Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo trình luật tố tụng dân sự việt nam...

Tài liệu Giáo trình luật tố tụng dân sự việt nam

.PDF
539
14
99

Mô tả:

1 1390-2019/CXBIPH/21-14/CAND 2 TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI Giáo trình (Tái bản lần thứ 19) NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN HÀ NỘI - 2019 3 Chủ biên TS. NGUYỄN CÔNG BÌNH Tập thể tác giả 1. TS. NGUYỄN CÔNG BÌNH Chƣơng I, III, IV, V, VI, X 2. TS. NGUYỄN TRIỀU DƢƠNG Chƣơng XIV 3. TS. LÊ THU HÀ Chƣơng VIII 4. PGS.TS. NGUYỄN THỊ THU HÀ Chƣơng IX 5. PGS.TS. BÙI THỊ HUYỀN Chƣơng XI 6. TS. TRẦN PHƢƠNG THẢO Chƣơng XII 7. TS. HOÀNG NGỌC THỈNH Chƣơng VII 8. PGS.TS. TRẦN ANH TUẤN Chƣơng II 9. PGS.TS. BÙI THỊ HUYỀN & PGS.TS. TRẦN ANH TUẤN Chƣơng XIII 4 LỜI GIỚI THIỆU Luật tố tụng dân sự là ngành luật có vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong chương trình đào tạo đại học của Trường Đại học Luật Hà Nội, môn học luật tố tụng dân sự Việt Nam được xác định là một môn học chuyên ngành cơ bản. Để đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu luật tố tụng dân sự của cán bộ, giảng viên, học viên và các đối tượng khác, Trường Đại học Luật Hà Nội đã tổ chức biên soạn "Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam". Nội dung giáo trình gồm có hai phần: Phần những vấn đề chung về luật tố tụng dân sự và phần thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự. Trong đó, tập thể tác giả đã cố gắng trình bày, lý giải những vấn đề lý luận cơ bản về luật tố tụng dân sự kết hợp với việc giới thiệu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Giáo trình này đã được các nhà khoa học như GS.TS. Lê Minh Tâm, PGS.TS. Đinh Văn Thanh, TS. Đinh Trung Tụng và PGS.TS. Phan Hữu Thư đọc và cho ý kiến. Tuy vậy, do được biên soạn và sửa đổi trong điều kiện hệ thống pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam đang được hoàn thiện, nhiều vấn đề về tố tụng dân sự vẫn còn phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ và 5 chờ sự hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền nên Giáo trình này không tránh khỏi những khiếm khuyết. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý của bạn đọc. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc! TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI 6 BẢNG CHỮ VIẾT TẮT BLDS BLLĐ BLTTDS BPKCTT HĐTPTANDTC LHN&GĐ LLS LSĐBSBLTTDS LTM LTTTM LTCTAND LTCVKSND PLAPLPTA PLKSVVKSND PLTP&HTTAND PLTTGQCVADS PLTTGQCVAKT PLTTGQCTCLĐ TANDTC VKSNDTC Bộ luật dân sự Bộ luật lao động Bộ luật tố tụng dân sự Biện pháp khẩn cấp tạm thời Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Luật hôn nhân và gia đình Luật luật sƣ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự Luật thƣơng mại Luật trọng tài thƣơng mại Luật tổ chức toà án nhân dân Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân Pháp lệnh án phí, lệ phí toà án Pháp lệnh kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân Pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm toà án nhân dân Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động Toà án nhân dân tối cao Viện kiểm sát nhân dân tối cao 7 8 PHẦN THỨ NHẤT NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ CHƢƠNG I KHÁI NIỆM VÀ NGUYÊN TẮC CỦA LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM I. KHÁI NIỆM, ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM 1. Khái niệm luật tố tụng dân sự Việt Nam Quyền và lợi ích của các chủ thể là vấn đề quan trọng, là động lực để các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội. Tuy ở những mức độ khác nhau nhƣng pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều công nhận và bảo hộ quyền, lợi ích chính đáng của các chủ thể. Quyền, lợi ích chính đáng của các chủ thể không trái pháp luật đƣợc Nhà nƣớc bảo vệ đƣợc gọi là quyền, lợi ích hợp pháp. Xã hội là hệ thống các quan hệ đa dạng và phức tạp. Khi tham gia vào các quan hệ xã hội các chủ thể phải thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc một chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật có thể sẽ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác, dẫn đến tranh chấp. Để duy trì trật tự xã hội, Nhà nƣớc thiết lập cơ chế pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức 9 hay chủ thể khác có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để bảo vệ quyền, lợi ích đó nhƣ yêu cầu ngƣời có hành vi trái pháp luật chấm dứt hành vi trái pháp luật, yêu cầu toà án hoặc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Căn cứ vào Điều 2 Luật tổ chức toà án nhân dân (LTCTAND) năm 2014 thì toà án là cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tƣ pháp. Toà án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lí, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, toà án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. Do vậy, khi có chủ thể yêu cầu bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong trƣờng hợp có vi phạm hoặc có tranh chấp thì toà án phải xem xét thụ lí giải quyết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Các vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại và lao động do toà án giải quyết đƣợc gọi là vụ việc dân sự. Trong đó, đối với những việc có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên đƣợc gọi là vụ án dân sự; đối với những việc không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên đƣợc gọi là việc dân sự. Quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự là quá trình phức tạp, bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự, đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, ngƣời làm chứng, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch, ngƣời định giá tài sản, ngƣời thẩm định giá tài sản (sau đây gọi chung là ngƣời định giá tài sản) và những ngƣời có liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự nhƣ cá nhân, cơ quan, tổ chức lƣu giữ các chứng cứ tài liệu của vụ việc dân sự 10 v.v..(1) Các chủ thể này tham gia vào quá trình này với những mục đích, động cơ, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau và giữa họ nảy sinh các quan hệ khác nhau nhƣ quan hệ giữa toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự với đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, ngƣời làm chứng, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch và ngƣời liên quan; quan hệ giữa toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự với nhau và quan hệ giữa các đƣơng sự với ngƣời liên quan. Để bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự và thi hành án dân sự đƣợc nhanh chóng, đúng đắn; bảo vệ đƣợc quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của Nhà nƣớc, pháp luật quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào các quan hệ đó. Trong khoa học pháp lý, trình tự do pháp luật quy định cho việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự đƣợc gọi là “tố tụng dân sự”. Hoạt động của các chủ thể nêu trên tiến hành trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật đƣợc gọi là hoạt động tố tụng dân sự. Tuy vậy, hiện nay vẫn có ý kiến cho rằng hoạt động thi hành án dân sự không phải là hoạt động tố tụng dân sự vì công tác thi hành án dân sự do cơ quan thi hành án dân sự tổ chức.(2) Căn cứ vào phạm vi điều chỉnh của các bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) do Nhà nƣớc ta đã ban hành thì tố tụng dân sự bao gồm khởi kiện, hoà giải, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và thi hành bản án, quyết định của toà án nên thi hành án dân sự phải đƣợc coi là một giai đoạn của tố tụng dân sự. Từ đó, tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự thành ngành luật đƣợc gọi là luật tố tụng dân sự. Từ đó, có thể định nghĩa luật tố tụng dân sự nhƣ sau: (1). Sau đây gọi tắt là ngƣời liên quan. (2).Xem: Viện nghiên cứu khoa học pháp lí, Bộ tƣ pháp, Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nƣớc, 2003, tr. 13; Viện nhà nƣớc và pháp luật, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Những quan điểm cơ bản về Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, 2001, tr. 63. 11 Luật tố tụng dân sự Việt Nam là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự để bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự nhanh chóng, đúng đắn bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của Nhà nước. 2. Đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự Việt Nam Quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự phát sinh nhiều quan hệ khác nhau giữa toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự, đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, ngƣời làm chứng, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch, ngƣời định giá tài sản và ngƣời liên quan. Để thực hiện đƣợc nhiệm vụ của mình, luật tố tụng dân sự Việt Nam đã điều chỉnh các quan hệ này bằng việc quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể khi tham gia quan hệ, buộc các chủ thể phải thực hiện các hành vi tố tụng của mình phù hợp với ý chí của Nhà nƣớc. Từ đó, có thể rút ra kết luận sau: Đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự Việt Nam là các quan hệ giữa toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự, đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người định giá tài sản và người liên quan phát sinh trong tố tụng dân sự. Các quan hệ thuộc đối tƣợng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự Việt Nam bao gồm nhiều loại: - Các quan hệ giữa toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự với đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, ngƣời làm chứng, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch, ngƣời định giá tài sản và ngƣời liên quan; 12 - Các quan hệ giữa toà án, viện kiểm sát và cơ quan thi hành án dân sự với nhau; - Các quan hệ giữa các đƣơng sự với những ngƣời liên quan. Các quan hệ thuộc đối tƣợng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự có đặc điểm chỉ phát sinh trong tố tụng, việc thực hiện mục đích của tố tụng là động lực thiết lập các quan hệ. Ngoài ra, các quan hệ thuộc đối tƣợng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự đa dạng, hình thành giữa các chủ thể có địa vị pháp lý khác nhau. Trong đó, toà án, cơ quan thi hành án dân sự là các chủ thể có vai trò mang tính quyết định đối với quá trình giải quyết vụ việc dân sự và tổ chức thi hành án dân sự. Trong số các quan hệ thuộc đối tƣợng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự thì các quan hệ giữa toà án và các đƣơng sự chiếm đa số bởi toà án và các đƣơng sự là hai chủ thể tố tụng dân sự cơ bản của vụ việc dân sự, ở bất kỳ vụ việc dân sự nào cũng đều phát sinh các quan hệ này. 3. Phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng dân sự Việt Nam Luật tố tụng dân sự là ngành luật cụ thể của hệ thống pháp luật Việt Nam, luật tố tụng dân sự khác các ngành luật khác không chỉ ở đối tƣợng điều chỉnh mà còn ở cả phƣơng pháp điều chỉnh của nó. Phƣơng pháp điều chỉnh của luật tố tụng dân sự là tổng hợp những cách thức mà luật tố tụng dân sự tác động lên các quan hệ thuộc đối tƣợng điều chỉnh của nó. Phƣơng pháp điều chỉnh của luật tố tụng dân sự cũng phụ thuộc vào tính chất và đặc điểm của các quan hệ xã hội thuộc đối tƣợng điều chỉnh của nó nhƣ phƣơng pháp điều chỉnh của các ngành luật khác. Do đối tƣợng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự cơ bản là quan hệ giữa các cơ quan nhà nƣớc có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật nhƣ toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự với những ngƣời tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự nhƣ đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, ngƣời làm chứng, ngƣời 13 giám định, ngƣời phiên dịch nên luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ này bằng hai phƣơng pháp mệnh lệnh và định đoạt. Luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng bằng phƣơng pháp mệnh lệnh thể hiện ở chỗ quy định địa vị của toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự và các chủ thể khác trong tố tụng không giống nhau; các chủ thể khác đều phải phục tùng toà án, viện kiểm sát và cơ quan thi hành án dân sự. Các quyết định của toà án, viện kiểm sát và cơ quan thi hành án dân sự có giá trị bắt buộc các chủ thể tố tụng khác phải thực hiện, nếu không sẽ bị cƣỡng chế thực hiện. Sở dĩ pháp luật tố tụng dân sự quy định nhƣ vậy là xuất phát ở chỗ toà án, viện kiểm sát và cơ quan thi hành án dân sự có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, giải quyết vụ việc dân sự, tổ chức thi hành án dân sự và kiểm sát các hoạt động tố tụng. Để thực hiện đƣợc chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan này phải có những quyền lực pháp lý nhất định đối với các chủ thể tố tụng khác. Do đó, ở các quan hệ do luật tố tụng dân sự điều chỉnh không có sự bình đẳng giữa toà án, viện kiểm sát và cơ quan thi hành án dân sự với các chủ thể khác. Tuy vậy, ngoài phƣơng pháp mệnh lệnh, luật tố tụng dân sự còn điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng bằng phƣơng pháp định đoạt vì các quan hệ pháp luật nội dung toà án có nhiệm vụ giải quyết trong các vụ việc dân sự là các quan hệ dân sự, kinh doanh, thƣơng mại, lao động, hôn nhân và gia đình. Các chủ thể của các quan hệ này có quyền tự quyết định quyền lợi của mình khi tham gia vào các quan hệ đó. Trong vụ việc dân sự, các chủ thể đó là đƣơng sự. Do vậy, để bảo đảm quyền tự quyết định quyền lợi của các đƣơng sự trong tố tụng, luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ giữa toà án với các đƣơng sự phát sinh trong quá trình tố tụng bằng phƣơng pháp định đoạt. Theo đó, các đƣơng sự đƣợc tự quyết định việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ trƣớc toà án. Khi có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay tranh chấp các đƣơng sự tự quyết định việc khởi kiện, yêu cầu toà án giải quyết vụ việc. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành 14 án dân sự, các đƣơng sự vẫn có thể thƣơng lƣợng, dàn xếp, thoả thuận giải quyết những vấn đề tranh chấp, rút yêu cầu, rút đơn khởi kiện, tự thi hành án hoặc không yêu cầu thi hành án nữa. Như vậy, luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình tố tụng bằng hai phƣơng pháp mệnh lệnh và định đoạt. Trong đó, phƣơng pháp điều chỉnh chủ yếu nhất là phƣơng pháp mệnh lệnh. II. NHIỆM VỤ VÀ NGUỒN CỦA LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM 1. Nhiệm vụ của luật tố tụng dân sự Việt Nam Pháp luật là công cụ pháp lý để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong đời sống xã hội, bảo đảm cho xã hội ổn định và phát triển. Đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc đƣợc đƣa vào cuộc sống một phần là nhờ các quy định của pháp luật. Đảng và Nhà nƣớc ta chủ trƣơng đẩy mạnh phát triển kinh tế, phát huy dân chủ, tăng cƣờng kỷ cƣơng, xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa làm cho dân giàu, nƣớc mạnh thì pháp luật càng có vai quan trọng. Là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, với chức năng là điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự, luật tố tụng dân sự Việt Nam có nhiệm vụ bảo đảm thực hiện những nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Nhà nƣớc ta đã đề ra. Hiện tại, nhiệm vụ của luật tố tụng dân sự Việt Nam đã đƣợc quy định trong nhiều văn bản pháp luật tố tụng dân sự. Tại Điều 1 BLTTDS năm 2015 quy định: “Bộ luật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để toà án nhân dân (sau đây gọi là toà án) giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để toà án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự); trình tự, thủ tục giải 15 quyết vụ án dân sự, việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự) tại toà án... nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật. Bộ luật tố tụng dân sự bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật”. Theo quy định này thì luật tố tụng dân sự Việt Nam có những nhiệm vụ cơ bản sau đây: Thứ nhất, thể chế hoá quan điểm, đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc ta về cải cách hành chính, cải cách tƣ pháp. Để không ngừng nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ việc dân sự, đáp ứng đƣợc những yêu cầu mới của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong giai đoạn hiện nay luật tố tụng dân sự Việt Nam phải thể chế hoá đƣợc quan điểm, đƣờng lối của Đảng trong Nghị quyết của Bộ chính trị số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020; Kết luận của Bộ chính trị số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 v.v.. Bên cạnh đó, luật tố tụng dân sự Việt Nam cũng phải thể chế hoá đƣợc quan điểm, đƣờng lối của Đảng trong các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Thứ hai, quy định quy trình tố tụng dân sự thật sự khoa học làm cho các hoạt động giải quyết vụ việc dân sự, thi hành án dân sự và tham gia tố tụng dân sự của các chủ thể tố tụng có nhiều thuận lợi. Bên cạnh đó, cũng tạo ra đƣợc cơ chế kiểm sát, giám sát hoạt động tuân theo pháp luật trong quá trình tố tụng dân sự có hiệu quả, bảo đảm các hoạt động tố tụng dân sự tiến hành đƣợc đúng đắn. Qua đó, bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự và thi hành án dân sự đƣợc nhanh chóng, chính xác, công minh, đúng pháp luật và bảo đảm đƣợc quyền bảo vệ của đƣơng sự trong tố tụng dân sự. 16 Thứ ba, bảo đảm cho toà án xử lý đƣợc nghiêm minh các hành vi trái pháp luật; bảo đảm việc thi hành đƣợc các bản án, quyết định dân sự của toà án. Trên cơ sở đó, ngăn chặn và khắc phục kịp thời hậu quả của các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ đƣợc lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức đồng thời giáo dục đƣợc mọi ngƣời nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Ngoài các nhiệm vụ cơ bản trên, luật tố tụng dân sự Việt Nam còn có nhiệm vụ bảo đảm phát huy dân chủ trong tố tụng dân sự; tạo điều kiện cho mọi ngƣời đóng góp đƣợc nhiều sức lực và trí tuệ vào các công việc của Nhà nƣớc và xã hội. Trong đó, có cả việc giải quyết các vụ việc dân sự và thi hành án dân sự. 2. Nguồn của luật tố tụng dân sự Việt Nam Trong tiếng Việt, thuật ngữ “nguồn” đƣợc hiểu là nơi bắt đầu, nơi phát sinh ra hoặc nơi có thể cung cấp hay rút ra cái gì, điều gì.(1) Nguồn luật đƣợc hiểu là nơi rút ra các quy tắc xử sự của các chủ thể trong xã hội do Nhà nƣớc quy định. Các văn bản pháp luật là một trong những hình thức thể hiện ý chí của Nhà nƣớc trong quản lý xã hội nên đƣợc coi là nguồn luật cơ bản. Nguồn của luật tố tụng dân sự Việt Nam bao gồm các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành có chứa đựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự, ngƣời tham gia tố tụng và ngƣời liên quan phát sinh trong tố tụng dân sự. Các văn bản pháp luật là nguồn của luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay bao gồm nhiều loại nhƣ Hiến pháp, BLTTDS, LTCTAND, Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân (LTCVKSND) và các văn bản pháp luật khác. - Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nƣớc, quy định về chế (1).Xem: Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2003, tr. 692. 17 độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc, thể chế hoá mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ và nhà nƣớc quản lý. Các văn bản pháp luật khác đƣợc nhà nƣớc ban hành nhằm cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp. Hiến pháp là một nguồn quan trọng của luật tố tụng dân sự. Trong Hiến pháp có nhiều quy định về nguyên tắc của hoạt động tố tụng dân sự nhƣ quy định về hoạt động xét xử của toà án có hội thẩm nhân dân tham gia; thẩm phán, hội thẩm nhân dân khi xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; toà án xét xử công khai, xét xử tập thể và quyết định theo đa số (Điều 103) v.v.. Trên cơ sở những quy định này của Hiến pháp, các văn bản pháp luật tố tụng dân sự quy định cụ thể trình tự, thủ tục tố tụng dân sự. - BLTTDS là nguồn chủ yếu nhất và quan trọng nhất của luật tố tụng dân sự. Trong các văn bản pháp luật tố tụng dân sự thì BLTTDS là văn bản pháp luật tố tụng dân sự có hiệu lực cao nhất, có phạm vi điều chỉnh rộng nhất, quy định trực tiếp và có hệ thống về tất cả các vấn đề của tố tụng dân sự. - LTCTAND và LTCVKSND chủ yếu quy định về tổ chức của toà án, viện kiểm sát. Tuy vậy, trong LTCTAND, LTCVKSND cũng có nhiều quy định về nguyên tắc hoạt động của toà án, viện kiểm sát trong tố tụng dân sự nên các văn bản pháp luật này cũng là một trong các nguồn của luật tố tụng dân sự Việt Nam. - Pháp lệnh án phí, lệ phí toà án (PLAPLPTA) quy định về các loại án phí, lệ phí, nguyên tắc thu nộp án phí lệ phí v.v.. - Các văn bản pháp luật khác nhƣ Bộ luật dân sự (BLDS), Bộ luật lao động (BLLĐ), Luật hôn nhân và gia đình (LHN&GĐ), Luật thƣơng mại (LTM), Luật trọng tài thƣơng mại (LTTTM) v.v. tuy không phải là các văn bản tố tụng dân sự nhƣng vẫn có những quy định về tố tụng dân sự. Ngoài ra, Nghị quyết của Quốc hội số 18 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 về việc thi hành BLTTDS, Nghị quyết của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí toà án, Nghị quyết của HĐTP TANDTC số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 hƣớng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành BLTTDS và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật tố tụng hành chính; Thông tƣ liên tich số 02/2016/TTLTTANDTC-VKSNDTC ngày 31/8/2016 của TANDTC và VKSNDTC quy định việc phối hợp giữa VKSND và TAND trong việc thi hành một số quy định của BLTTDS v.v.. cũng là một trong các nguồn của luật tố tụng dân sự Việt Nam. III. SƠ LƢỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM 1. Giai đoạn trước năm 1945 Trƣớc thời Pháp thuộc, do nền kinh tế phong kiến lạc hậu, kém phát triển nên pháp luật cũng chƣa phát triển. Trong các văn bản pháp luật đƣợc ban hành chƣa có sự phân biệt rõ các lĩnh vực về hành chính, dân sự, hình sự và tố tụng. Qua các văn bản pháp luật còn lƣu giữ đến ngày nay cho thấy các quy định về tố tụng dân sự của nhà nƣớc phong kiến chịu ảnh hƣởng rất lớn của quan điểm nho giáo, ghi nhận cả những hủ tục, tập quán lạc hậu nhƣ hạn chế quyền đi kiện của con cháu đối với ông, bà, cha, mẹ; vợ đối với chồng (từ Điều 504 đến Điều 511 Quốc triều hình luật); không cho mƣợn ngƣời đi kiện thay, nếu ai tự tiện mƣợn ngƣời đi kiện thay thì ngƣời mƣợn và ngƣời đi kiện thay phải chịu hình phạt nhƣ nhau, bị xử đánh roi, xích sắt khoá lại bắt làm phu phục dịch một tháng.(1) (1).Xem: Một số vấn đề về pháp luật dân sự Việt Nam từ thế kỷ XV đến thời Pháp thuộc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 164, 168. 19 Dƣới thời kỳ Pháp thuộc, tổ chức tƣ pháp ở nƣớc ta rất phức tạp. Sau bản Hoà ƣớc Giáp Thân ngày 06/6/1884 đƣợc ký kết, nƣớc Việt Nam về phƣơng diện pháp lý đã trở thành thuộc địa của Pháp. Bên cạnh các toà án của Việt Nam còn có các toà án của Pháp đƣợc thiết lập ở Nam Kỳ và các thành phố khác nhƣ Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, Nam Định. Toà án của Pháp có thẩm quyền xét xử tất cả các việc có liên quan đến ngƣời Pháp, hoặc ngƣời nƣớc ngoài đƣợc ƣu đãi nhƣ ngƣời Pháp. Toà án của Việt Nam chỉ có thẩm quyền giải quyết những việc xảy ra giữa ngƣời Việt Nam với nhau. Tuy vậy, trong thời kỳ này pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam bƣớc đầu đã có sự phát triển. Những năm đầu thế kỷ XX, chính quyền phong kiến Việt Nam đã ban hành đƣợc hàng loạt các văn bản pháp luật có quy định về thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự nhƣ Bộ Bắc kỳ pháp viện biên chế năm 1921, Bộ luật dân sự, thƣơng sự tố tụng Bắc kỳ năm 1921, Bộ Trung kỳ pháp viện biên chế năm 1935, Bộ luật dân sự, thƣơng sự tố tụng Trung kỳ năm 1935 v.v.. Nhìn chung, các văn bản pháp luật này đã quy định tƣơng đối đầy đủ, cụ thể đƣợc các vấn đề về tố tụng dân sự, có tính đến điều kiện lịch sử Việt Nam lúc bấy giờ. Tuy vậy, chúng vẫn còn mang tƣ tƣởng phong kiến lạc hậu và nhiều dấu ấn của Bộ luật tố tụng dân sự năm 1806 của Pháp. 2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989 Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra trang sử mới trong lịch sử phát triển của dân tộc, lập ra nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà. Từ ngày đầu đƣợc thành lập, Nhà nƣớc ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật mới. Trong đó có nhiều văn bản có chứa đựng các quy phạm tố tụng dân sự nhƣ Sắc lệnh số 34/SL ngày 13/4/1945 bãi bỏ hai ngạch quan hành chính và quan tƣ pháp; Sắc lệnh số 46 ngày 10/10/1945 quy định tổ chức các đoàn thể luật sƣ; Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 cho giữ tạm các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn quốc, nếu những quy định trong luật lệ 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất