Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Góp phần phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh thông qua dạy học giải tích lớp...

Tài liệu Góp phần phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh thông qua dạy học giải tích lớp 11 thpt

.DOCX
120
239
146

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP PHAN HỒNG KHANH GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN TƯ DUY SÁNG TẠO CHO HỌC SINH THÔNG QUA DẠY HỌC GIẢI TÍCH LỚP 11 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Chuyên ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học bộ môn Toán Mã số: 60.14.01.11 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC ĐỒNG THÁP, 2016 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP PHAN HỒNG KHANH GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN TƯ DUY SÁNG TẠO CHO HỌC SINH THÔNG QUA DẠY HỌC GIẢI TÍCH LỚP 11 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Chuyên ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học bộ môn Toán Mã số: 60.14.01.11 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRẦN TRUNG ĐỒNG THÁP, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực nếu sai tôi hoàn chịu trách nhiệm. Đồng tháp, ngày tháng 9 năm 2016 Tác giả Phan Hồng Khanh LỜI CẢM ƠN Đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Trung, người thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi thực hiện và hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm khoa Toán, Quý thầy/cô thuộc chuyên ngành Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Toán Trường Đại học Đồng Tháp, đã nhiệt tình giảng dạy, tạo điều kiện thuận lợi để chúng tôi hoàn thành khóa học. Xin cảm ơn Quý thầy/cô trong Ban Giám hiệu, các giáo viên bộ môn toán của trường trung học phổ thông Thiên Hộ Dương, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi nhất trong quá trình học tập và làm thực nghiệm tại trường. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với bạn bè, gia đình thân yêu, đã khuyến khích, động viên tôi cố gắng học tập và hoàn thành Luận văn. Dù có nhiều cố gắng, nhưng Luận văn khó tránh khỏi những sai sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Quý thầy/cô và bạn đọc. Đồng Tháp, ngày tháng 9 năm 2016 Tác giả Phan Hồng Khanh MỤC LỤC Trang Mở Đầu 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 6 1.1.Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề 6 1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới 6 1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 7 1.2. Tư duy sáng tạo trong dạy học toán 9 1.2.1. Tư duy sáng tạo và các thành tố của tư duy sáng tạo 9 1.2.1.1. Khái niệm sáng tạo 9 1.2.1.2. Quá trình sáng tạo 10 1.2.1.3. Tư duy sáng tạo 11 1.2.1.4. Thành phần của tư duy sáng tạo 11 1.2.2. Tư duy sáng tạo trong dạy học toán 16 1.2.3. Mối quan hệ của tư duy sáng tạo với các loại tư duy khác 17 1.3. Dạy học theo hướng phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh phù hợp với các nội dung giải tích lớp 11 18 1.3.1. Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề 18 1.3.2. Dạy học khám phá 20 1.3.3. Dạy học hợp tác 22 1.4.Tiềm năng phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh thông qua dạy học các nội dung giải tích trong môn Toán lớp 11 ở trường Trung học phổ thông 23 1.5. Những biểu hiện đặc trưng của tư duy sáng tạo trong dạy học các nội dung giải tích lớp 11 27 1.6 Thực trạng phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh trong dạy học giải tích lớp 11 ở trường THPT hiện nay 31 Kết luận chương 1 35 Chương 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN TƯ DUY SÁNG TẠO CHO HỌC SINH THÔNG QUA DẠY HỌC GIẢI TÍCH LỚP 11 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 36 2.1. Một số định hướng của việc vận dụng các biện pháp sư phạm nhằm phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh 36 2.2. Vận dụng các biện pháp phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh vào dạy học giải tích trong chương trình toán lớp 11 THPT 41 2.2.1. Biện pháp 1: Tập cho học sinh khả năng mò mẫm, dự đoán kết luận rồi dùng phân tích tổng hợp để kiểm tra lại tính đúng đắn của kết luận 41 2.2.2. Biện pháp 2: Tập luyện cho học sinh sử dụng linh hoạt các thao tác tư duy cơ bản 48 2.2.3. Biện pháp 3: Phát triển tính mềm dẻo của tư duy sáng tạo bằng cách tập cho học sinh khả năng phân tích tình huống đặt ra dưới nhiều góc độ khác nhau, giải quyết vấn đề bằng nhiều cách khác nhau và lựa chọn cách giải quyết tối ưu 55 2.2.4. Biện pháp 4: tập cho học sinh thói quen hệ thống hóa cách giải các dạng bài tập 66 2.2.5. Biện pháp 5: phát triển năng lực phát hiện sai lầm, sữa chữa, và đề xuất hướng giải quyết để tạo ra cái mới 77 Kết luận chương 2 84 Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 86 3.1. Mục đích thực nghiệm sư phạm 86 3.2. Nội dung thực nghiệm sư phạm 86 3.3. Tổ chức thực nghiệm sư phạm 87 3.3.1. Chọn lớp thực nghiệm 87 3.3.2. Hình thức tổ chức thực nghiệm 87 3.4. Kết luận chung về thực nghiệm 88 Kết luận chương 3 90 KẾT LUẬN 91 TÀI LIỆU THAM KHẢO 92 PHỤ LỤC 94 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ BT Bài tập DH Dạy học GV Giáo viên GD Giáo dục GQVĐ Giải quyết vấn đề HĐ Hoạt động HS Học sinh PPDH Phương pháp dạy học SGK Sách giáo khoa TDST Tư duy sáng tạo THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông TDST Tư duy sáng tạo TT Tương tự DANH MỤC BẢNG BẢNG 1.1 1.2 3.1 3.2 NỘI DUNG Kết quả khảo sát giáo viên kết quả khảo sát học sinh Kết quả bài kiểm tra 1 Kết quả bài kiểm tra 2 TRANG 34 34 89 89 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài góp phần phát triển đất nước. Do đó năng lực tư duy của học sinh phải được rèn luyện, trong đó việc phát triển và bồi dưỡng tư duy sáng tạo là rất quan trọng và cấp thiết. Nó góp phần hình thành khả năng phát triển trí tuệ cho học sinh để học tập và lao động. Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo là mục tiêu quan trọng của sự nghiệp đổi mới giáo dục hiện nay ở nước ta, trong đó đổi mới phương pháp dạy học được coi là một trong những nhiệm vụ nhằm đào tạo những người lao động được phát triển toàn diện, có tư duy sáng tạo, có năng lực thực hành giỏi, có khả năng đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế trí thức và xu hướng toàn cầu hóa như hiện nay, chính vì vậy Luật Giáo dục đã quy định: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” (Luật Giáo dục 2005). Trong nước và cũng như trên thế giới, ta thấy rằng việc phát triển con người luôn gắn liền với việc phải phát triển giáo dục. Đó gần như là điều kiện tiên quyết để có được một đất nước giàu mạnh. Chính vì thế, có rất nhiều tác giả trong nước cũng như quốc tế coi việc phát triển tư duy của con người trong đó có tư duy sáng tạo là việc làm quan trọng. Các tác giả trong nước như Nguyễn Bá Kim, Bùi Văn Nghị, Đào Tam,... Ngoài nước thì có Polia, Crutexki... đã có những nghiên cứu về các lĩnh vực phát triển năng lực nói chung và cũng như năng lực tư duy sáng tạo nói riêng. Vì những điều đó cho thấy việc quan tâm tới phát triển năng lực tư duy sáng tạo là hết sức cần thiết. 2 Khi nghiên cứu về chương trình SGK môn toán hiện hành, chúng tôi nhận thấy rằng chương trình đáp ứng được một số yêu cầu cơ bản trong giai đoạn vừa qua: đảm bảo truyền thụ cho học sinh tri thức khoa học một cách hệ thống; kiến thức, sự hiểu biết và khả năng về toán học và khoa học không thua kém nhiều so với học sinh ở các nước có nền giáo dục phát triển. Nhìn chung chương trình môn toán hiện hành, phù hợp với số đông học sinh, khả thi với giáo viên; cách kiểm tra truyền thống đã khá hiệu quả trong việc đo lường mức độ thành tích học tập môn toán của học sinh trong việc nắm kiến thức và các kĩ năng tính toán. Khi nghiên cứu sâu về chương trình ở THPT, chúng tôi đánh giá nội dung giải tích của chương trình toán lớp 11 có nhiều phần mà nếu giáo viên biết khai thác và định hướng tốt thì sẽ góp phần phát triển tư duy sáng tạo của học sinh 11 nói riêng và của cả cấp học THPT nói chung. Từ đó cho thấy rằng, cần phải có một chương trình dạy cụ thể về mặt phương pháp cũng như nội dung để góp phần phát triển tư duy sáng tạo của học sinh thông qua dạy học giải tích lớp 11. Theo quan sát của chúng tôi ở trường THPT hiện nay đa số còn chưa chú trọng nhiều đến việc phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh, chỉ có các trường chuyên hoặc những lớp chọn mới có điều kiện tiếp xúc với các kiến thức nhằm phát triển tư duy sáng tạo thông qua các buổi học phụ đạo nâng cao. Ngoài ra, nội dung và phương pháp dạy học còn năng về truyền thụ kiến thức. Vì thế khả năng tư duy của học sinh còn nhiều hạn chế. Do đó cần có các biện pháp cụ thể ở từng cấp học, từng đối tượng học sinh nhằm giúp học sinh phát triển tư duy sáng tạo để khắc sâu các kiến thức góp phần nâng cao thành tích học tập tốt hơn. Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về nội dung cũng như phương pháp dạy học trong nội bộ môn toán nhằm giúp học sinh phát triển tư duy sáng tạo, 3 nhưng chưa có những nghiên cứu cụ thể về các nội dung của giải tích lớp 11. Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu “ Góp phần phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh thông qua dạy học giải tích lớp 11 THPT”. 2. Mục đích nghiên cứu Đề xuất một số biện pháp sư phạm cụ thể góp phần phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh thông qua dạy học giải tích lớp 11 THPT. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1 Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học giải tích lớp 11 THPT. 3.2 Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp dạy học những nội dung cụ thể trong phần giải tích của chương trình toán lớp 11 THPT nhằm góp phần phát triển tư duy sáng tạo của học sinh. 4. Giả thuyết khoa học Trên cơ sở chương trình toán lớp 11 nói chung và giải tích nói riêng, nếu có biện pháp phù hợp với những nội dung cụ thể để phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh thì hiệu quả dạy học cũng như khả năng tư duy của học sinh sẽ phát triển, góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1 Làm sáng tỏ các khái niệm về tư duy sáng tạo và các yếu tố đặc trưng của tư duy sáng tạo. 5.2 Khảo sát thực trạng dạy học theo hướng phát triển tư duy sáng tạo ở trường phổ thông trong chương trình dạy học giải tích lớp 11. Qua đó xác định mức độ dạy học phát triển tư duy sáng tạo của học sinh ở trường phổ thông hiện tại để có các giải pháp phù hợp. 5.3 Xác định các biện pháp sư phạm cần thực hiện nhằm góp phần phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh 4 5.4 Tiến hành thực nghiệm sư phạm để đánh giá tính khả thi, tính hiện thực và hiệu quả của đề tài. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Tìm hiểu, nghiên cứu về tư duy sáng tạo, phương pháp dạy học môn Toán và các tài liệu khác liên quan đến đề tài nhằm xây dựng hệ thống lí thuyết cũng như bài tập về các nội dung giải tích nhằm góp phần phát triển tư duy sáng tạo của học sinh lớp 11. 6.2. Phương pháp quan sát: Khảo sát thực trạng dạy học các nội dung phần giải tích lớp 11 THPT theo định hướng phát triển tư duy sáng tạo bằng hình thức dự giờ môn toán lớp 11 ở các trường THPT của địa phương. 6.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tổ chức thực nghiệm sư phạm để xem xét tính khả thi và hiệu quả của việc phát triển tư duy sáng tạo bằng cách dạy thực nghiệm một số tiết giải tích trong môn toán lớp 11 THPT và phát phiếu khảo sát đánh giá kết quả. 7. Đóng góp của luận văn 7.1 Đã góp phần hệ thống hóa các khái niệm về tư duy sáng tạo và các yếu tố đặc trưng của tư duy sáng tạo. 7.2 Đã khảo sát thực trạng và xác định được mức độ dạy học phát triển tư duy sáng tạo của học sinh ở một số trường phổ thông trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. 7.3 Đề xuất được các biện pháp sư phạm cần thực hiện nhằm góp phần phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh có tính khả thi và hiệu quả. 8. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung luận văn được trình bày trong ba chương: Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn 5 Chương 2. Một số biện pháp góp phần phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh thông qua dạy học giải tích lớp 11 trung học phổ thông Chương 3: Thực nghiệm sư phạm Luận văn có kèm theo các Phụ lục. 6 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1.Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề 1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới Vào thế kỉ thứ 3, nhà toán học Pappos (Hy Lạp) đã đặt nền móng khởi đầu cho khoa học nghiên cứu TDST. Ông đặt tên cho khoa học này là Heuristics (lấy gốc từ Eureka- tìm ra rồi). Ơristic (Heuristics) theo cách hiểu lúc đó là khoa học về các phương pháp và quy tắc sáng chế, phát minh trong mọi lĩnh vực như khoa học kĩ thuật, nghệ thuật, văn học, chính trị, triết học, toán học, quân sự,... Sau Pappos, một số nhà khoa học như Descartes, Leibnitz, Bolzano, Poincare cố gắng xây dựng và phát triển Heuristics. Trên thực tế, Heuristics đã tồn tại 16 thế kỷ nhưng ít người biết đến nó. Mãi đến thế kỷ XX, với sự phát triển vượt bậc trong các lĩnh vực khoa học thì lĩnh vực sáng tạo đã được quan tâm nghiên cứu và được xem như là một hiện tượng khá phổ biến trong xã hội. Đặc biệt nhu cầu nghiên cứu hoạt động sáng tạo trong khuôn khổ của sự phát triển tâm lý, nhất là phát triển trí tuệ được xuất hiện. Có thể nói nghiên cứu về sáng tạo một cách có hệ thống được bắt đầu vào năm 1950. Người có công lớn nhất là nhà tâm lý học Mỹ Guiford.J.P. Ông đưa ra mô hình phân định cấu tạo trí tuệ gồm 2 khối cơ bản: trí thông minh và sáng tạo. Ông là người đầu tiên đưa ra các khái niệm: tư duy hội tụ và tư duy phân kì. Từ đó, số lượng các tác giả, tác phẩm và các cơ sở nghiên cứu vấn đề sáng tạo tăng nhanh. Chỉ riêng việc nghiên cứu vấn đề sáng tạo thuộc phạm vi tâm lý học, giáo dục học đã có tới 14 nhóm nghiên cứu và những công trình nghiên cứu về sáng tạo liên tục được xuất bản với nội dung chủ yếu là hoạt động sáng tạo. 7 Ở giai đoạn này, tiếp tục có những nghiên cứu vấn đề sáng tạo với các tên tuổi như: Holland (1959), May (1961), Mackinnon D.W (1962), Yahamoto Kaoru (1963), Torrance E.P (1962, 1963, 1965, 1979, 1995),... Vấn đề bồi dưỡng năng lực sáng tạo cho HS trong nhà trường, hiện đã có các cuốn sách và bài báo của nhiều tác giả như: “Phát triển khả năng sáng tạo trong lớp học” (Penick J.E), “Nghiên cứu về khả năng sáng tạo của HS” (Reid J và King F 1976), “Những khám phá về TDST ở đầu tuổi học” (Torrance E.P 1965), “Vai trò của TDST và trí thông minh trong thành tích học tập” (Yamamoto Kaoru 1963)... Như vậy, mặc dù khoa học về sáng tạo đã có từ rất lâu, tuy vậy đến mãi thế kỷ XX cho đến nay, khi mà mọi lĩnh vực khoa học khác có những bước phát triển vượt bậc, khi mà sức sáng tạo của con người được thăng hoa thành những thành tựu khoa học vĩ đại, khi mà TDST phát huy được vai trò to lớn của nó đối với sự phát triển thế giới, thì khi đó con người mới đặt nhiều câu hỏi về TDST và làm thế nào để phát huy tối đa sức sáng tạo của con người. Lúc này khoa học sáng tạo mới thực sự được quan tâm nghiên cứu một cách bài bản trên khắp thế giới. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Ở Việt Nam những hoạt động liên quan đến khoa học về lĩnh vực sáng tạo mới thật sự được bắt đầu vào thập kỷ 70 của thế kỷ XX, trước đó những hoạt động này chưa có tổ chức cao. Tuy vậy, những nghiên cứu về sáng tạo cho đến nay vẫn còn khá ít. Có thể kể ra những nghiên cứu tiêu biểu như: “Rèn luyện khả năng sáng tạo toán học ở nhà trường phổ thông” (Hoàng Chúng, 1964), “Làm thế nào để sáng tạo” (Phan Dũng, 1992), “Khơi dậy tiềm năng sáng tạo” (Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên) 2004).Một số tác giả khác cũng rất quan tâm đến vấn đề sáng tạo như Vũ Dương Thụy (2003), Trần Hiệp, Đỗ Long (1990), Tôn Thân (1995). Ngoài ra còn một số tác giả có bài 8 giảng về sáng tạo như: “Tâm lý học sáng tạo” (Nguyễn Huy Tú, 1996), “Tâm lý học sáng tạo” (Đức Huy, 1999)...Trong những nghiên cứu trên một số nghiên cứu tập trung trong lĩnh vực tâm lý học. Tác giả Đức Huy trong cuốn “Tâm lý học sáng tạo” của mình đã đề cập đến năm vấn đề . Tác giả Hoàng Chúng trong cuốn “Rèn luyện khả năng sáng tạo toán học ở nhà trường phổ thông”, đã tập trung nghiên cứu vấn đề rèn luyện của HS phát triển các phương pháp suy nghĩ cơ bản trong sáng tạo toán học như đặt biệt hoá, tổng quát hoá, tương tự hoá và cho rằng các phương pháp này có thể vận dụng trong giải toán để mò mẫm, dự đoán kết quả, tìm ra phương hướng giải toán để mở rộng, đào sâu và hệ thống hoá kiến thức. Nó giúp ta thấy được sợi dây liên hệ giữa nhiều vấn đề khác nhau và giúp sự phát triển TDST của chính chủ thể. Tác giả Nguyễn Cảnh Toàn trong “Tập cho HS giỏi toán làm quen dần với nghiên cứu toán học” đã đặt trọng tâm vào việc rèn luyện khả năng “phát hiện vấn đề”, rèn luyện TDST và nhất là tư duy biện chứng thông qua lao động tìm tòi “cái mới”. Trong cuốn sách, ông khẳng định: muốn sáng tạo toán học, rõ ràng là phải vừa giỏi phân tích, vừa giỏi tổng hợp. Phân tích và tổng hợp đan xen vào nhau, cái này tạo điều kiện cho cái kia. Nghiên cứu về vấn đề sáng tạo trong cấp trung học cơ sở và phổ thông trung học, đặc biệt phải kể đến hai tác giả Tôn Thân (1995) và Trần Luận (1995, 1996). Tác giả Tôn Thân cho rằng TDST là dạng tư duy độc lập tạo ra ý tưởng mới độc đáo và có hiệu quả giải quyết vấn đề cao. TDST là tư duy độc lập vì nó không bị gò bó, phụ thuộc vào những cái đã có. Tính độc lập của nó bộc lộ vừa trong việc đặt mục đích vừa trong việc tìm giải pháp. Mỗi sản phẩm của TDST đều mang rất đậm dấu ấn của mỗi cá nhân đã tạo ra nó. Đồng quan điểm với tác giả Tôn Thân, tác giả Trần Luận cũng cho rằng: sáng tạo có nghĩa là tạo ra, làm ra, sản xuất ra, sinh ra cái mới. Hai đặc 9 trưng quan trọng nhất của sáng tạo là tính mới mẻ trong sản phẩm của tư duy (trên bình diện xã hội hoặc bình diện cá nhân) và tính độc lập của tư duy trong việc đặt mục đích tìm đường giải quyết và trong việc chọn con đường giải quyết. 1.2 Tư duy sáng tạo trong dạy học toán 1.2.1 Tư duy sáng tạo và các thành tố của tư duy sáng tạo 1.2.1.1. Khái niệm sáng tạo Lecne cho rằng: "Sự sáng tạo là quá trình con người xây dựng cái mới về chất bằng hành động trí tuệ đặc biệt mà không thể xem như là hệ thống các thao tác hoặc hành động được mô tả thật chính xác và được điều hành nghiêm ngặt". [8, tr20]. Solso R.L quan niệm: "Sáng tạo là một hoạt động nhận thức mà nó đem lại một cách nhìn nhận hay cách giải quyết mới mẻ đối với một vấn đề hay tình huống".[12, tr.15] GS.TSKH Nguyễn Cảnh Toàn có nói: "Người có óc sáng tạo là người có kinh nghiệm phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề đã đặt ra".[19,tr.6] Có hai mức độ sáng tạo: - Mức độ 1: Cách mạng trong một lĩnh vực nào đó, làm thay đổi tận gốc các quan niệm của một hệ thống, tri thức và sự vận dụng. Như sự phát hiện ra hình học phi Ơclit của Lôbasepxki, lí thuyết nhóm của Galoa... - Mức độ 2: Phát triển liên tục cái đã biết, mở rộng lĩnh vực ứng dụng. Như sự phát triển của máy tính, của lazer... Đối với người học toán, có thể quan niệm sự sáng tạo đối với họ, nếu họ tự đương đầu với những vấn đề mới đối với họ và họ tự mình tìm tòi độc lập những vấn đề đó, để tự mình thu nhận được cái mới mà họ chưa từng biết. Như vậy một bài tập cũng được xem như là mang yếu tố sáng tạo nếu các thao tác giải nó không bị những mệnh lệnh nào đó chi phối, tức là người giải 10 chưa biết thuật toán để giải và phải tiến hành tìm kiếm với những bước đi chưa biết trước. 1.2.1.2. Quá trình sáng tạo Như J.Adama đã "Nghiên cứu về tâm lí học sáng tạo trong lĩnh vực toán học" đã chỉ ra quá trình lao động sáng tạo ấy trải qua bốn giai đoạn: + Giai đoạn chuẩn bị: Là giai đoạn đặt nhiệm vụ nghiên cứu, thu thập tài liệu liên quan. + Giai đoạn ấp ủ: Quá trình tư duy ít bị sự kiểm soát hơn của ý thức, tiềm thức lại chiếm ưu thế, các hoạt động bổ sung cho vấn đề được quan tâm. + Giai đoạn bừng sáng: Đột nhiên tìm được lời giải đáp, đó là các bước nhảy vọt về chất trong tri thức, xuất hiện đột ngột và kéo theo là sự sáng tạo. + Giai đoạn kiểm chứng: Xem xét, khái quát kết quả. Ý thức lại được tham gia tích cực. Kiểm tra trực giác, triển khai các luận chứng logic để có thể chứng tỏ tính chất đúng đắn của cách thức giải quyết vấn đề, khi đó sáng tạo mới được khẳng định. Qua nhiều nghiên cứu chúng tôi rút ra được các đặc điểm của quá trình sáng tạo: + Là tiền đề chuyển tri thức và kỹ năng vào hoàn cảnh mới. + Nhận ra vấn đề mới trong những điều kiện quen thuộc. + Nhìn ra các chức năng mới ở những đối tượng quen thuộc. + Nhận ra cấu trúc của đối tượng đang nghiên cứu. + Lựa chọn cách giải quyết tốt nhất trong từng hoàn cảnh nhờ khả năng tìm được nhiều giải pháp trên nhiều góc độ và hoàn cảnh khác nhau. + Năng lực tìm kiếm và quyết định phương pháp giải quyết độc đáo trong khi đã biết được nhiều phương pháp giải quyết truyền thống. Trong quá trình sáng tạo toán học, thường xuất hiện những trạng thái hay tình huống một tư tưởng nào đó đột nhiên bừng sáng trong đầu óc con
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan