ngôn
hành (phát ngôn ngữ vi). Câu miêu tả cũng là phát ngôn ngôn hành. Có điều cần
phân biệt hai loại: ngôn hành tường minh và ngôn hành nguyên cấp. Ví dụ, một
câu nói: "Hôm nay tôi không đƣợc khoẻ". Phát ngôn ngày có thể được hiểu như
là một dạng câu: Tôi xác nhận hôm nay tôi không đƣợc khoẻ. Tất cả các phát
ngôn miêu tả đều có thể được hiểu là mang tính ngôn hành kiểu như vậy.
Nói tóm lại, tư tưởng cốt lõi trong lí thuyết của Austin là: Nói là hành
động. Dĩ nhiên, các hành động ngôn từ bao giờ cũng phải đặt trong khuôn khổ
những thiết chế và những quy ước xã hội đã được các thành viên trong xã hội
chấp nhận.
Hành vi cảnh báo của người Việt - Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
1.1.1.2. Các loại hành vi ngôn ngữ
Theo lí thuyết về hành động ngôn từ, khi chúng ta nói năng tức là chúng
ta đang hành động. Chúng ta thực hiện một loại hành động đặc biệt mà phương
tiện là ngôn ngữ. Austin cho rằng có 3 loại hành động ngôn từ là:
- Hành vi tạo lời (acte locutoire)
- Hành vi mượn lời (acte perlocutoire)
- Hành vi ở lời (acte illocutoire)
Hành vi tạo lời: là hành vi sử dụng các yếu tố ngôn ngữ như: ngữ âm, từ,
các kiểu kết hợp từ thành câu,… để tạo ra một phát ngôn có hình thức và nội
dung ít nhiều xác định. Một bộ phận của hành vi tạo lời đã là đối tượng nghiên
cứu của ngôn ngữ học và tiền dụng học.
Hành vi mƣợn lời: là những hành vi mượn ngôn ngữ, nói cho đúng hơn là
mượn các phát ngôn để gây ra một hiệu quả ngoài ngôn ngữ nào đó ở người
nghe, người tiếp nhận thông tin hoặc ở chính người nói. Chức năng hành động
của giao tiếp được thực hiện nhờ những hiệu quả mượn lời của phát ngôn. Có
những hiệu quả mượn lời là đích của một hành vi mượn lời.
VD: Đóng cửa lại
SP2 (đối thể tiếp nhận thông tin) có thể đứng dậy ra cửa và đóng cánh
cửa lại hoặc có vẻ bực tức, càu nhàu, tỏ vẻ khó chịu,… Những hiệu quả như vậy
đều thuộc hiệu quả mượn lời.
Như vậy; "đóng cửa" là hiệu quả mượn lời của hành vi ở lời điều khiển.
Hành vi ở lời (hành vi tại lời): là những hành vi người nói thực hiện ngay
khi nói năng và gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng với chúng ở người
nhận. Ví dụ: hỏi, mời, khuyên, bảo, hứa, thề,… là những hành vi ở lời. Các
Hành vi cảnh báo của người Việt - Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
hành vi ở lời bị chi phối bởi những quy tắc được mọi người trong cộng đồng
ngôn ngữ tuân theo một cách không tự giác. Ví như, khi ta hỏi ai về một điều gì
đó, theo quy tắc giao tiếp thông thường thì bắt buộc người nghe phải trả lời
hoặc hồi đáp lại hành vi ra lệnh, là sự biểu hiện tiếp nhận (hay không tiếp nhận)
lệnh bằng một hành động tương ứng (hành động ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ).
Trong 3 loại hành vi ngôn ngữ vừa nêu trên, ý nghĩa của các động từ nói
năng được thể hiện ở hành vi ở lời.
Theo O.Ducrot: Hành vi ở lời làm thay đổi tư cách pháp nhân của người
đối thoại, tức chúng đặt người nói và người nghe vào những quyền lợi mới so
với tình trạng của họ so với trước khi thực hiện hành vi ở lời đó. Tác động hầu
như buộc vai nghe phải hồi đáp lại một hành vi ở lời trong âm nói ra, được gọi
là hiệu lực ở lời. Trong các cuộc đối thoại bình thường, bao giờ vai nghe cũng
phải phản hồi đúng với hiệu lực ở lời trong các phát ngôn của người đối thoại
với mình.
VD:
(1) Nếu thỉnh thoảng họ không dự vào một cuộc đua xe đạp thì cuộc đời
họ sẽ từ từ hạ màn. (SP1 cảnh báo với SP2 rằng: Nếu SP3 không thỉnh thoảng
tham dự cuộc đua xe đạp thì cuộc đời SP3 sẽ kết thúc).
(1, tr. 28)
1.1.1.3. Phân loại các hành vi ở lời
Các hành vi ở lời trong thực tế là rất phong phú, đa dạng và có thể có
những khác biệt đáng kể khi đi từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Đã có
nhiều tác giả phân loại hành vi ở lời dựa trên những tiêu chí khác nhau. Đáng
chú ý nhất là hai hướng phân loại của hai tác giả: J.L.Austin và J.R.Searle:
Hành vi cảnh báo của người Việt - Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Hƣớng thứ nhất: Phân loại hành vi ở lời của Austin (1962): chia hành
vi ở lời thành 5 phạm trù, đó là:
- Phán xử (verditives): là những hành vi đưa ra những lời phán xét mà về
cơ bản là những điều đánh giá về một sự kiện hoặc một giá trị dựa trên những
chứng cứ hoặc lí lẽ xác đáng: xử trắng án, miêu tả, phân tích, đánh giá, phân
loại,…
- Hành xử (exercitives): là những hành vi đưa ra những quan điểm thuận
lợi hay chống lại một chuỗi hành vi nào đó: ra lệnh, chỉ huy, đặt hàng, giới
thiệu, van xin,…
- Cam kết (commissives): những hành vi này ràng buộc người nói vào
một chuỗi những hành động nhất định: hứa hẹn, bày tỏ lòng mong muốn, giao
ước, bảo đảm, thề nguyền,…
- Trình bày (expositives): những hành vi được dùng để trình bày các quan
niệm, dẫn dắt các lập luận, giải thích cách dùng các từ như: khẳng định, phủ
định, chối, trả lời, phản bác,…
- Ứng xử (behabitives): đây là những hành vi phản ứng với cách xử sự
của người khác đối với các sự kiện có liên quan. Chúng cũng là cách biểu hiện
thái độ đối với hành vi hay số phận của người khác: xin lỗi, cám ơn, khen ngợi,
phê phán, chào mừng,…
Trên đây là cách phân loại các hành vi ở lời của Austin. Tuy nhiên, cách
phân loại này còn có nhiều hạn chế vì khi phân loại ông không đặt ra những tiêu
chí nhất định. Do đó, kết quả phân loại có khi chồng chéo lên nhau. Searle là
người đầu tiên vạch ra những hạn chế trong cách phân loại của Austin và ông đã
đưa ra cách phân loại của mình dựa trên 12 tiêu chí:
Hành vi cảnh báo của người Việt - Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Hƣớng thứ hai: Phân loại hành vi ở lời theo Searle gồm 12 tiêu chí:
(1) Đích ở lời
(2) Hướng khép lời với hiện thực mà lời đề cập đến
(3) Trạng thái tâm lí được thể hiện
(4) Sức mạnh mà đích được trình bày ra
(5) Tính quan yếu
(6) Định hướng
(7) Câu hỏi và câu trả lời là hai thành phần của một cặp kế cận, còn sai
bảo thì không
(8) Nội dung mệnh đề
(9) Hứa hẹn chỉ có thể được thực hiện bằng lời
(10) Đặt tên Thánh và rút phép thông công đòi hỏi phải có thể chế xã hội
mới có hiệu lực nhưng trần thuật thì không
(11) Không phải tất cả các động từ gọi tên hành vi ở lời đều là động từ
ngữ vi (ví dụ: khoe, doạ,…)
(12) Phong cách thể hiện hành vi ở lời
Trên thực tế, Searle chỉ sử dụng 4 trong số 12 tiêu chí, đó là: đích ở lời,
hướng khép lời, trạng thái tâm lí và tiêu chí nội dung mệnh đề. Sử dụng 4 tiêu
chí này, Searle đã phân lập được 5 nhóm hành vi ở lời, đó là:
- Nhóm xác tín (assertives): Searle còn gọi nhóm hành vi này là tái hiện.
Đích ở lời là miêu tả lại một sự tình đang được nói đến. Hướng khớp ghép là
Hành vi cảnh báo của người Việt - Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
lời - hiện thực, tức lời phải phù hợp với hiện thực. Trạng thái tâm lí là niềm
tin vào điều mình xác tín. Nội dung mệnh đề là một mệnh đề. Các mệnh đề
này có thể đánh giá theo tiêu chuẩn đúng - sai lôgic.
Những hành động ngôn từ thuộc nhóm này là: kể, dự đoán, nói phét, thừa
nhận, nhấn mạnh, khẳng định,…
- Nhóm điều khiển (directives): Đích ở lời là đặt người nghe vào trách
nhiệm thực hiện một hành động nào đó trong tương lai. Hướng khớp ghép là
hiện thực - lời, tức hiện thực có xu hướng phù hợp với lời. Trạng thái tâm lí là
sự mong muốn của người nói và nội dung mệnh đề là hành động tương lai của
người nghe.
Thuộc về nhóm này là các hành động ngôn từ như: cho phép, khuyên can,
ra lệnh, yêu cầu, hỏi, đề nghị, van xin, thỉnh cầu, mời, sai,…
- Nhóm kết ước (tức cam kết – theo Austin) (commisives): Đích ở lời là
trách nhiệm phải thực hiện hành động tương lai mà người nói bị ràng buộc.
Hướng khớp ghép là hiện thực - lời, tức hiện thực có xu hướng phù hợp với lời.
Trạng thái tâm lí là ý định thực hiện hành động của người nói. Nội dung mệnh
đề là hành động tương lai của người nói.
Ví dụ về các hành động ngôn từ thuộc nhóm kết ước: cam kết, đe doạ,
hứa, thề, tặng, biếu, đe dọa, cảnh báo…
- Nhóm biểu lộ (expressives): Đích ở lời là thông qua phát ngôn người
nói bày tỏ trạng thái tâm lí phù hợp với hành vi ở lời. Trạng thái tâm lí thay đổi
tuỳ theo từng loại hành vi. Nội dung mệnh đề là một hành động hay một tính
chất nào đó của người nói hay của người nghe.
- Xem thêm -