Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo trình pháp luật đại cương (dành cho hệ đại học)...

Tài liệu Giáo trình pháp luật đại cương (dành cho hệ đại học)

.PDF
69
212
98

Mô tả:

CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIẾN PHÁP NÓI CHUNG VÀ LỊCH SỬ LẬP HIẾN VIỆT NAM 1.1 Khái niệm, nguồn gốc, bản chất của hiến pháp. a. Khái niệm Có nhiều quan điểm và định nghĩa về hiến pháp. Tuy nhiên, hiểu một cách khái quát, hiến pháp là đạo luật cơ bản của một quốc gia, dùng để xác định thể chế chính trị, cách thức tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân. Trong hệ thống pháp luật của quốc gia, hiến pháp là đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất. Tất cả các văn bản pháp luật khác phải phù hợp, không được trái với hiến pháp. Vị trí tối cao của hiến pháp là do nó phản ánh sâu sắc nhất chủ quyền của nhân dân và về nguyên tắc phải do nhân dân thông qua (qua hội nghị lập hiến, quốc hội lập hiến hoặc trưng cầu ý dân). Điều này khác với các đạo luật bình thường chỉ do quốc hội (nghị viện) gồm những người đại diện do dân bầu và uỷ quyền xây dựng. b. Nguồn gốc Từ hàng ngàn năm trước công nguyên, ở nhiều khu vực đã có những đạo luật được thiết lập để điều chỉnh những mối quan hệ cơ bản trong xã hội. Vì thế, đôi khi chúng cũng được coi là hiến pháp. Mặc dù vậy, theo nghĩa hiện đại, Hiến pháp Hoa Kỳ 1787 được thừa nhận rộng rãi là bản hiến pháp thành văn đầu tiên trên thế giới. Trong thời kỳ đầu (cuối thế kỷ 18 đến hết thế kỷ 19), các hiến pháp chủ yếu được xây dựng ở Bắc Mỹ và châu Âu, sau đó dần lan sang một số nước châu Á và châu Mỹ La-tinh. Phải từ sau thập kỷ 1940, số quốc gia trên thế giới có hiến pháp mới tăng nhanh, đặc biệt ở khu vực châu Á và châu Phi, cùng với thắng lợi của phong trào giành độc lập dân tộc và sự tan rã của hệ thống thuộc địa của các nước thực dân châu Âu. Hiện nay, không chỉ các quốc gia mà một số lãnh thổ trên thế giới cũng ban hành hiến pháp. Trong giai đoạn đầu, hiến pháp (còn gọi là hiến pháp cổ điển) thường có nội dung hẹp (chủ yếu quy định về tổ chức bộ máy nhà nước và một số quyền cơ bản của công dân). Kể từ sau năm 1917, xuất hiện mô hình hiến pháp của các nước XHCN với nội dung rộng hơn nhiều (ngoài các vấn đề về tổ chức bộ máy nhà nước và quyền công dân, còn đề cập đến cả chế độ kinh tế, chính sách văn hoá, xã hội, khoa học, quốc phòng, an ninh…). Xen giữa hai trường phái này là một dạng hiến pháp có nội dung trung hoà. Kể từ đầu thập kỷ 1980, hiến pháp hiện đại có xu hướng hiến định các cơ quan độc lập để giám sát quyền lực (hội đồng bầu cử quốc gia, hội đồng/toà án hiến pháp, ngân hàng nhà nước, ombudsman, cơ quan công vụ, cơ quan nhân quyền quốc gia, cơ quan chống tham nhũng quốc gia…) – những thiết chế mà trước đó ít hoặc chưa được quy định trong hiến pháp. c. Bản chất Nói đến bản chất của Hiến pháp là nói đến tính giai cấp của nó. Các học giả tư sản chỉ nhìn nhận Hiến pháp như một văn bản pháp luật quy định ra một hệ thống các cơ quan quyền lực, quy định một số quyền và nghĩa vụ của công dân nên khó tìm thấy những chỗ phân tích bản chất giai cấp của Hiến pháp mà phần nhiều là những định nghĩa mô tả về Hiến pháp. Nếu như pháp luật tư sản nói chung chỉ “là ý chí của giai cấp tư sản được nâng lên thành luật “, thì Hiến pháp cũng như những bản tuyên ngôn về chủ quyền nhân dân, về chế độ đại nghị, về các quyền và tự do của công dân dưới chế độ tư bản là một hình thức thể hiện lợi ích của giai cấp tư sản dưới danh nghĩa lợi ích chung của nhân dân, là sự ghi nhận lợi ích của giai cấp thống trị. Còn học thuyết Mác – Lênin đã chỉ ra một cách rõ ràng bản chất giai cấp của Hiến pháp. Theo Mác “Hiến pháp là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp, được lập ra vì lợi ích của giai cấp chiến thắng giành được quyền lực chính trị, thể hiện sự tương quan lực lượng giai cấp trong xã hội”; theo Lênin “ Các bản Hiến pháp thành văn hay không thành văn… đều là bản ghi chép thành quả đấu tranh thu được sau hàng loạt thắng lợi giành giật được một cách khó khăn của chế độ mới chống lại chế độ cũ. Bản chất của Hiến pháp thể hiện ở chỗ là các đạo luật đề cập quyền bầu cử vào các cơ quan đại diện, quy định thẩm quyền của chúng đều thể hiện mối tương quan lực lượng thực tế trong cuộc đấu tranh giai cấp.” Như vậy, Hiến pháp là một văn bản pháp luật đặc thù, trong một số trường hợp, sự ra đời của Hiến pháp là hiện thân của một sự thỏa hiệp giai cấp giữa các bộ phận trong một giai cấp hoặc giữa các giai cấp khác nhau trong một xã hội. Việc xem xét Hiến pháp cũng như mọi hiện tượng nhà nước, pháp luật khác từ lập trường giai cấp có ý nghĩa cách mạng và khoa học sâu sắc, chỉ có trên quan điểm đó chúng ta mới có thể hiểu rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa Hiến pháp với đời sống chính trị của mỗi nước. 1.2. Lịch sử lập hiến pháp. Việt Nam đã trải qua 5 bản Hiến pháp kể từ lúc thành lập nước cho đến nay. Bao gồm: Hiến pháp 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Hiến pháp năm 1980 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hiến pháp 2013 - Hiến pháp hiện hành của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mỗi bản Hiến pháp là tấm gương phản chiếu các mối quan hệ xã hội thời kỳ mà nó sinh ra. Do đó, có những tư tưởng, những định chế và những cấu trúc được Hiến định khác nhau. * Tư tưởng lập hiến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trước Cách mạng Tháng tám năm 1945, nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến với chính thể quân chủ chuyên chế không có Hiến pháp. Tuy nhiên vào những năm đầu thế kỷ XX do ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản Pháp 1789, ảnh hưởng của Cách mạng Trung Hoa năm 1911 và chính sách duy tân của Minh Trị thiên hoàng (Nhật), ở Việt Nam đã xuất hiện tư tưởng lập hiến. Có hai khuynh hướng chính trị chủ yếu trong thời gian này là khuynh hướng xây dựng nhà nước quân chủ lập hiến trong sự thừa nhận quyền bảo hộ của Chính phủ Pháp do nhóm Bùi Quang Chiêu, Phạm Quỳnh, Lê Văn Bông chủ xướng. Khuynh hướng thứ hai của những chí sĩ yêu nước như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng... sau này là Nguyễn Ái Quốc với chủ trương giành độc lập, tự do cho dân tộc, tiếp đó sẽ xây dựng Hiến pháp của Nhà nước độc lập. Không có độc lập, không có tự do thì không thể có Hiến pháp thực sự. * Các Hiến pháp Việt Nam. + Hiến pháp 1946 Nhận thức rõ tầm quan trọng của bản hiến văn, ngoài việc là nguồn gốc, cơ sở của các ngành luật khác, còn là một văn bản mang tính hiến chương gần giống như các bản tuyên ngôn độc lập cho Nhà nước, Đảng và Hồ Chủ tịch rất quan tâm đến việc soạn thảo và thông qua Hiến pháp. Chỉ sau ngày tuyên bố độc lập, ngày 3 tháng 9 năm 1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hồ Chủ tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ, trong đó có việc ban hành Hiến pháp. (Bên cạnh đó tình hình quốc tế là sự thất bại của phe phát - xít và sự chiến thắng của phe đồng minh tạo nhiều điệu kiện thuận lợi cho nhà nước ta) Dự thảo Hiến pháp được thông qua tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I ngày 9 tháng 11 năm 1946. Hiến pháp được thông qua thể hiện đúng tư tưởng chỉ đạo của Dảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, trai gái, giai cấp, tôn giáo; Tất cả cho cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, bảo đảm các quyền tự do dân chủ cho nhân dân và xây dựng một chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân. Hiến pháp gồm 7 chương: Chương I nói về chính thể, Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ cộng hòa, một loại hình phổ biến của nhiều nước vừa thóat khỏi ách thống trị của thực dân phong kiến. Chương này hiến văn khẳng định bản chất Nhà nước Việt Nam - Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân Việt Nam; Chương II Hiến pháp đề cập đến nghĩa vụ và quyền lợi cơ bản của công dân; Chương III đến Chương VI Hiến pháp quy định cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước - Nghị viện nhân dân, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban hành chính và Toà án. Do tình hình chiến tranh, cho nên Hiến pháp 1946 chưa được Chủ tịch nước công bố cho toàn dân thực hiện, nhưng dựa trên sự chỉ đạo của Hồ Chủ tịch, tùy tình hình thực tiễn mà tinh thần của các quy định Hiến pháp được thực hiện trên thực tế. + Hiến pháp năm 1959. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, miền Bắc tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, miền Nam tiếp tục hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ. Hiến pháp 1946, theo nhận định của Đảng, đã hoàn thành sứ mạng của mình. Vì vậy với tình hình mới cần phải có một bản Hiến pháp mới. Hiến pháp năm 1959 được Quốc hội khóa I kỳ họp thứ 11 ngày 31/12/1959 thông qua, gồm 10 chương chia làm 112 điều. Chương I: Quy định chính thể của Nhà nước ta vẫn là Nhà nước dân chủ cộng hòa, tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Bản chất của Nhà nước ta là “Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng của liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”. So với Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 có thêm chương nói về chế độ kinh tế và xã hội - chương II. Điều 9 của chương này quy định: “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tiến dần từ chủ thể dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, và kỹ thuật khoa học tiên tiến”. Chương III, Hiến pháp 1959 quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân . Chương IV đến chương VIII, Hiến pháp quy định về cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước. + Hiến pháp năm 1980. Sau chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp 1959 hoàn thành nhiệm vụ của mình, đất nước chúng ta lại cần một bản Hiến pháp mới - Hiến pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Hiến pháp 1980 được Quốc hội khóa VI kỳ họp thứ 7 ngày 18/12/1980. Hiến pháp này gồm 12 chương có 147 điều. Chương I, Hiến pháp quy định chế độ chính trị của nước ta là: “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước chuyên chính vô sản. Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước, đó là thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động, động viên và tổ chức nhân dân tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng; cách mạng về quan hệ sản xuất; cách mạng khoa học kỹ thuật: cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật làm then chốt, tiến hành xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội tiến tới chủ nghĩa cộng sản”. Chương II, Hiến pháp quy định chế độ kinh tế. Chương III, Hiến pháp quy định chính sách văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ. Từ chương IV cho đến chương X, Hiến pháp quy định tổ chức bộ máy Nhà nước. Cũng như Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 chứa đựng nhiều quy định của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp và những nhận thức cũ của chúng ta về chủ nghĩa xã hội. + Hiến pháp năm 1992. Sau một thời gian phát huy hiệu lực, nhiều quy định của Hiến pháp 1980 đã tỏ ra không còn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã hội đất nước. Tình hình thực tiễn của đất nước đòi hỏi phải có một bản Hiến pháp mới, phù hợp hơn để thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, nâng cao đời sống của người dân. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã mở ra một thời kỳ đổi mới ở nước ta. Đảng chủ trương nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện những sai lầm của Đảng, của Nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tư duy độc lập, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân lao động, trên cơ sở đó để có những nhận thức mới đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và vạch ra những chủ trương, chính sách mới nhằm xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng và văn minh. Hiến pháp 1992 gồm lời nói đầu và 147 điều chia làm 12 chương. Chương I: Chương về chế độ chính trị, xác định những nguyên tắc cơ bản của tổ chức quyền lực chính trị Nhà nước của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam, nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc bầu cử... Khác với Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 không dùng thuật ngữ “Nhà nước chuyên chính vô sản” mà dùng thuật ngữ “Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Việc thay đổi thuật ngữ này không làm thay đổi bản chất Nhà nước mà chỉ để làm rõ bản chất Nhà nước “của dân, do dân và vì dân” của Nhà nước ta, phù hợp với chính sách đoàn kết các dân tộc, các tầng lớp trong xã hội và phù hợp với xu thế của quốc tế và thời đại. Ngoài ra Hiến pháp 1992 còn quy định một đường lối đối ngoại rộng mở, thực hiện chính sách hòa bình hữu nghị, tăng cường giao lưu hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi, tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới, vì độc lập, hòa bình dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chính sách đối ngoại đúng đắn và phù hợp với thời đại của Hiến pháp 1992 đã tạo tiền đề cho những thắng lợi lớn của nước ta trong lĩnh vực hợp tác kinh tế với ngoài. Chương II: Chương về chế độ kinh tế, đây là chương được thay đổi một cách cơ bản nhất, thể hiện rõ quan điểm đổi mới của đảng và Nhà nước ta. Hiến pháp xác định đường lối phát triển kinh tế của nước là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích chính sách kinh tế là làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới. Như vậy, với Hiến pháp 1992, chúng ta đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế: Nhà nước, tập thể, cá thể, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước. Hiến pháp đã xác định sự bình đẳng của các thành phần kinh tế trước pháp luật, hơn nữa nhà nước còn khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam. Nhà nước đảm bảo quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Ví dụ: Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng như tài sản hợp pháp của các cá nhân, tổ chức khác không bị quốc hữu hóa (Điều 23, Điều 25). Chương III: Chương về văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ. Chương IV: Chương bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Về cơ bản, chương này quy định giống như Hiến pháp 1980 là xác định đường lối quốc phòng toàn dân. Tuy nhiên Hiến pháp 1992 còn quy định bổ sung thêm về nhiệm vụ xây dựng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, dựa vào nhân dân và làm nòng cốt cho phong trào nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội (Điều 47). Chương V: Chương về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. So với Hiến pháp 1980, chương này có nhiều điều hơn (có 34 điều, Hiến pháp 1980 có 28 điều ), nhiều quyền và nghĩa vụ được sửa đổi và bổ sung. Hiến pháp 1992 lần đầu tiên quy định “các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng” (Điều 50), với quy định này, người không có quốc tịch cũng được Nhà nước ta tôn trọng và bảo vệ cá quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Đặc biệt quyền tự do kinh doanh của công dân cũng lần đầu được xác lập (Điều 57). Đây là một trong những chìa khóa quan trọng để mở cánh cửa tự do trong lĩnh vực hoạt động kinh tế của công dân, ngoài ra công dân còn có quyền sở hữu “về tư liệu sản xuất, vốn và tài sản trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác” (Điều 58). Những quy định này hơn bao giờ hết tạo điều kiện thuận lợi cho người dân có được cuộc sống ổn định, trên cơ sở đó làm giàu cho xã hội. Ngoài việc thiết lập các quyền mới, Hiến pháp còn sửa đổi một số quy định về quyền của công dân không còn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và không có tính khả thi. Chương VI: Quốc hội, xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Quốc hội. Về cơ bản nội dung quyền hạn giống như Hiến pháp 1980 quy định, tuy nhiên có một số bổ sung về quyền hạn của Quốc hội như quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, quyết định chính sách dân tộc của Nhà nước, quyết định trưng cầu ý dân (Điều 48). Nhìn chung nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội thể hiện trên bốn lĩnh vực: + Lập hiến và lập pháp. + Quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước . + Xây dựng, củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. + Thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước. Về cơ cấu tổ chức của Quốc hội theo Hiến pháp mới có một số thay đổi nhất định: bỏ chế định Hội đồng nhà nước vừa là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, vừa là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khôi phục lại chế định Ủy ban thường vụ Quốc hội và chế định Chủ tịch nước như Hiến pháp 1959. Theo Hiến pháp 1992, Chủ tịch và các Phó chủ tịch Quốc hội đồng thời là Chủ tịch và các Phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội. Một số thành viên của các Hội đồng, uỷ ban của Quốc hội làm việc theo chế độ chuyên trách (Điều 94, Điều 95) để đề cao hơn nữa vai trò của đại biểu Quốc hội. Chương VII: Chương Chủ tịch nước, giống như Hiến pháp 1959 chế định Chủ tịch nước được qui định thành một chế định riêng rẽ. So với chế định Chủ tịch nước trong các Hiến pháp trước đây, chế định Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1992 có nhiều điểm khác biệt. Hiến pháp 1946, Chủ tịch nước vừa là người đứng đầu nhà nước vừa là người đứng đầu Chính phủ nên quyền hạn rất lớn. Hiến pháp 1959 quy định Chủ tịch nước chỉ đứng đầu nhà nước chứ không đứng đầu Chính phủ nhưng quyền hạn của Chủ tịch nước vẫn rất lớn vì “của xét thấy cần thiết, có quyền tham dự và chủ toạ các phiên họp của Hội đồng Chính phủ “ (Điều 66). Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1980 không phải là cá nhân mà là là Chủ tịch tập thể. Nhưng thể chế Chủ tịch tập thể bộc lộ nhiều nhược điểm như không nhanh nhạy, không linh hoạt và khó khăn trong việc đối ngoại. Vì thế Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1992 có quyền hạn không rộng như Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 mà chủ yếu mang tính đại diện, biểu trưng cho dân tộc. Chương VIII: Chính phủ, cũng như cơ quan “Hội đồng Chính phủ“ theo Hiến pháp 1959, Chính phủ theo Hiến pháp 1992 được qui định là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan nhà nước hành chính cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nếu so sánh cả bốn bản Hiến pháp , chúng ta thấy quan niệm về tính chất của Chính phủ có nhiều thay đổi nhất định. Hiến pháp 1946 quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của nghị viện. Hiến pháp 1980 xây dựng Chính phủ (Hội đồng Bộ trưởng) theo mô hình Hiến pháp xã hội chủ nghĩa nhưng với quan điểm quyền lực nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc hội. Quốc hội cơ quan quyền lực cao nhất, thống nhất các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và giám sát. Các cơ quan nhà nước khác do Quốc hội lập ra để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội. Hiến pháp 1992 kế thừa Hiến pháp 1959 xây dựng theo quan điểm quyền lực nhà nước vẫn tập trung thống nhất nhưng cần phải có sự phân chia chức năng giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền trên. Vì vậy Hiến pháp 1992 quy định “Chính phủ lá cơ quan chấp hành cho cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam“, nhờ vậy Chính phủ có thể hoạt động một cách độc lập tương đối trong lĩnh vực hành chính nhà nước. Cách thức thành lập Chính phủ theo Hiến pháp 1992 hoàn toàn khác với Hiến pháp 1980. Hiến pháp 1992 chí có Thủ tướng Chính phủ là do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước, còn các phó Thủ tướng, các bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ sẽ được Quốc hội phê chuẩn theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ. Như vậy, Hiến pháp 1992 đề cao vai trò của Thủ tướng Chính phủ trong việc thành lập Chính phủ. Có thể nói rằng đây là phương pháp hữu hiệu để xây dựng một chính quyền hành pháp mạnh mẽ. Việc tăng cường vai trò của người đứng đầu Chính phủ còn thể hiện ở việc tăng thêm nhiều quyền hạn cho Thủ tướng Chính phủ mà trước đây các Hiến pháp 1959, 1980 không quy định. Chương IX: Chương về Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Theo Hiến pháp 1992, nước ta chia làm ba đơn vị hành chính: tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã; xã, phường và thị trấn. Ở tất cả các đơn vị hành chính nói trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Tính chất của Hội đồng nhân dân vẫn như cũ là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra nhưng Hiến pháp mới nhấn mạnh tính đại diện của Hội đồng nhân dân hơn, làm cho Hội đồng nhân dân thực sự trở thành cơ quan có nhà nước quan trọng đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân lao động. Theo quy định của Hiến pháp 1992, quyền hạn của Chủ tịch Ủy ban nhân dân được tăng cường. Một số quyền hạn trước đây thuộc tập thể Ủy ban nhân dân, nay chuyển cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân ( xem Điều 124 ). Hiến pháp mới đề cao hơn nữa vai trò của các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng trong quản lý nhà nước và xã hội. Theo quy định của Hiến pháp mới, có thể nói nhiệm vụ của toà án và Viện kiểm sát nhân dân không có gì thay đổi so với Hiến pháp 1980. Về tổ chức hệ thống cơ quan toà án được qui định tại Điều 127 - Hiến pháp 1992 và được cụ thể hóa bằng Luật tổ chức toà án nhân dân năm 1992, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật tổ chức toà án nhân dân năm 1993, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật tổ chức toà án nhân dân năm 1995. Theo quy định của các văn bản pháp luật trên, nước ta có các toà án sau đây: - Toà án nhân dân tối cao; - Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; - Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã , thành phố thuộc tỉnh; - Toà án quân sự . - Các toà án khác do luật định. Trước năm 1992 trong hệ thống toà án nhân dân ở nước ta chỉ có toà hình sự và toà dân sự. Đến nay trong hệ thống toà án cấp trung ương và cấp tỉnh còn có thêm toà lao động, toà kinh tế và toà hành chính. Sự khác nhau cơ bản giữa tổ chức toà án nhân dân theo Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 1980 là Hiến pháp 1980 thực hiện chế độ thẩm phán bổ nhiệm. Dựa trên tinh thần của Hiến pháp, luật tổ chức toà án nhân dân 1992 đã quy định chỉ có Chánh án toà án nhân dân tối cao là do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước, còn tất cả các thẩm phán của toà án nhân dân các cấp kể cả Phó chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức (Điều 38). Nhiệm kỳ bổ nhiệm của các thẩm phán là 5 năm. Còn đối với các hội thẩm nhân dân thì kết hợp giữa chế độ cử và chế độ bầu. Về nguyên tắc xét xử, Hiến pháp 1992 ghi nhận lại những nguyên tắc đã quy định trong Hiến pháp 1980. Về Viện kiểm sát nhân dân, Hiến pháp 1992 cũng xác định tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn như trước đấy nhưng về tổ chức và trách nhiệm cũng có những thay đổi và bổ sung nhất định. Theo quy định của Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 cụ thể hóa quy định của Hiến pháp thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Ủy ban kiểm sát. Một số vấn đề trước đây do các Viện trưởng quyết định thì nay chuyển sang cho Ủy ban kiểm sát (xem Điều 28, 30 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992). Ngoài ra còn có quy định mới về việc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về tình hình thi hành luật ở địa phương và trả lời chất vấn của đại diện Hội đồng nhân dân (Điều 140 - Hiến pháp 1992). Các qui định trên đây về Viện kiểm sát nhân dân cho thấy Hiến pháp 1992 một mặt vẫn đề cao chế độ làm việc theo nguyên tắc thủ trưởng và trực thuộc một chiều để đề cao tính độc lập của Viện kiểm sát nhân dân, mặt khác phải kết hợp nguyên tắc này với chế độ bàn bạc tập thể khi Viện kiểm sát nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng. Đồng thời Hiến pháp 1992 cũng quy định sự giám sát của Quốc hội cũng như Hội đồng nhân dân các cấp đối với hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Chương XI: Quy định về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh. Chương này về cơ bản giữ nguyên các qui định của Hiến pháp 1980, chỉ bổ sung thêm về việc quy định ngày Quốc khánh của nước ta là ngày 2/9 - ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Chương XII: Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp là chương cuối cùng, nội dung chương này hoàn toàn giống quy định của Hiến pháp 1980. Tóm lại, Hiến pháp 1992 đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của lịch sử lập hiến Việt Nam. Đây là bản Hiến pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới toàn diện và sâu sắc về kinh tế, từng bước và vững chắc về chính trị. Đây là bản Hiến pháp kế thừa có chọn lọc những tinh hoa của các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, đồng thời là bản Hiến pháp vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Hiến pháp 1992 đánh dấu sự phục hưng và phát triển của nền tảng kinh tế của xã hội Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ. Được ban hành trong tình hình thế giới đang có những biến động nhanh chóng, phức tạp, trước sự đổ vỡ của nhiều nước xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện công cuộc đổi mới mặc dù đã dành được một số thắng lợi, nhưng còn rất nhiều khó khăn, Hiến pháp 1992 là biểu hiện sự đồng tâm, nhất trí cao độ của Đảng và nhân dân ta trong việc tiếp tục con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngoài ra, đây còn là bản Hiến pháp thể hiện sự độc lập và tự chủ trên tiến trình phát triển của nền triết học pháp quyền Việt Nam, một nền triết học pháp quyền thể hiện bản sắc dân tộc, đồng thời kết hợp nhuần nhuyễn với tính quốc tế và hiện đại trên cơ sở phát triển những tinh hoa của nền văn hóa pháp lý Việt Nam và sự tiếp thu những tinh hoa văn hóa pháp lý thế giới. * Tư tưởng xuyên suốt lịch sử lập hiến Việt Nam. Qua bốn bản Hiến pháp nêu trên đều thể hiện rõ tư tưởng sau đây: - Xuất phát từ bài học giành độc lập đầy gian khổ và hy sinh, các bản Hiến pháp của Nhà nước ta đều khẳng định rõ: Nhà nước ta là Nhà nước độc lập có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời. - Các Hiến pháp của nước ta đều khẳng định bản chất Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. - Việc tổ chức quyền lực Nhà nước theo nguyên tắc tập quyền không phân chia theo quan điểm “tam quyền phân lập” của các nhà nước tư bản. Quyền lực nhà nước tập trung vào Quốc hội nhưng vẫn có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan tạo thành hệ thống thống nhất các cơ quan nhà nước. - Việc tổ chức quyền lực nhà nước luôn luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản - Đảng của liên minh giai cấp công nhân, nông dân, trí thức, được tổ chức dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. - Càng ngày Hiến pháp Việt Nam càng thể hiện xu thế có tính quy luật, mở rộng quyền dân chủ của nhân dân. CHƯƠNG 2 SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HIẾN PHÁP TRONG LỊCH SỬ 2.1 Sự phát triển của hiến pháp trong xã hội tư sản. Hiến pháp xã hội chủ nghĩa và hiến pháp các nước tư bản chủ nghĩa về nguyên tắc đều có nhu cầu quy định một chế độ chính trị dân chủ, mà ở đó quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, chống lại nhà nước của chế độ phong kiến, trong đ ó mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhà vua. Nhưng khái niệm nhân dân của chế độ xã hội chủ nghĩa khác với nhân dân của chế độ tư bản. Nếu như nhân dân của chế độ tư bản ngay từ thuở ban đầu chỉ bao gồm những người đàn ông da trắng có của – số ít, đại đa số người dân da màu, phụ nữ và những người không có của phải sống phụ thuộc bị tước bỏ quyền con người và quyền công dân, thì ngay từ những ngày đầu tiên của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, quyền công dân, lại được quy định cho đa số công dân không phân biệt tài sản, chủng tộc và nam nữ. 1 Hiến pháp tư bản chủ nghĩa trực tiếp hay gián tiếp tuyên bố bảo vệ quyền tư hữu về tư liệu sản xuất, quyền sở hữu tư nhân là thiêng liêng bất khả xâm phạm. Hiến pháp 1956 và 1967 của chế độ cũ Sài Gòn còn tuyên bố "chủ trương hữu sản hoá toàn dân". Tu chính án thứ 15 năm 1870 Hiến pháp Mỹ tuyên bố quyền bình đẳng giữa các màu da Tu chính án thứ 19 năm 1920 Hiến pháp Mỹ tuyên bố quyền bình đẳng giữa các giới tính / Bình đẳng năm nữ Tu chính án thứ 26 năm 1971 Hiến pháp Mỹ tuyên bố quyền bầu cử được rút xuống 18 tuổi. 1 Hiến pháp tư sản thường tập trung nói về ba cơ quan nhà nước trung ương quốc hội (lập pháp), chính phủ (hành pháp) và toà án (xét xử), theo xu hướng công nhận việc áp dụng học thuyết "Tam quyền phân lập", phương thức tổ chức quyền lực có những điểm khác nhau ở từng loại chính thể và biến dạng của chúng. Theo thông lệ, các hiến pháp tư bản đều trực tiếp hoặc gián tiếp tuyên bố nghị viện, cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra là cơ quan có quyền lực nhà nước tối cao. Nhưng trên thực tế không có một cơ chế thực tế nào phản ánh đúng tư tưởng này. Hiến pháp của Cộng hoà liên bang Đức tuyên bố nghị viện Đức là tối cao, sau đó đến Tổng thống và cuối cùng là Chính phủ. Nhưng, thực tế không hoàn toàn như vậy. Chính phủ đứng đầu là Thủ tướng bao giờ cũng có quyền lực nhiều hơn. Do vậy, mà người ta gọi Cộng hoà liên bang Đức là "Cộng hoà thủ tướng". Nhiều tác giả cho rằng cơ chế thực hiện chính quyền nhà nước tư sản trên thực tế khác xa với cơ chế chính quyền được hiến pháp quy định. Giai cấp tư sản vốn là một bộ phận dân cư trong các giai cấp bị áp bức, nên cũng phải gánh chịu ách thống trị của phong kiến chuyên chế. Đồng thời trong lòng xã hội phong kiến, giai cấp tư sản lại là người đại diện cho một phương thức sản xuất mới ra đời và đang lên, rồi dần dần trở thành một giai cấp có địa vị độc lập về kinh tế và nhờ thế, sớm trưởng thành ý thức phản kháng, chống đối chế độ phong kiến đã rệu rã. Giai cấp tư sản đã đứng lên phất ngọn cờ tự do, dân chủ, bình đẳng để tập hợp quần chúng lao động bị áp bức, bóc lột nhằm lật đổ chế độ phong kiến và nền thống trị phản dân chủ. Khẩu hiệu lập hiến đã ra đời trong cuộc vận động đấu tranh này của giai cấp tư sản. Và đây là một yêu cầu tiến bộ phù hợp với đa số các tầng lớp nhân dân đang bị giai cấp phong kiến thống trị. Nội dung của khẩu hiệu lập hiến tư sản thể hiện ở chỗ: yêu cầu xây dựng một bản Hiến pháp là cơ sở pháp lý cơ bản hạn chế quyền hành vô hạn của Vua bằng cách lập ra một cơ quan đại diện quyền lực (Nghị viện) gồm các đại diện do cử tri trực tiếp bầu ra, cùng Vua thực thi quyền lực nhà nước và bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công dân, xoá bỏ chế độ quân chủ, lập ra nền cộng hòa tư sản. Cùng với khẩu hiệu lập hiến, thuyết phân chia quyền lực mà điển hình là thuyết “phân quyền tam lập” của Môngtexkiơ được phổ biến rộng rãi, theo thuyết này quyền lực nhà nước phân chia thành ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp giao cho ba cơ quan khác nhau nắm giữ. Ba cơ quan này vừa độc lập trong việc thực hiện các quyền của mình, vừa chế ước đối trọng lẫn nhau, qua đó tạo nên sự cân bằng quyền lực, tránh sự lạm quyền và nhờ đó các quyền của người dân mới được đảm bảo. Khi đã giành được chính quyền trở thành giai cấp thống trị, giai cấp tư sản sử dụng Hiến pháp để thể chế hóa quyền thống trị của giai cấp mình dưới hình thức các quy định của Hiến pháp về tự do, dân chủ, bình đẳng và cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước theo lối phân quyền. Chính nhờ cách tổ chức quyền lực này mà lợi ích của giai cấp tư sản được bảo đảm. Bởi vì, dưới các quy định ghi nhận các quyền tự do, dân chủ, bình đẳng được nêu cao trong các cuộc cách mạng tư sản đã che đậy được bản chất bóc lột vốn chứa sẵn trong nền thống trị tư sản, hơn nữa việc ghi nhận các quyền tự do, dân chủ mà trước hết là quyền tự do về kinh tế là phù hợp với quan hệ sản xuất tư sản chủ nghĩa. Đồng thời với cơ chế tổ chức nhà nước theo nguyên tắc phân quyền đã tránh được sự lạm quyền, sự can thiệp dễ dãi của các cơ quan chính quyền vào hoạt động kinh doanh vốn được xem là “lĩnh vực tư” - nơi các cá nhân tư sản tự do định đoạt và hạn chế được nguy cơ độc quyền kéo dài của một tập đoàn, một nhóm lực lượng giai cấp mà lợi ích các cá nhân tư sản không thể chấp nhận được. Như vậy, sự xuất hiện và tồn tại của Hiến pháp tư sản có nguồn gốc sâu xa trong các mối quan hệ tư bản chủ nghĩa nhất là quan hệ chính trị, quan hệ kinh tế. Hiến pháp tư sản là công cụ sắc bén của nền chuyên chính tư sản, phục vụ trước hết cho lợi ích của giai cấp tư sản. Với sự ra đời của Hiến pháp tư sản, một chế độ chuyên chính tư sản được xác lập. Nói theo Lênin thì “Mọi cuộc cách mạng tư sản ... cuối cùng, không có gì hơn là quá trình xây dựng một chế độ lập hiến”. Bởi vì, Hiến pháp chính là loại văn bản rất thích hợp mà giai cấp tư sản có thể sử dụng nhằm thể chế hóa quyền thống trị của giai cấp mình dưới hình thức các quy định Hiến pháp về tự do, dân chủ, bình đẳng một cách chung chung và thuần tuý. Trong quá trình phát triển, Hiến pháp tư sản đã trải qua các giai đoạn sau: + Giai đoạn đầu: khi giai cấp tư sản mới giành chiến thắng, Hiến pháp ghi nhận thắng lợi của dân chủ, tuyên bố các quyền công dân, hạn chế quyền của Vua, xoá bỏ và chống lại sự lạm quyền, can thiệp của quyền lực công vào hoạt động kinh doanh. + Giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Mười Nga (1917), khi các giai cấp lao động, trước hết là giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng độc lập về tư tưởng, tổ chức, đã tiến hành đấu tranh chống nền thống trị tư bản thì Hiến pháp tư sản phản ánh sự tương quan lực lượng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản còn nội dung thường dừng lại ở các quy định chung, ngắn, thiếu cụ thể, phạm vi chỉ bó hẹp trong việc ấn định cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nước và một số quyền tự do cá nhân. + Giai đoạn sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, trước ảnh hưởng ngày càng lớn mạnh của phong trào nhân dân trong nước và của nền lập hiến xã hội chủ nghĩa đã có những sửa đổi căn bản, Hiến pháp tư sản đã quy định tương đối đầy đủ các quyền chính trị, kinh tế, xã hội của công dân, xây dựng nhà nước pháp quyền ... Nhìn chung là có nhiều điểm tiến bộ hơn. Tóm lại, mỗi bản Hiến pháp tư sản ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, mang theo những dấu ấn đặc thù của hoàn cảnh đó nhưng về cơ bản, các Hiến pháp tư sản đều thể hiện và bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. 2.2 Sự ra đời và phát triển của hiến pháp xã hội chủ nghĩa Trong việc tổ chức bộ máy nhà nước, các nước xã hội chủ nghĩa phủ nhận học thuyết "tam quyền phân lập", thay cho phân quyền là việc áp dụng nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, tất cả quyền lực nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc hội. Trong công cuộc đổi mới, nhận thức lại chủ nghĩa xã hội, nhiều nhà luật học, chính trị học xã hội chủ nghĩa thừa nhận tư tưởng dân chủ của học thuyết phân quyền. Trong các văn bản chính thức của các nước xã hội chủ nghĩa còn lại vẫn tuyên bố việc tuân thủ nguyên tắc tập quyền, nhưng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước XHCN phải có sự phân công, phân nhiệm rạch ròi với nhau tránh chồng chéo lên nhau. "Hệ thống kìm chế đối trọng" của Hến pháp Mỹ, cho đến nay vẫn chưa được các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và hiện nay thừa nhận. - Nếu như hiến pháp của các nước tư bản không quy định vai trò của các đảng phái chính trị, trong khi chúng có vị trí rất quan trọng trong cơ chế quyền lực nhà nước tư sản, thì trong hiến pháp của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và còn lại hiện nay ghi nhận (quy định) vai trò lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội của đảng Cộng sản. Về đối tượng điều chỉnh: so với hiến pháp của các nước xã hội chủ nghĩa, hiến pháp của các nước tư sản có đối tượng điều chỉnh hẹp hơn, và thường không có quy định mang tính cương lĩnh. Đối tượng điều chỉnh của hiến pháp xã hội chủ nghĩa không chỉ hạn hẹp như của hiến pháp tư bản chủ nghĩa. Ngoài việc quy định các mối quan hệ có liên quan đến việc tổ chức quyền lực nhà nước, hiến pháp các nước XHCN còn quy định các mối quan hệ xã hội khác liên quan đến việc tổ chức xã hội: chế độ kinh tế văn hoá, an ninh, quốc phòng.... Chính vì vậy, không ít học giả cho rằng hiến pháp xã hội chủ nghĩa là hiến pháp của xã hội. Khác với hiến pháp tư sản, hiến pháp xã hội chủ nghĩa còn quy định nhiều mục tiêu phấn đấu của toàn xã hội, làm cho hiến pháp mang tính cương lĩnh. Tính cương lĩnh trong hiến pháp XHCN là tính chất được nhiều người thừa nhận. Chính việc mở rộng đối tượng điều chỉnh của hiến pháp xã hội chủ nghĩa, tính cương lĩnh đã làm cho tính bền vững và hiệu lực pháp lý của hiến pháp suy giảm. Chủ nghĩa xã hội và Hiến pháp có mối quan hệ khăng khít với nhau, do bắt nguồn từ bản chất của chế độ xã hội từ những điều kiện chính trị, kinh tế, ý thức hệ của chủ nghĩa xã hội và cũng chính từ những giá trị xã hội của Hiến pháp với tính cách là một nguồn pháp luật đặc thù, vốn mang trong mình những đặc trưng ít thấy ở những nguồn pháp luật khác. Việc xây dựng một chế độ xã hội mới với một nền kinh tế có sự điều tiết của nhà nước; một chính quyền nhà nước và một cơ cấu sinh hoạt cộng đồng được tổ chức trên nền tảng dân chủ, đảm bảo lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động tất yếu đề ra yêu cầu thể chế hóa mọi mặt đời sống xã hội thành những chế định, những thể chế cơ bản xác lập và bảo đảm một trật tự kỷ cương cần thiết cho sự phát triển. Mác, Ăngghen, Lênin trên cơ sở phê phán toàn diện nền lập hiến tư sản đã chỉ rõ sự thắng lợi của cách mạng vô sản có nghĩa là sự thủ tiêu nhà nước và pháp luật tư sản và sự xác lập một cơ sở lập hiến cho toàn bộ đời sống xã hội. Ngày 10/7/1918, tức là tám tháng sau khi Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười thắng lợi và nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ra đời, Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội nhà nước liên bang Nga, bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên được ban hành, mở đầu một giai đoạn phát triển mới của nền lập hiến thế giới. Trước Hiến pháp 1918, chính quyền Xô Viết đã ban hành một loạt các sắc lệnh như Sắc lệnh về ruộng đất, Sắc lệnh thành lập Chính phủ ... Những văn bản này đã thực sự dọn đường cho sự ra đời một kiểu Hiến pháp mới. Hiến pháp gồm 17 chương, 6 phần và 90 điều, được mở đầu bằng Tuyên ngôn về các quyền của nhân dân lao động bị áp bức. Hiến pháp ghi nhận sự củng cố nền chuyên chính của giai cấp vô sản được thiết lập do kết quả thắng lợi của Cách mạng tháng Mười dưới hình thức Cộng hòa Xô Viết, quy định các quyền dân chủ và các nghĩa vụ của công dân, quy định hình thức liên bang của Cộng hòa Liên bang Nga và quy định hệ thống các cơ quan nhà nước Xô Viết. Hiến pháp 1918 đánh dấu một bước ngoặt trong sự phát triển Hiến pháp nói chung. Đánh giá ý nghĩa của Hiến pháp 1918, Lênin viết: “... Đó là bản Hiến pháp đầu tiên tuyên bố chính quyền nhà nước của nhân dân lao động, hủy bỏ quyền của bọn bóc lột, những kẻ chống đối xây dựng một cuộc sống mới.” Theo mô hình của Hiến pháp này, các nước Cộng hòa Xô Viết khác cũng lần lượt thông qua Hiến pháp của mình trong những năm 1919 - 1922. Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết (Liên Xô) được thành lập năm 1922, vì thế cần thiết phải xây dựng một bản Hiến pháp chung cho Liên Xô. Hơn một năm sau, vào năm 1924 bản Hiến pháp Liên Xô đầu tiên được thông qua, Hiến pháp ghi nhận và củng cố việc hợp nhất trên cơ sở tự nguyện của các nước Cộng hòa Xô Viết thành một nhà nước liên bang, phân định các quyền của liên bang và các nước cộng hòa, thiết lập cơ cấu hệ thống các cơ quan nhà nước tối cao ở liên bang và ở các nước cộng hòa, vạch ra con đường phát triển hơn nữa của các dân tộc ở Liên Xô tiến lên chủ nghĩa xã hội. Bản Hiến pháp thứ ba của Liên Xô được thông qua năm 1936, đây là bản Hiến pháp ghi nhận thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, ghi nhận quyền lực thuộc về nhân dân lao động thông qua các Xô viết đại biểu nhân dân lao động. Sau này Liên Xô có Hiến pháp thứ tư - Hiến pháp 1977 ghi nhận sự thắng lợi triệt để của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, tuyên bố bước vào xây dựng nhà nước toàn dân. Tuy nhiên, công cuộc cải tổ thiếu phương pháp đã dẫn đến sự sụp đổ của chế độ Xô viết đầu những năm 1990. Từ những năm này, cũng như ở Liên Xô chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu sụp đổ, Hiến pháp xã hội chủ nghĩa bị bãi bỏ và thay bằng các Hiến pháp mới. Nhìn lại, trong những năm 1944 - 1945, nhờ sự thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của Liên Xô chống lại chủ nghĩa phát xít và của cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân các nước bị nô dịch, nhiều nhà nước dân chủ nhân dân ở Đông Âu, Châu Á ra đời và đứng vào hàng ngũ các nước xã hội chủ nghĩa. Giai đoạn hai của nền lập hiến xã hội chủ nghĩa bắt đầu bằng việc ban hành các Hiến pháp Bungary (1947), Hungary (1949), Rumani (1948), Ba Lan (1952). Ơí các nước Châu Á, Hiến pháp của các nước dân chủ nhân dân lần lượt ra đời như Hiến pháp Việt Nam (1946), Triều Tiên (1948), Trung Quốc (1954). Đến những năm 1960-1970 các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu chuyển sang một giai đoạn phát triển mới. Ơí đó đã ban hành các Hiến pháp mới thay thế. Bungary có Hiến pháp 1971, Rumani có Hiến pháp 1965, ... Phân loại Hiến pháp. Hiện nay, trên thế giới có khoảng hơn 100 nước có Hiến pháp. Theo tiêu chí khác nhau, Hiến pháp có thể được phân thành nhiều loại: + Hiến pháp thành văn và hiến pháp không thành văn. Hiến pháp thành văn tức là các quy định Hiến pháp được viết thành văn bản nhất định, thống nhất với các tên Hiến pháp, hiến ước, tuyên ngôn hoặc không thống nhất mà bao gồm nhiều văn bản. Dù là một hay nhiều văn bản, các Hiến pháp thành văn có thủ tục thông qua một cách chính thức và được tuyên bố là đạo luật cơ bản của nhà nước. Hiện nay, tuyệt đại đa số các Hiến pháp đều là Hiến pháp thành văn. Hiến pháp không thành văn là Hiến pháp thể hiện trong các quy phạm pháp luật, tập tục truyền thống, thông lệ, án lệ ... Liên quan đến việc tổ chức quyền lực nhà nước. Chúng thường không được quy định thành văn bản riêng và không được tuyên bố hoặc ghi nhận là luật cơ bản của nhà nước. Hiện nay, còn một số ít các nước có loại Hiến pháp này là Anh, New Zealand... Về ý nghĩa, Hiến pháp thành văn có tính long trọng hơn, còn Hiến pháp không thành văn lại thuận tiện hơn ở thủ tục thông qua và sửa đổi. + Hiến pháp cổ điển và hiến pháp hiện đại. Hiến pháp cổ điển là Hiến pháp được ban hành từ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX và những Hiến pháp tuy mới được ban hành gần đây song theo trường phái cổ điển. Trong những điều kiện lúc bấy giờ, các Hiến pháp nói chung là ngắn gọn, có nội dung chủ yếu là các quy định về phân chia quyền lực, ít các quy định về quyền tự do. Một số Hiến pháp cổ để vẫn tiếp tục tồn tại phải bổ sung, chỉnh lý cho phù hợp với tình hình hiện tại. Ví dụ: Hiến pháp Mỹ là Hiến pháp đặc trưng cho Hiến pháp cổ điển, chỉ có 7 điều, tập trung vào việc quy định trình tự thành lập và thẩm quyền của các cơ quan nhà nước ở trung ương như Quốc hội, Tổng thống và Toà án tối cao, mối quan hệ giữa liên bang và các tiểu bang, trình tự sửa đổi Hiến pháp nhưng Hiến pháp Mỹ không hề có điều nào nói về các đảng phái chính trị, mặc dù các đảng phái chính trị chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống chính trị của Mỹ. Ngoài ra Hiến pháp của Vương quốc Na uy năm 1814, Vương quốc Bỉ 1831, Liên bang Thuỵ sĩ 1874... cũng là những Hiến pháp cổ điển. Riêng có một số Hiến pháp như Hiến pháp Aïo năm 1920, Ailen 1937, Thuỵ Điển năm 1932... tuy được ban hành gần đây nhưng nội dung không có gì tiến bộ (hiện đại) hơn những Hiến pháp cổ điển được thông qua trước đó hàng trăm năm. Hiến pháp hiện đại là những Hiến pháp phần lớn được ban hành từ sau chiến tranh thế giới thứ hai với nội dung điều chỉnh được mở rộng. Trước cuộc đấu tranh đòi quyền dân chủ của các tầng lớp nhân dân lao động và cùng với sự ảnh hưởng của các nước xã hội chủ nghĩa mà các Hiến pháp đó ngoài những quy định cổ điển như trước đây về tổ chức bộ máy nhà nước còn chứa đựng nhiều điều khoản có nội dung dân chủ, quy định thêm các quyền tự do của công dân như bầu cử, quyền có việc làm, quyền bình đẳng nam nữ, quyền tham gia quản lý nhà nước... Ví dụ: Các nước có Hiến pháp hiện đại là Pháp (Hiến pháp 1946, 1958), Nhật Bản (1948), CHLB Đức (1949)... Hiến pháp các nước xã hội chủ nghĩa đều thuộc Hiến pháp hiện đại. Xét dưới bình diện là văn bản ghi nhận mối tương quan lực lượng xã hội tồn tại ở thời điểm thông qua Hiến pháp, thì Hiến pháp cổ điển là Hiến pháp ghi nhận mối tương quan lực lượng chính trị - xã hội của giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến; còn Hiến pháp hiện đại là văn bản pháp lý ghi nhận mối tương quan lực lượng xã hội giữa giai cấp thống trị tư sản với một bên là nhân dân lao động. + Hiến pháp nhu tính và hiến pháp cương tính. Hiến pháp nhu tính là Hiến pháp có thủ tục thông qua bình thường như mọi đạo luật và có thể được sửa đổi bởi chính cơ quan lập pháp, theo thủ tục thông qua các đạo luật bình thường. Ví dụ: Hiến pháp của Vương quốc Anh. Hiến pháp cương tính là Hiến pháp được thông qua bởi một cơ quan đặc biệt là Quốc hội lập hiến chứ không phải là cơ quan lập pháp hoặc toàn dân biểu quyết. Thủ tục thông qua hoặc sửa đổi Hiến pháp cũng được quy định chặt chẽ hơn. Chẳng hạn việc thông qua bình thường chỉ cần quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội tán thành thì đối với Hiến pháp phải có 2/3 hoặc 3/4 tổng số đại biểu, hoặc hơn thế nữa sau khi đã được Quốc hội thông qua thì dự án phải được nhân dân bỏ phiếu phúc quyết... + Hiến pháp tư sản và hiến pháp xã hội chủ nghĩa Xét theo bản chất giai cấp, Hiến pháp có thể phân chia thành Hiến pháp tư sản và Hiến pháp xã hội chủ nghĩa. Hiện nay thế giới cũng chỉ tồn tại hai loại Hiến pháp này tương ứng với hai chế độ dân chủ.  Hiến pháp xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm chung sau:  Hiến pháp xã hội chủ nghĩa thiết lập một chính thể mới - chính thể xã hội chủ nghĩa.  Hiến pháp xã hội chủ nghĩa xác nhận rõ tính giai cấp của nhà nước xã hội chủ nghĩa.  Hiến pháp xã hội chủ nghĩa thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng mác-xít.  Hiến pháp xã hội chủ nghĩa ghi nhận, củng cố các cơ sở kinh tế xã hội của xã hội xã hội chủ nghĩa.  Hiến pháp xã hội chủ nghĩa ghi nhận, khẳng định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.  Hiến pháp xã hội chủ nghĩa xác định một cơ cấu tổ chức nhà nước dựa trên nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa và tập trung dân chủ, tức là phủ nhận học thuyết “tam quyền phân lập”.  Hiến pháp xã hội chủ nghĩa là đạo luật cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa.  Hiến pháp tư sản chủ nghĩa có những đặc điểm sau:  Tất cả các Hiến pháp tư sản đều tìm mọi cách để che giấu bản chất giai cấp tư sản, nó luôn thể hiện quyền thống trị của mình dưới khái niệm “chủ quyền nhân dân”.  Tất cả Hiến pháp tư sản đều ghi nhận, củng cố quyền chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất và hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa dưới những hình thức khác nhau.  Hai hình thức chính thể phổ biến thường được các Hiến pháp tư sản ấn định là quân chủ lập hiến (như Anh, Nhật, Thái Lan...) và cộng hòa (như Pháp, Mỹ...). Nhưng dưới hình thức chính thể nào thì cũng là sự thể hiện quyền thống trị của giai cấp tư sản.  Hiến pháp tư sản thường có một số quy định nhắm bảo đảm cho Hiến pháp được thực hiện. Trung tâm của những bảo đảm này là hoạt động của Toà án Hiến pháp hay Hội đồng Hiến pháp.  Hiến pháp tư sản thường thể hiện với những biến dạng khác nhau nguyên tắc “phân chia quyền lực “ và quy định một cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước bảo đảm quyền thống trị của giai cấp tư sản, tìm mọi cách loại trừ, hạn chế sự tham gia của nhân dân vào việc thực hiện quyền lực nhà nước.  Hiến pháp tư sản đều có ghi nhận các quyền và tự do của công dân trong xã hội tư sản, trước hết là quyền và tự do cá nhân nhưng không phải các quyền và tự do này đương nhiên có được mà đó là thành quả đấu tranh kiên trì, quyết liệt của nhân dân lao động giành quyền sống và quyền tự do. CHƯƠNG 3 CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ 3.1 Khái niệm chế độ chính trị . Chế độ chính trị là một tổng hợp các yếu tố như hệ tư tưởng, các tổ chức hành chính và xã hội cấu thành nên Nhà nước. Chế độ chính trị biểu hiện bằng tính hợp pháp, cơ cấu của các cơ quan hành chính, đặc điểm các đảng phái chính trị. 3.2 Bản chất của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Nhà nước CHXHCN Việt Nam là một nhà nước dân chủ; - Nhà nước CHXHCN Việt Nam là một nhà nước thống nhất;
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan