Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Gốm chu đậu trong lịch sử gốm việt...

Tài liệu Gốm chu đậu trong lịch sử gốm việt

.PDF
138
22
142

Mô tả:

MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Lời cảm ơn MỤC LỤC......................................................................................................................1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................3 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài............................................................................................6 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................11 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................11 5. Phương pháp nghiên cứu ..........................................................................................11 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ..................................................................................12 7. Bố cục luận văn ........................................................................................................12 PHẦN NỘI DUNG Chương 1: TỔNG QUAN VỀ GỐM SỨ VIỆT NAM...............................................14 1.1 Gốm sứ - vấn đề tên gọi và phân loại ....................................................................14 1.1.1. Tên gọi ...............................................................................................................14 1.1.2. Phân loại ........................................................................................................... 21 1.2. Khái quát về sự phát triển của gốm sứ Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử ...........23 1.2.1. Gốm Việt thời tiền sử và sơ sử ...........................................................................24 1.2.2. Gốm Việt thời kỳ các triều đại quân chủ phong kiến .........................................32 1.2.3. Gốm Việt giai đoạn từ 1945 đến nay .................................................................45 1.3. Một số kỹ thuật cơ bản của gốm sứ truyền thống Việt Nam ............................... 54 1.3.1. Nguyên liệu sản xuất ..........................................................................................54 1.3.2. Gia công Phối liệu ..............................................................................................57 1.3.3. Men và cách pha chế...........................................................................................58 1.3.4. Khuôn thạch cao và cách chế tạo...................................................................….60 1.3.5. Kỹ thuật Nung đốt...............................................................................................61 1.3.6. Các công đoạn sản xuất gốm truyền thống........................................................66 1 Chương 2: TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA GỐM CHU ĐẬU....................................................................................................................74 2.1. Quá trình hình thành và phát triển của gốm Chu Đậu...........................................74 2.2. Những đặc trưng của gốm Chu Đậu......................................................................80 2.2.1. Kỹ thuật chế tác...................................................................................................81 2.2.2. Nghệ thuật trang trí.............................................................................................86 2.3. Mối quan hệ giữa gốm Chu Đậu và các trung tâm gốm khác................................90 2.4. Gốm cổ Chu Đậu xuất khẩu và con đường hải thương nước Việt ........................94 2.5. Một số loại hình sản phẩm đặc biệt của đồ gốm Chu Đậu..................................104 2.6. Chân dung các nghệ sĩ gốm Chu Đậu..................................................................108 Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN GỐM CHU ĐẬU TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY - BÀI HỌC VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ ..............................................114 3.1. Khuynh hướng đa nguyên của gốm sứ hiện đại thế giới .....................................114 3.2.Thực trạng hiện nay của gốm sứ Việt Nam .........................................................118 3.3. Một số đề xuất, kiến nghị mang tính định hướng phát triển trong hoạt động sản xuất và kinh doanh gốm sứ Chu Đậu hiện đại ...........................................................121 PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................................127 TÀI LIỆU THAM KHẢO:.......................................................................................130 Phụ lục 1: Các hình vẽ và hình ảnh minh họa phần nội dung luận văn Phụ lục 2: Hình ảnh một số tác phẩm gốm sứ nghệ thuật và Tham luận Hội thảo: “Gốm Đồng Nai và các vùng phụ cận, từ truyền thống đền hiện đại“ của tác giả luận văn . DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Giải thích Gs Giáo sư PGs Phó Giáo sư Ts Tiến sĩ Nxb Nhà xuất bản tr.CN trước Công Nguyên ĐHKHXH&NV Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam là một quốc gia có nền văn minh lúa nước, thuộc khu vực địa lý Đông Nam Á, người Việt Nam luôn tự hào về bề dày truyền thống nghề gốm lâu đời. Trong môi trường thuận lợi các cơ tầng văn hóa Việt, nghề gốm hình thành và phát triển, đạt nhiều thành tựu rực rỡ, đồ gốm đã hiện diện trong hầu hết các lĩnh vực đời sống vật chất và tinh thần của người Việt. Kho tàng to lớn của di sản văn hóa Việt Nam có nhiều công sức đóng góp của những thợ gốm Việt tài hoa với những sáng tạo nghề gốm hết sức độc đáo về kiểu dáng, sắc men, họa tiết hoa văn mang hồn cốt văn hóa dân tộc rất riêng, bình dị và gần gũi với những tâm hồn Việt. Việt Nam cũng được quốc tế thừa nhận là một trong những quốc gia thực hiện xuất khẩu thành công các sản phẩm gốm của mình sớm nhất trong khu vực. Các sản phẩm gốm thuần Việt có chất lượng cao đã trở thành những món đồ quý giá được nâng niu, trân trọng như báu vật trong các bộ sưu tập của các cá nhân, các bảo tàng danh tiếng, khi chúng theo chân các thương đoàn cả của người Việt và người nước ngoài tỏa ra khắp thế giới. Theo dòng lịch sử phát triển, các đại diện điển hình của gốm Việt đã quy tụ vào ba trung tâm gốm lớn ứng với ba vùng văn hóa, văn minh thời đại kim khí của đất nước: một là vùng văn hóa Đông Sơn, hai là vùng văn hóa Sa Huỳnh và ba là vùng văn hóa Óc Eo. Trong các vùng văn hóa tiêu biểu ấy, gốm mang những nét đẹp đặc sắc điển hình với kỹ thuật và nghệ thuật chế tác riêng, có quá trình và tốc độ phát triển khác nhau. Đặc biệt phát triển và có nhiều thành tựu là các dòng gốm tại vùng văn hóa Đông Sơn: Cách nay khoảng 4 000 năm, những đại diện đầu tiên của gốm vùng đồng bằng sông Hồng đã hình thành, tồn tại và phát triển trên một vùng châu thổ được bồi đắp bởi phù sa của các con sông trong hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Từ những đại diện đầu tiên này, văn hóa gốm Việt đã phát triển, lan tỏa và trải rộng ảnh hưởng của nó tới các vùng miền khác của đất nước trong suốt chiều dài lịch sử. Nghề gốm là một nghề tiêu biểu của lĩnh vực thủ công mỹ nghệ truyền thống Việt Nam. Từ thời kỳ tiền sử, sơ sử, phong kiến đến thời kỳ hiện đại, gốm Việt với nhiều 3 chủng loại, nối tiếp nhau xuất hiện. Gốm cổ truyền Việt Nam ngày nay được nhắc tới nhiều là các loại gốm đất nung thời đồ đồng, gốm Hán - Việt, gốm men ngọc, gốm hoa nâu thời Lý - Trần, gốm hoa lam, gốm men rạn chạm đắp nổi, gốm tam thái, ngũ thái thời Lê Sơ - Mạc...Các loại hình gốm đó không những là những hiện vật ghi nhận dấu ấn thời đại, quá trình phát triển của dân tộc, mà chúng còn là những tài liệu minh chứng sinh động, phản ánh đặc trưng nghệ thuật tạo hình của từng thời kỳ phát triển của lịch sử gốm Việt. Khi nghiên cứu về gốm, ngoài những vấn đề về kỹ thuật và mỹ thuật mang tính chất đặc trưng chuyên môn của hoạt động nghề, chúng ta còn có thêm điều kiện nghiên cứu nhiều vần đề khác mang giá trị biểu hiện phương diện văn minh của dân tộc trong thời kỳ lịch sử đó như kinh tế, xã hội, lịch sử, văn hóa, thẩm mỹ, phong tục tập quán... và mối quan hệ của nghệ thuật gốm với các loại hình nghệ thuật khác như: Điêu khắc; Hội họa; Kiến trúc...Vì vậy, cũng có thể coi gốm chính là một thứ niên biểu lịch sử. Suốt chiều dài dựng nước và giữ nước hào hùng và bi tráng của mình, người Việt luôn phải đối mặt với những cuộc chiến khốc liệt, phải gồng mình lên chịu đựng nhiều hy sinh mất mát, đổ nát hoang tàn. Biết bao nhiêu những cung điện đền đài, vàng bạc châu báu, của ngon vật lạ, những sản phẩm tinh hoa của người thợ thủ công, đã bị hủy diệt bởi sự tàn bạo chiến tranh và chìm sâu dần vào sự quên lãng của quá khứ. Trong một hoàn cảnh lịch sử như vậy, tưởng như đã thất truyền, gốm Chu Đậu - một dòng gốm cổ quý giá của người Việt - đã rũ bụi thời gian, bất ngờ phát lộ rạng ngời. Bắt đầu từ sự phát hiện tình cờ bởi một nhà ngoại giao người Nhật, khi ông nhìn thấy một bình gốm sành trắng hoa lam nghi là có nguồn gốc Việt Nam, đang được trưng bày tại Bảo tàng Nghệ thuật Topkapi của Thổ Nhĩ Kỳ và được bảo hiểm tới hơn 1 triệu USD. Tiếp theo, là một hành trình với những nỗ lực không ngừng của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước để tìm kiếm tông tích, dấu vết vùng đất Nam Sách cổ xưa của Việt Nam, địa chỉ gắn liền với lai lịch bí hiểm của chiếc bình gốm mới được phát hiện tại Thổ Nhĩ Kỳ. Thành công từ những khai quật thực địa, cả trên đất liền và dưới đáy đại dương đã làm hiển hiện một dòng gốm Việt lừng lẫy một thời, xứng đáng là niềm tự hào chung của tất cả mọi người con Việt, mỗi khi nhắc tới. Gốm cổ Chu Đậu trở 4 thành tâm điểm và là đối tượng tranh giành với số tiền hàng nghìn, hàng triệu USD cho các sản phẩm của nó tại nhiều sàn đấu giá quốc tế là những minh chứng sống động khẳng định chân giá trị của dòng gốm cổ Chu Đậu. Không chỉ có giá trị to lớn về vật chất, gốm cổ Chu Đậu còn mang nhiều giá trị quý giá về tinh thần, qua sự biểu hiện một cách tuyệt vời các yếu tố đặc trưng về văn hóa, kỹ thuật, mỹ thuật... trở thành nguồn cung cấp thông tin hết sức có giá trị về Việt Nam trong giai đoạn các thế kỷ XIV - XVI. Gốm cổ Chu Đậu đã tạo nên một dấu ấn đậm nét trong bức tranh phát triển chung của lịch sử nghề gốm Việt Nam và có những ảnh hưởng không nhỏ tới một số trường phái gốm Nhật Bản trong lịch sử cận đại của quốc gia này. Là một nghệ sĩ, trong các nghiên cứu và sáng tạo nghệ thuật của mình, gốm là mảng đề tài quan trọng mà tôi dành cho nó nhiều thời gian và tâm huyết. Các tác phẩm của tôi có được sự thành công nhất định chính bởi những cảm hứng khởi phát trên nền tảng tiếp thu, học hỏi các thành tựu từ di sản gốm Việt nói chung và gốm Chu Đậu nói riêng mà tiền nhân để lại. Nghiên cứu về nghệ thuật gốm Việt cũng là cách lựa chọn một đối tượng, một đề tài nghiên cứu nền mỹ thuật Việt để các nghệ sỹ ngày nay có thêm lòng tự hào về truyền thống nghệ thuật dân tộc, từ đó phát huy những sáng tạo nghệ thuật hiện đại của cá nhân mình. Lựa chọn gốm Chu Đậu làm đề tài nghiên cứu, tác giả muốn dựa trên các thế mạnh sẵn có của mình là người con sinh ra trên quê hương Chu Đậu, có nhiều ưu thế trong các quan hệ để nắm bắt nhiều nguồn thông tin về dòng gốm này. Tiếp nữa, bản thân tác giả cũng là người có thời gian dài từng trực tiếp tham gia sản xuất gốm sứ, sưu tập cổ vật và sáng tác các tác phẩm nghệ thuật gốm, nên đã tích luỹ được ít nhiều các hiểu biết về nghề gốm nói chung và gốm Chu Đậu nói riêng. Hy vọng những điều kể trên cộng với tình yêu mãnh liệt của cá nhân tác giả với nghệ thuật gốm sẽ góp phần giúp tác giả luận văn có được những thành công như kỳ vọng. Đề tài nghiên cứu về gốm cổ Chu Đậu cũng rất phù hợp với các nội hàm của chuyên ngành Việt Nam Học, vì vậy nó là một trong những lý do để tôi lựa chọn làm đề tài luận văn cao học của mình. 5 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài Tại Việt Nam hiện nay, khá nhiều các đầu sách, các bài viết về gốm Việt nói chung và gốm Chu Đậu nói riêng đã được thực hiện và công bố, xuất bản. Tác giả luận văn xin lựa chọn liệt kê và trình bày tóm lược, khái quát nội dung chính một số các công trình nghiên cứu tiêu biểu của các tác giả trong và ngoài nước mà mình được hạnh ngộ và chú ý quan tâm nhiều vì có nhiều điểm tương đồng với hướng nghiên cứu chính của đề tài luận văn như sau: 2.1. Nhóm thứ nhất: Các nghiên cứu chung về gốm sứ Việt - Sách: Nghề gốm cổ truyền của tác giả Bùi Văn Vượng, nội dung khẳng định: Gốm Việt Nam là một nghề thủ công cổ truyền đặc sắc và rất độc đáo của dân tộc. Các sản phẩm gốm Việt Nam có hình thức đẹp, chất lượng tốt, được người tiêu dùng ưa chuộng. Không ít các sản phẩm gốm sứ được làm ở một trình độ kỹ thuật cao và nổi tiếng thế giới. Trong suốt nhiều thế kỷ, đồ gốm Việt Nam cũng đã ảnh hưởng nhất định đến một số nước, đặc biệt là Nhật Bản. Người Nhật rất ca ngợi đồ gốm Việt Nam, những thợ gốm giỏi ở Nhật Bản thừa nhận rằng, suốt từ cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX, việc bắt chước kỹ thuật gốmViệt Nam là một thành công lớn đối với họ. Họ coi đồ gốm Việt Nam là một tiêu chuẩn để xét trình độ khéo léo và tài nghệ của các thợ gốm Nhật Bản.[53] - Bài viết: “Về đồ gốm Chu Đậu” của tác giả Bùi Ngọc Tuấn, nội dung khẳng định: Dân tộc Việt Nam có một ngành nghệ thuật thuần nhất, phong phú, kéo dài nhiều trăm năm và rất được yêu chuộng bởi các nhà sưu tập trên thế giới. Những món đồ gốm rất đặc biệt Việt Nam, rất đẹp, rất hiếm có. Giá trị tuyệt vời của nghệ thuật tạo hình cổ truyền Việt Nam, vừa nghệ thuật, vừa giàu kỹ thuật sáng tạo, lại vừa chứa đựng cả dòng diễn tiến của văn hóa nhà. Từ đó, tác giả hy vọng rằng một ngày gần đây đa số chúng ta biết đến những nét đẹp của những món đồ Chu Đậu, đồ Lý trắng, Lý nâu... để càng thêm hiểu và yêu thêm cái tâm tình thuần Việt được thể hiện qua bàn tay người nghệ sỹ Việt nhiều trăm năm trước. Để qua những hình tượng nghệ thuật được thể hiện trên những món đồ gốm ấy, chúng ta sẽ thấy rõ ông cha chúng ta nhìn đời sống xung quanh mình như thế nào.[49] 6 - Sách: Nghệ thuật gốm Việt Nam của tác giả Trần Khánh Chương, nội dung khẳng định: Gốm Việt có truyền thống từ lâu đời với sự đa dạng về chất liệu, kiểu dáng và nghệ thuật trang trí độc đáo. Trải qua gần một vạn năm phát triển, nghệ thuật gốm Việt Nam đã có được một kho tàng vô cùng phong phú với nhiều chủng loại, nhiều phương thức biểu hiện sáng tạo, độc đáo, mới lạ. Nghệ thuật gốm Việt Nam có nhiều ảnh hưởng đến tâm thức người Việt và là hiện vật phản ánh các đặc trưng nghệ thuật tạo hình của thời đại. Nghệ thuật gốm còn là một trong những loại hình tiêu biểu của nghệ thuật truyền thống Việt Nam.[2] - Sách: Gốm Việt Nam - từ đất nung đến sứ của tác giả Trần Khánh Chương là tập hợp các bài viết nghiên cứu. Nội dung phản ánh từ các khái niệm – thuật ngữ đến sự khác biệt của vật liệu, kỹ thuật chế tác trong tạo hình và nung đốt, nghệ thuật trang trí các loại hình gốm sứ. Diễn tiến quá trình phát triển của gốm Việt gắn liền với những thay đổi căn bản về hình thức và chất lượng, từ đó phát sinh sự thay đổi về tên gọi gắn liền với bản chất về công năng và thẩm mỹ của sản phẩm qua mỗi thời kỳ lịch sử. Tác giả trình bày quan điểm cá nhân trong cách phân loại đồ gốm gắn liền với các yếu tố cơ bản của nghề gốm như vật liệu, kỹ thuật tạo hình, kỹ thuật nung đốt gắn liền với diễn tiến các giai đoạn khác nhau của quá trình phát triển qua các thời kỳ lịch sử. Tác giả giới thiệu một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề của gốm Việt Nam từ trước tới nay, với nhiều tư liệu, nhận định giúp cho những người yêu thích và quan tâm tìm hiểu về gốm Việt Nam có một tài liệu tham khảo quý, phong phú và đáng tin cậy.[3] - Bài viết: “2000 năm gốm Việt Nam“ của các tác giả Nguyễn Đình Chiến và Phạm Quốc Quân giới thiệu: Các dòng gốm Việt Nam với các loại hình tiêu biểu theo niên đại qua các triều đại chính của lịch sử Việt Nam. Gốm Việt Nam gắn liền với cuộc sống người Việt qua các triều đại như một nhân chứng, phát triển theo dòng lịch sử dân tộc, lúc thịnh, lúc suy. Mỹ thuật gốm Việt đã phát triển rực rỡ, đóng góp trong nền văn minh của nhân loại, sự sáng tạo kỹ thuật men nhiều loại độc đáo, có vị trí, phong cách trong ký ức phát triển nghệ thuật gốm sứ của nhân loại với lịch sử gốm 2000 năm.[3] 7 - Bài viết: “Đồ gốm Việt Nam và căn cước văn hóa: Bằng chứng từ nhà Lý và nhà Trần” của tác giả là Ts John S. Guy - Phụ tá Quản thủ phòng Ấn Độ, Bảo tàng Victoria and Albert, London trình bày các nghiên cứu phân tích: Danh biểu trang trí của họa kiểu đồ gồm trong thời nhà Lý - Trần, và lập luận rằng sự lựa chọn và giải thích các chủ đề được nhận thấy trên các sản phẩm đồ gốm của thời kỳ này cấu thành các sự phát biểu có ý thức về căn cước văn hóa Việt Nam. Lịch sử đồ gốm Việt Nam, nói một cách tổng quát, song hành với sự tiến hóa của đồ gốm Trung Hoa từ thời nhà Hán trở đi, về mặt hình dáng và thể điệu. Tuy nhiên, các nhà làm đồ gốm Việt Nam đã đem lại sự biểu lộ các thành tố của căn cước văn hóa mang bản chất Việt Nam. Sự kiện này được nhận thấy trong sự vận dụng độc đáo các hình dáng đồ gốm và, đáng kể hơn, trong sự phát triển danh biểu trang trí nhằm hội nhập các chủ đề và phần tử họa tiết không có trong truyền thống Trung Hoa.[33] - Bài viết: “Về sự xuất hiện và phát triển của bàn xoay gốm cổ“ của tác giả Hán Văn Khẩn. Nội dung bài viết, tác giả quan tâm đến sự xuất hiện và phát triển mang tính bước nguặt trong kỹ thuật tạo hình bằng bàn xoay của các trung tâm sản xuất gốm cổ Việt Nam đã mang lại những lợi thế lớn về năng suất và tính hoàn thiện sản phẩm, từ đó mà có thể đáp ứng những đơn hàng nội địa hay xuất khẩu cần khối lượng lớn và nhanh của khách hàng.[24] 2.2. Nhóm thứ hai: Các công trình nghiên cứu về gốm Chu Đậu - Bài viết: “Công trình nghiên cứu Gốm Chu Đậu 30 năm sau nhìn lại“ của P.Gs Ts Tăng Bá Hoành - nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử tỉnh Hải Dương. Tác giả nêu rõ: Cách đây 30 năm, khi nói đến Chu Đậu người ta thường nghĩ đến một làng nghề dệt chiếu cói cổ truyền hay một trạm bơm điện. Nay nói đến Chu Đậu, không chỉ người trong nước mà nhiều học giả nước ngoài, biết ngay đó là một trung tâm sản xuất gốm mỹ nghệ nổi tiếng đất nước xưa và nay. Từ kết quả nghiên cứu gốm Chu Đậu mà biết được tình hình hàng hải, ngoại thương, thủ công nghiệp của Việt Nam ở thế kỷ XV- XVI, vấn đề mà sử liệu nước nhà rất mờ nhạt. Đặc biệt là vai trò của Nữ tài Bùi Thị Hý, một nhân vật nổi tiếng trên cả 4 lĩnh vực: Trí thức; Mỹ thuật; Hàng hải và Ngoại thương. Chỉ từ vài hiện vật có minh văn ban đầu, sau 30 năm đã nghiên cứu hoàn chỉnh một vấn đề quan trọng trong lịch sử dân tộc, có ý nghĩa và giá trị lớn trên 8 nhiều phương diện: Lịch sử; Kinh tế; Văn hoá; Điển hình là Nghệ thuật; Kỹ thuật; Ngoại thương; Hàng hải...Sự hoàn thiện của vấn đề có giá trị rộng lớn và lâu dài mà khi bắt đầu nghiên cứu tưởng như đáy biển mò kim, dẫn đến sự khó tin của một vài người là điều dễ hiểu, nhưng vấn đề đã được chứng minh khá đầy đủ bằng hiện vật và minh văn không thể đảo ngược.[21] - Sách: Gốm Chu Đậu của P.Gs Ts Tăng Bá Hoành – nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử tỉnh Hải Dương. Qua tác phẩm, tác giả khẳng định: Các giá trị của gốm Chu Đậu, đặc biệt và chủ yếu là gốm hoa lam, cực kỳ tinh xảo. Từ dáng vẻ, nước men đến màu sắc và họa tiết trang trí trên đồ gốm này đều đẹp đến mức hoàn hảo lạ thường. Khá nhiều đồ gốm rất đẹp của Chu Đậu đã được nhiều bảo tàng lớn, không chỉ ở Việt Nam, mà còn ở nhiều nước ngoài sưu tầm, bảo quản và giới thiệu rộng rãi. Gốm Chu Đậu đã đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật và kỹ thuật gốm hoa lam, một biểu hiện đặc sắc của nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Sách dày 160 trang khổ 21cm x 28cm, viết bằng 3 thứ tiếng Việt, Anh và Nhật, trong đó có khoảng 120 trang hình ảnh và họa đồ. Nội dung sách giới thiệu chi tiết và công phu các nghiên cứu về các sản phẩm chủ yếu cùng công cụ và phương pháp sản xuất của một trung tâm gốm nổi tiếng thế kỷ XV – XVI qua 7 lần khai quật. Hiện vật giới thiệu trong sách là hiện vật trong các hố khai quật từ phế tích của những lò gốm cổ tại làng Chu đậu – Mỹ Xá – Hải Dương.[20] - Bài viết: “Đồ gốm sứ trên các con tàu đắm ở vùng biển Việt Nam“ của tác giả Gs Ts Nguyễn Đình Chiến, nguyên Viện trưởng Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đăng trên tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số tháng 3 năm 2005. Tác giả phác họa tổng thể bức tranh về xuất khẩu gốm cổ Việt Nam nhờ những phát hiện mới qua việc nghiên cứu các cổ vật gốm sứ được khai quật từ những con tàu đắm ở Cù Lao Chàm, ở Phú Quốc là các vùng biển nằm trên con đường hải thương xuất khẩu gốm sứ phía nam Việt Nam.[7] - Sách: Làng nghề Thủ công Mỹ nghệ miền Bắc của tác giả Trương Minh Hằng. Nội dung thể hiện sự nghiên cứu bao quát các làng nghề sản xuất Thủ công Mỹ nghệ miền Bắc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử, trong đó có phần viết rất kỹ và chi tiết 9 về làng nghề sản xuất gốm cổ Chu Đậu và các sản phẩm của nó với những giá trị hết sức đặc sắc và tiêu biểu cho nghệ thuật truyền thống Việt Nam.[16] - Bài viềt: “Về đồ gốm Chu Đậu” của tác giả Bùi Ngọc Tuấn với nội dung: Chu Đậu và Bát Tràng hoạt động gần như cùng thời. Gốm Chu Đậu đẹp hơn Bát Tràng. Gốm Chu Đậu thường được xuất cảng, Bát Tràng để dùng trong nước. Sau khi Chu Đậu tàn lụi thì Bát Tràng vẫn tiếp tục và được một số nghệ gia từ Chu Đậu tới cùng làm gia tăng mức độ sản xuất và giá trị của Bát Tràng. Đồ gốm Chu Đậu vào thời đó được người Nhật gọi là đồ Shimamono (đảo vật) hay Namban (An-Nam) không những chỉ được ưa chuộng bởi những nhà quyền quý, mà còn được người Nhật bắt chước làm theo. Bài viết như là cất một bước đầu tiên để mong rằng nhiều người trong và ngoài nước sẽ sưu tầm, sẽ tìm hiểu và sẽ nghiên cứu sâu rộng hơn nữa về đồ gốm Chu Đậu của Việt Nam, về văn hóa Việt Nam. Tác giả hy vọng rằng chúng ta sẽ mãi mãi tự hào rằng văn hóa Việt Nam không phải là một nền văn hóa tràn đầy ảnh hưởng Trung Hoa, mà chính là một nền văn hóa thuần nhất, độc đáo và giá trị, như những câu thơ lục bát thuần Việt của ca dao, của Nguyễn Du…[49] 2.3. Nhóm thứ ba: Các công trình nghiên cứu chuyên sâu về kỹ thuật - công nghệ sản xuất gốm sứ - Sách: Công nghệ sản xuất gốm sứ của tác giả là Nguyễn Văn Dũng - Khoa Hóa Kỹ thuật - Đại học Bách khoa Hà Nội. Nội dung đi sâu giới thiệu về: Các vấn đề vật liệu, kỹ thuật và công nghệ sản xuất gốm sứ hiện đại. Các khái niệm, thuật ngữ chuyên nghành, cách phân loại gốm sứ dưới lăng kính khoa học- kỹ thuật.[11] - Sách: Công nghệ sản xuất chất màu gốm sứ của các tác giả là Lê Văn Thanh và Nguyễn Minh Phương. Nội dung đi sâu giới thiệu về: Các vấn đề về công nghệ sản xuất chất màu gốm sứ hiện đại.[50] Trong quá trình thực hiện đề tài, trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu liên quan hữu duyên có được, kết hợp với các ghi chép học hỏi từ thực tế và kinh nghiệm, nhận thức cá nhân trong quá trình làm nghề của bản thân đã giúp tôi có được nền tảng cơ sở lý luận để triển khai đề tài luận văn cao học của mình. Tôi cũng vô cùng biết ơn những tác giả của những nghiên cứu đi trước đã cho tôi những tham khảo quý báu để tiếp tục phát triển sâu hơn đề tài của mình. 10 3. Mục đích và giới hạn nghiên cứu Thứ nhất: Trình bày các phân tích nghiên cứu, nhận định đánh giá và kết luận thể hiện quan điểm của các học giả trong nước và ngoài nước và góc nhìn cá nhân tác giả về các vấn đề chung của nghề gốm truyền thống Việt Nam như: khái niệm, thuật ngữ chuyên ngành, quy trình sản xuất, kỹ thuật và công nghệ, phân loại... Thứ hai: Làm sáng tỏ các giai đoạn lịch sử hình thành và phát triển với nhiều thành tựu của gốm Việt qua các thời kỳ từ sơ sử đến hiện đại, tác giả khoanh vùng giới hạn các vấn đề nghiên cứu của luận văn tại vùng văn hóa lớn, trọng tâm và điển hình của văn hóa Việt là vùng văn hóa Đông Sơn bắt đầu từ thời đại kim khí. Thứ ba: Giới thiệu các nghiên cứu về gốm cổ Chu Đậu với những nét đặc trưng tiêu biểu: - Về lịch sử ra đời và phát triển. - Về kỹ thuật và công nghệ chế tác. - Về nghệ thuật trang trí. - Về khả năng tổ chức sản xuất. - Về khả năng giao thương quốc tế. Thứ tư: Nghiên cứu thực trạng của gốm Việt hiện nay và đề xuất một số kiến nghị xây dựng chiến lược phát triển mang bản sắc riêng của gốm Chu Đậu hiện đại. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Gốm Việt nói chung và gốm Chu Đậu nói riêng. - Phạm vi nghiên cứu: Các giá trị về kỹ thuật và nghệ thuật, văn hóa, xã hội và lịch sử cùng với những ảnh hưởng lan tỏa của gốm cổ Chu Đậu trong sự phát triển chung của lịch sử gốm Việt. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp hệ thống cấu trúc; Phương pháp so sánh; Phương pháp phân tích tổng hợp và thông qua cách tiếp cận hệ thống, cách tiếp cận liên ngành về Mỹ thuật học, Dân tộc học, Nhân học, Văn hóa học, Lịch sử, Kỹ thuật công nghệ và Nghệ thuật. Thông tin phục vụ nghiên cứu đề tài luận văn được thu nhận bởi các nguổn: 11 - Các nghiên cứu về gốm của nhiều tác giả qua các thư tịch cổ, sách, báo, tạp chí và các văn bản quản lý nhà nước qua các thời kỳ. - Các kênh thông tin truyền thông hiện đại như các website, các bản tin, phóng sự – phim tài liệu truyền hình, các video clip... - Thông tin từ các Bảo tàng, phòng trưng bày Triển lãm, các bộ sưu tập cổ vật của các cá nhân, hiện vật gốm còn lưu giữ tại các công trình kiến trúc lịch sử ... - Tham vấn các nhà nghiên cứu, các nghệ nhân, các nghệ sỹ, các nhà sưu tập và các nhà quản lý lĩnh vực sản xuất và kinh doanh sản phẩm gốm. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Luận văn thể hiện sự nghiên cứu tâm huyết của tác giả về gốm Việt nói chung và gốm Chu Đậu nói riêng. Các giá trị nghiên cứu của luận văn cùng với các nghiên cứu khác của những nhà nghiên cứu Việt Nam và nước ngoài hy vọng sẽ tạo nên những đóng góp tích cực trong việc khẳng định Bản sắc Văn hóa với bề dày truyền thống đầy tự hào của người Việt được minh chứng qua một góc nhìn đặc biệt: góc nhìn nghệ thuật gốm Việt Nam với lịch sử hình thành và phát triển đạt nhiều thành tựu rực rỡ từ tiền sử, sơ sử cho đến các triều đại phong kiến, từ đó góp thêm tiếng nói củng cố quyết tâm tạo dựng chân giá trị mới của nghệ thuật gốm Việt Nam hiện đại với tinh thần: kế thừa Truyền thống, khẳng định Tương lai. 7. Bố cục luận văn Với mục đích và phạm vi nghiên cứu như đã nêu, ngoài phần Kết luận; Tài liệu tham khảo và các Phụ lục. Nội dung của luận văn được chia thành các chương như sau: Chương 1: TỔNG QUAN VỀ GỐM SỨ VIỆT NAM Nội dung chương này đi sâu phân tích các vấn đề chung của gốm sứ Việt Nam: - Gốm sứ - vấn đề tên gọi và phân loại. - Khái quát về sự phát triển của gốm sứ Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. - Một số kỹ thuật cơ bản của gốm sứ truyền thống Việt Nam. 12 Chương 2: TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA GỐM CHU ĐẬU Nội dung chương này đi sâu phân tích các vấn đề đặc trưng của gốm cổ Chu Đậu: - Quá trình hình thành và phát triển của gốm Chu Đậu. - Những đặc trưng của gốm Chu Đậu. - Mối quan hệ giữa gốm Chu Đậu và các trung tâm gốm khác. - Gốm cổ Chu Đậu xuất khẩu và con đường hải thương nước Việt. - Một số loại hình sản phẩm đặc biệt của đồ gốm Chu Đậu. - Chân dung các nghệ sĩ gốm Chu Đậu độc lập. Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN GỐM CHU ĐẬU TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY - BÀI HỌC VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ - Khuynh hướng đa nguyên của gốm sứ hiện đại thế giới. - Thực trạng hiện nay của gốm sứ Việt Nam. - Một số đề xuất, kiến nghị mang tính định hướng phát triển trong hoạt động sản xuất và kinh doanh gốm sứ Chu Đậu hiện đại. 13 PHẦN NỘI DUNG Chương 1: TỔNG QUAN VỀ GỐM SỨ VIỆT NAM Đồ gốm là các sản phẩm của nghề gốm, là các loại đồ dùng và vật liệu rất phổ biến, gần gũi, thân thuộc, là những hiện vật được coi như tấm gương phản ánh nhiều khía cạnh của đời sống vật chất và tinh thần trong cuộc sống con người. Người thợ gốm quan niệm: một sản phẩm gốm như một cơ thể sống, một vũ trụ thu nhỏ, trong đó kết hợp hài hòa Ngũ hành (五行) là: Kim (金), Mộc (木), Thuỷ (水), Hoả (火) và Thổ (土). Sự vận động để phát triển của nghề gốm được xem như là sự hanh thông của Ngũ hành, mà sự hanh thông của Ngũ hành lại phụ thuộc quá trình lao động sáng tạo của người thợ với những quy trình kỹ thuật chặt chẽ, chuẩn xác kết hợp hài hòa trạng thái thăng hoa của cảm xúc. Đồ gốm - Nghề gốm là một thành tựu sáng tạo to lớn của văn minh loài người, nó chứng minh khả năng tư duy vượt trội của con người trong việc khẳng định các tiến bộ về công nghệ - kỹ thuật, năng lực tổ chức làm việc và ý thức tiêu dùng. 1.1 Gốm sứ - vấn đề tên gọi và phân loại 1.1.1. Tên gọi Khi nghiên cứu về gốm sứ, việc cần làm đầu tiên là làm rõ các khái niệm, tên gọi để tạo cơ sở tiền đề xác định những đặc điểm về vật liệu, kỹ thuật chế tác, giá trị sử dụng, định vị niên đại thời điểm khai sinh của một loại gốm, một dòng gốm. Việc này, dù hết sức quan trọng nhưng lại khó tìm được tiếng nói thống nhất chung vì tính chất phức tạp của nó, bởi mỗi nhà nghiên cứu lại có cách nhìn, cách đánh giá và cách đặt tên khác nhau, phụ thuộc vào tiêu chí riêng trên quan điểm nghiên cứu chuyên sâu một vấn đề mà mình quan tâm. Trong luận văn này, tác giả lựa chọn đưa ra giới thiệu các khái niệm, các định nghĩa, các thuật ngữ, cách gọi tên các loại gốm từ các công trình nghiên cứu khá chuyên sâu của các tác giả tiêu biểu và sau cùng là quan điểm cá nhân của mình, như một kết luận cuối cùng. Và, cũng xin phép dài dòng về nội dung của phần này một chút vì vai trò quan trọng và cần thiết của nó. 14 Theo Ts Trương Thị Minh Hằng, thuật ngữ “đồ gốm” được hiểu là: “Tên gọi chung của các sản phẩm được làm từ đất sét, sau khi nung qua lửa ” [15,tr.125]. Còn theo Hoàng Phê, gốm là: “Tên gọi chung sản phẩm chế từ đất sét và hỗn hợp đất sét nung, như đồ đất nung, sành, sứ, vv…”[32,tr.411]. Hai tác giả Trần Anh Dũng và Đặng Kim Ngọc cho rằng: “ Gốm là thuật ngữ dùng để chỉ tất cả những sản phẩm chưa đạt tiêu chuẩn của sành “[10,tr.38]. Với nhà nghiên cứu Mộ Thanh thì: “thuật ngữ “đồ gốm” vừa được dùng để chỉ các sản phẩm của họ nhà gốm nói chung (có công dụng như là vật liệu hay là vật dụng) có men và không có men, vừa để chỉ riêng những sản phẩm chưa đạt, hoặc gần đạt tới tiêu chuẩn của “đồ sứ “[47,tr.224 - 234]. Trong cuốn sách Gốm sành nâu ở Phù Lãng, Trương Thị Minh Hằng phân chia đồ gốm thành 5 loại với các tên gọi: “1. Đất nung, 2. Sành nâu, 3. Sành xốp, 4. Sành trắng, 5. Sứ “[15, tr 80 - 83]. Theo tác giả, đây là 5 loại hình gốm chính ra đời kế tiếp nhau và cùng tồn tại cho tới ngày nay. Cách phân loại dựa trên hai tiêu chí: Một là, dựa vào đặc điểm xương gốm. Hai là, dựa vào niên đại. Cách gọi tên các loại gốm ở một số quốc gia khác trên thế giới có nhiều sự tương đồng về lịch sử nghề gốm với Việt Nam thì: Ở Nhật Bản, theo Ts Noritake Tsuda gốm Nhật được phân làm 4 loại: “1. Doki (Thổ khí): Đất nung; 2. Toki (Đào khí): Đất nung có men; 3. Sekki (Thạch khí): Sành và 4. Jiki (Từ khí): Sứ“[51, tr.220 - 225]. Ở Trung Quốc, theo Gs Kiều Thu Hoạch [26, tr.30 – 35] gốm cổ cũng được phân thành 4 loại như Nhật Bản. Ở Thái Lan, theo Pariwat Thammapreechakorn và Kritsada Pinsri gốm chia làm 4 loại: ”1. Terra Cotta ( Độ nung 8500C ), 2. Earthenware (Độ nung 8800C – 11500C), 3. Stonware (Độ nung 11500C -13000C ), 4. Porcelain (Độ nung 13000C – 14500C)”[36,tr.171- 182]. Tiêu chí để phân loại dựa trên sự khác biệt của vật liệu xương gốm và độ nung sản phẩm. Với các nhà khảo cổ, các nhà sưu tập gốm cổ thì các thuật ngữ “gốm hoa lam”, “gốm hoa nâu”,“gốm men ngọc”… được hiểu là tên gọi các dòng gốm gắn với các dòng men. Và, vì cách hiểu này không phản ánh thành phần và tính chất của xương gốm nên đôi khi, trong một số “bối cảnh”, để cụ thể hơn, người ta lại phải dùng một thuật ngữ khác thay thế. Ví dụ, “gốm hoa nâu” còn được gọi là “gốm sành xốp hoa 15 nâu”, hoặc “gốm đàn hoa nâu”, với nghĩa xương của nó là loại sành xốp (đàn). Cũng như vậy, “gốm hoa lam” còn được gọi là “gốm sành trắng hoa lam”, hoặc gốm Biên Hoà còn được gọi là “gốm sành xốp Biên Hoà” v.v… Hai loại gốm xuất hiện sớm nhất là Đất nung (niên đại khoảng 10 000 năm) và Sành (niên đại khoảng 2 000 năm), cách phân biệt giữa chúng tương đối rành mạch (cũng có thể do chúng là những loại gốm có thành phần và công nghệ chế tác tương đối đơn giản). Riêng đồ Sành được phân chia thành hai loại: Sành cứng (còn gọi là Sành mịn) và Sành mềm (còn gọi là Sành xốp hay là “đồ Đàn” theo cách gọi dân gian). Gọi là sành cứng hay sành mịn là bởi xương đất khi nung ở nhiệt độ cao đã bắt đầu nóng chảy (thiêu kết), tạo kết dính hạt mịn và rắn chắc như đá, không còn ngấm nước (có lẽ vì vậy mà người Nhật và người Trung Hoa gọi chúng là Thạch khí ). Loại Sành cứng còn có thể chia thành: Sành nâu (do xương gốm làm từ loại đất sét thường) và Sành trắng (do xương gốm làm từ loại đất sét trắng). Còn Sành xốp do xương đất mới kết dính nhưng chưa thật chín nên “bở”, “xốp” và vẫn bị ngấm nước. Độ cứng và thành phần của xương gốm Sành xốp không ổn định. Khi Sành trắng và sau đó là Sứ ra đời thì vấn đề trở nên phức tạp. Thực tế, Sành trắng và Sứ không chênh lệch nhau nhiều về độ nung, mà khác nhau chủ yếu về độ trong. Dù cùng được làm từ chủ yếu là đất sét trắng, nhưng Sành trắng và Sứ khác nhau ở chỗ xương của Sứ đã hoàn toàn kết tinh, soi lên ánh sáng thấy thấu quang. Tuy nhiên phải có cao lanh, tràng thạch và nung ở nhiệt độ trên 13000C mới thành Sứ thấu quang được, nung chưa đến độ lửa vẫn còn là Sành trắng; hoặc Sành trắng dù nung ngang độ lửa của Sứ vẫn chỉ là Sành nếu xương không có thành phần cao lanh, tràng thạch. Có lẽ do những yêu cầu của công nghệ chế tác Sứ quá cao nên thực tế đã nảy sinh ra một dạng sản phẩm “nằm dở dang” giữa Sành và Sứ; thành phần nguyên liệu và độ nung đạt tiêu chuẩn của Sứ nhưng chưa thấu quang. Gs Nguyễn Văn Y gọi chúng là loại “bán Sành bán Sứ”, ông viết: “Những đồ Sứ cổ của ta và cả của Trung Quốc thường thuộc loại này, dù vẫn được gọi là Sứ nhưng chưa thấu quang”[58, tr.174 - 225]. Còn đa số các nhà khảo cổ học nước ta gọi chúng là Sành Sứ hoặc Gốm Sứ (với nghĩa “demi” sứ). Chính vì giữa Sành trắng và Sứ có thể lẫn lộn nên ỏ Trung Quốc, một số cuốn từ điển đã giải thích Sành trắng là Sứ thô. 16 Gs Nguyễn Văn Y đã chia “ họ nhà gốm ” thành 3 loại chính: “1. Đất nung, 2. Sành, 3. Sứ”[59, tr.223 - 224]. Trên cơ sở lấy chất liệu và độ nung của xương đất làm tiêu chí. Chất liệu và độ nung của 3 loại này tương đối khác biệt một cách rạch ròi. Ví dụ: Đất nung được làm từ đất sét thường (đất thó), độ nung 6000C - 7000C, cao nhất là 9000C; Sành được làm từ đất sét thường (để cho loại sành nâu) hoặc từ đất sét trắng (cho loại sành trắng hoặc sành xốp), độ nung từ 1 0000C – 1 1000C, thậm chí 1 2500C tuỳ theo cấu tạo của lò nung và thành phần của xương đất chịu được lửa cao hay thấp. Còn Sứ, trong thành phần nguyên liệu ngoài đất sét trắng phải có thêm cao lanh, thạch anh, trường thạch và một số chất khác. Độ nung Sứ phải đạt từ 1 2800C – 1 3500C, thậm chí 1 4500C. Trong thực tế lịch sử, khi công nghệ chế tác Sứ đạt tới những tiêu chí cao nhất về độ trắng sáng, độ cứng, độ trong, độ bóng, độ thấu quang v.v…thì người ta không muốn cho Sứ vào họ nhà Gốm để Sứ dễ được đề cao trên thị trường. Gs Nguyễn Văn Y đã giải thích hiện tượng này và đưa ra lời tổng kết: “Gốm là tiếng gọi chung nhất của mấy loại trên. Nhưng trên thị trường, người ta muốn tách Sứ ra khỏi Gốm, bởi cái dạng bóng bẩy của nó khác các loại trên. Một phần nữa còn do nguyên nhân lịch sử: Sứ ra đời rất muộn so với họ nhà Gốm ổn định từ lâu. Nếu ở Việt Nam thường gọi “Gốm và Sứ”, ở châu Âu thường gọi “Cẻramique et Pocelaine” là đều do thói quen hoặc có dụng ý, hoặc vô tình. Nhưng về mặt khoa học, Sứ trước sau chỉ là một loại của Gốm”[58,tr.32 - 45]. Vấn đề niên đại của Sứ, theo Gs Nguyễn Văn Y: “ đồ Sứ Việt Nam liên quan mật thiết và chịu ảnh hưởng của đồ Sứ Trung Quốc, bởi Trung Quốc là nước đầu tiên trên thế giới “phát minh” ra Sứ. Theo một số nghiên cứu đã công bố thì Sứ Trung Quốc có từ đời Tam Quốc huặc lâu hơn là từ đời Ân - Thương, mặc dù khi đó Sứ chưa thể “thấu minh” do độ nung còn thấp “[59, tr.224]. Việc giải thích ý nghĩa và nguồn gốc ra đời của thuật ngữ Sứ tại Việt nam cũng có nhiều cách khác nhau. Vương Hồng Sển - nhà sưu tầm cổ vật nổi tiếng Sài Gòn xưa giải thích chữ Sứ trong sách Khảo về đồ sứ cổ Trung Hoa như sau: “Gọi là đồ Sứ vì đồ này do triều đình nhà Nguyễn phái Sứ bộ sang Trung Quốc đặt làm, và đồ này được 17 Sứ đoàn mang về nên gọi là đồ Sứ…”[38, tr . 124]. Sau này, trong một bài viết của Ts Trần Đức Anh Sơn đăng trên báo Thừa Thiên – Huế cũng đưa ra cách giải thích tương tự: “Sứ là chất liệu cao cấp hơn Sành và Gốm, hay Sứ là Sứ bộ, Sứ đoàn, Sứ giả? Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh chỉ có một chữ Sứ và chú giải: người vâng mệnh đi làm một việc gì – tên quan ngoại giao ra trú ở nước ngoài…”[41, tr.5].Và tác giả khẳng định: “ Như vậy không có nghĩa chữ Sứ trong Việt ngữ nghĩa là vật nung từ đất “[41, tr.5]. Cách lý giải của Nguyễn Anh Huy có vẻ hợp lí và thuyết phục hơn với nhiều người: “Chữ Sứ xuất phát từ người Trung Quốc, họ gọi những đồ vật này là “Từ khí” (theo âm Hán Việt). Chữ “Từ” phiên âm của người Trung Quốc là /Cí/, phát âm giống như âm đọc chữ “Sứ” của người Việt. Còn chữ “Sứ” (Sứ giả), phiên âm của người Hoa là /Shi/ và phát âm cũng giống như chữ “Sứ” của Việt Nam. Như vậy, chữ “Từ” (trong Từ khí) và chữ “Sứ” (trong Sứ giả, đại sứ) của người Trung Quốc phát âm nghe như nhau “[27, tr. 68 - 70]. Nguyễn Anh Huy cho rằng, có lẽ đây là một dạng đồng âm dị nghĩa nên mới dẫn đến cách hiểu nhầm lẫn của hai tác giả trên. Theo tư liệu của Gs Nguyễn Văn Y: “người châu Âu lần đầu tiên biết tới “Đồ Sứ” do việc nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc. Họ đặt tên cho nó là “Porcelaine” với nghĩa nguyên thuỷ là “xà cừ” (tên cúng cơm của con trai biển) nhằm dụng ý ca tụng sự trong suốt, óng ánh của nó. Và cho tới nay, một số từ điển tiếng Anh vẫn giải thích thuật ngữ “Đồ Sứ” với hai nghĩa: “Porcelaines” và “Chines”. Theo cách đặt tên của người châu Âu, để được gọi là “Đồ Sứ” thì phải “thấu minh” chứ không chỉ vì trong xương đất có chất cao lanh là đủ “[59, tr.325]. Như vậy vấn đề thấu quang có phải là điều kiện tiên quyết để khẳng định một món “Đồ Sứ” không? Nhà viết sử mỹ thuật Nguyễn Phi Hoanh nhận định: “Nước Việt Nam trong bao nhiêu thời đại đã biết làm đồ gốm, nhưng chưa khi nào sản xuất đồ sứ mịn. Những lọ và bát đĩa đẹp trong các thời đại trước đã xác nhận là của Việt Nam cũng chỉ là loại sành tốt mà thôi” [18, tr.145]. Theo ông: “ đồ sứ mới xuất hiện ở Việt Nam vào thời Nguyễn, đó là những đồ “kí kiểu” được triều đình Huế đặt làm tại lò 18 Cảnh Đức Trấn bên Trung Quốc (được gọi bằng nhiều tên: đồ sứ Huế, đồ gốm men lam Huế, đồ kiểu v.v…)”[18, tr.148]. Họa sỹ Trần Khánh Chương cũng có quan điểm tương tự: “Đồ sứ là loại gốm nung ở nhiệt độ cao, xương đất chảy, trắng, bóng, có thể từ phía trong nhìn thấy hình vẽ, hoạ tiết ở mặt ngoài. Ngày xưa, người ta thường nhắc tới sứ Giang Tây, loại sứ mang dấu ấn Nội phủ mà triều đình Nguyễn đặt mua ở Trung Quốc, hoặc loại sứ mỏng có hình cô tiên của Nhật Bản… Không ai nói đến đồ sứ của Việt Nam. Nước ta chỉ có đồ đất nung, đồ đàn, đồ sành trắng cao hơn nữa thì cũng chỉ có loại “bán sành bán sứ”. Ông cho rằng: “niên đại của sứ Việt Nam được đánh dấu vào thời điểm ra đời của nhà máy sứ Hải Dương, năm 1960.”[3, tr.101] Trương Minh Hằng cho rằng: “đã là sứ phải đạt tiêu chuẩn thấu quang hoặc ít ra cũng là “bán thấu quang”[15, tr.181]. Những điều tra khảo sát khảo cổ di chỉ Hoàng thành Thăng Long cuối năm 2002 và những kết quả được công bố cho thấy: rất nhiều hiện vật gốm trắng thời Lý đã thấu quang nhưng vẫn không được ai gọi chúng là “Đồ Sứ” cả. Do vậy, có thể thấy thấu quang chỉ là một điều kiện để xem xét đánh giá một sản phẩm gốm có đạt tiêu chuẩn là “Sứ” không mà thôi. Mộ Thanh nhấn mạnh: “Gốm được gọi là Sứ khi có 4 tiêu chuẩn cơ bản, đó là: trong như gương, trắng như ngọc, mỏng như giấy, kêu như chuông”[47, tr.145]. Trong dịch thuật các nghiên cứu về gốm quốc tế, những thuật ngữ về gốm bằng Việt ngữ đề cập ở trên đều có tên gọi tương đương trong “danh mục từ loại” bằng tiếng Anh, tiếng Pháp...: – Gốm, Đồ gốm, Vật liệu gốm: Porttery / Ceramic / Ceramicque – Đất nung: Terra cotta / Terre cuite – Đất nung tráng men: Terre cuite émaillé – Sành: Stoneware, (Stone ware) / Earthen ware – Sành trắng: Grés – Sành xốp: Majolique / Faience (Majolique và Faience là tên 2 địa danh ở vùng Tiểu Á và Ý chuyên sản xuất mặt hàng. – Sứ: Porcelain / Chine 19 Việc dịch các thuật ngữ chuyên ngành là một vấn đề khó, trong một số tư liệu, thuật ngữ “Earthen ware” khi thì được dịch sang tiếng Việt là “Sành xốp” để phân biệt với thuật ngữ “Stone ware” thường được dịch là “Sành” như cách phân loại trong cuốn “Ceramic Art in Thailand” đã nói tới ở trên, khi thì được dịch là “Đất nung” như trong cuốn “Gốm hoa lam Việt Nam” của hai tác giả Bùi Minh Trí và Kerry-Nguyen Long xuất bản năm 2001. Cũng như vậy, thuật ngữ “ Gốm hoa lam” – một dòng gốm nổi tiếng được sản xuất ở rất nhiều nơi trên thế giới có một thuật ngữ quốc tế là “Blue and White Ceramics”, nhưng trong cuốn “Gốm Việt Nam từ đất nung đến sứ”, Trần Khánh Chương dịch “Gốm hoa lam” là “Blue pattern glaze”; cũng như vậy, “Gốm hoa nâu “ là “Brown pattern glaze”. Có ý kiến cho rằng, cách dịch của Trần Khánh Chương chuẩn xác hơn. Nhưng ý kiến khác lại cho rằng, dịch như vậy, các học giả nước ngoài sẽ tưởng “Blue and White” và “Blue pattern glaze” là 2 dòng gốm khác nhau. Các nghiên cứu về gốm sứ Việt Nam của các học giả nước ngoài, chưa khi nào thấy xuất hiện thuật ngữ “Gốm Sành nâu”. Còn Trần Khánh Chương, trong cuốn “Nghệ thuật gốm Việt Nam” xuất bản năm 1990 đã dành hẳn một mục lớn có tiêu đề là “Gốm Sành nâu”, và trong “Gốm Việt Nam từ đất nung đến sứ” xuất bản năm 2001 đã dịch thuật ngữ “Gốm Sành nâu” sang tiếng Anh là :“Brown earthenware”. Theo Gs Nguyễn Văn Y gốm“Sành nâu” còn được gọi là “Đồ Cang”, như những sản phẩm của các lò Hương Canh (Vĩnh Phúc), lò Ngoạ Cương (Quảng Bình). Ông viết: “Từ “Cang” có lẽ xuất xứ từ một địa danh làm đồ “Sành nâu”, mà hiện nay chưa rõ nơi nào”[59, tr.206]. Cách gọi sản phẩm theo địa danh sản xuất như trên giống như cách gọi tên loại gốm Sành xốp: người châu Âu gọi là Faience (Faienca là tên một địa danh ở Ý nổi tiếng về sản phẩm này), còn người Việt gọi theo lối dân gian là “Đàn” (Đàn là tên một làng làm gốm sành xốp xưa kia ở tỉnh Hải Dương). Trong những thuật ngữ của nghề gốm Việt cổ truyền, “Cang” là một từ tối cổ. Xuất phát từ những tư liệu nghiên cứu của mình, Gs Nguyễn Văn Y cho rằng: “Chắc chắn từ “Cang” có mối liên quan nào đó với từ “Sành nâu”. Ví dụ: Hiện tại, nghề làm gốm “Sành nâu” ở Hương Canh từ lâu đã không còn hoạt động, nhưng trong làng vẫn còn một xóm nhỏ có tên gọi là “Lò Cang”. Còn ở các làng làm gốm “Sành nâu “vùng Kinh Bắc, chỉ còn Thổ Hà là sử dụng từ này nhưng theo một ý nghĩa khác; và cũng chỉ thấy 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan