GIÁO TRÌNH
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
PHẦN CÁC TỘI PHẠM
Quyển 1
1
1390-2019/CXBIPH/.....-14/CAND
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
Giáo trình
PHẦN CÁC TỘI PHẠM
Quyển 1
(In lần thứ 23 có sửa đổi, bổ sung)
NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
HÀ NỘI - 2019
3
Chủ biên
GS.TS. NGUYỄN NGỌC HOÀ
Tập thể tác giả
GS.TS. NGUYỄN NGỌC HOÀ
Chƣơng II, Chƣơng IV
ThS. PHẠM BÍCH HỌC
Chƣơng V
PGS.TS. DƢƠNG TUYẾT MIÊN
Chƣơng VI
GS.TS. LÊ THỊ SƠN
Chƣơng I
PGS.TS. TRƢƠNG QUANG VINH
Chƣơng III, Chƣơng VII
4
LỜI NÓI ĐẦU
Giáo trình luật hình sự Việt Nam (toàn tập) được biên soạn
lần đầu năm 2000 trên cơ sở kế thừa, phát triển các giáo trình
luật hình sự của Nhà trường được ấn hành từ năm 1992 do
GS.TS. Nguyễn Ngọc Hoà làm chủ biên. Giáo trình này đã được
in lại nhiều lần.
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 được Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá XIII, kì họp thứ 10
thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015, được sửa đổi, bổ sung
năm 2017 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2018.
Trước tình hình đó, tập thể tác giả đã tổng rà soát lại toàn
bộ Giáo trình về nội dung khoa học cũng như về hình thức thể
hiện. Trên cơ sở rà soát này, các tác giả đã chỉnh lí, bổ sung và
hoàn thiện Giáo trình luật hình sự Việt Nam cho phù hợp với
nội dung của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2017, kịp thời phục vụ nhu cầu học tập,
nghiên cứu, giảng dạy của giảng viên, sinh viên và các đối
tượng khác.
Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật
Hà Nội được tái bản có chỉnh lí lần này gồm 3 quyển: 1 quyển
về Phần chung và 2 quyển về Phần các tội phạm. Các chương
của Giáo trình về cơ bản vẫn giữ kết cấu như các lần in trước
đây, cụ thể:
5
- Về nội dung, ở các chương về phần chung, Giáo trình
được kết cấu theo các vấn đề và ở các chương về phần các tội
phạm, giáo trình được kết cấu theo nhóm các tội phạm (các
chương trong Phần các tội phạm của BLHS).
- Về sự giải thích, Giáo trình đảm bảo kết hợp giữa tính
khoa học với tính có căn cứ theo luật định. Tuy nhiên, với yêu
cầu của chương trình đào tạo luật ở bậc đại học, sự giải thích
trong Giáo trình cũng có mức độ nhất định; mặt khác, nhiều
vấn đề trong Bộ luật cần phải được sự giải thích chính thức
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Về cách trình bày, các tác giả lưu ý bạn đọc về các định
nghĩa khái niệm dưới hình thức in nghiêng. Các chữ viết tắt,
các thuật ngữ được sử dụng thống nhất ở tất cả các chương,
mục của Giáo trình.
Với sự tham gia biên soạn của các giảng viên có kinh
nghiệm, hi vọng rằng Giáo trình này sẽ đáp ứng được sự
mong đợi của bạn đọc. Trường Đại học Luật Hà Nội xin
trân trọng giới thiệu Giáo trình luật hình sự Việt Nam và rất
mong nhận được những ý kiến góp ý, phê bình của bạn đọc
để Giáo trình này ngày càng hoàn thiện.
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
6
7
BẢNG TỪ VIẾT TẮT
8
BLHS
Bộ luật hình sự
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
CAND
Công an nhân dân
CTTP
Cấu thành tội phạm
QHNQ
Quan hệ nhân quả
TANDTC
Toà án nhân dân tối cao
TNHS
Trách nhiệm hình sự
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
CHƢƠNG I
CÁC TỘI XÂM PHẠM AN NINH QUỐC GIA
A. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
AN NINH QUỐC GIA
I. CÁC TỘI XÂM PHẠM AN NINH QUỐC GIA - KHÁI
NIỆM VÀ CHÍNH SÁCH XỬ LÍ
1. Khái niệm các tội xâm phạm an ninh quốc gia
Các tội xâm phạm an ninh quốc gia là nhóm tội phạm đƣợc
quy định tại chƣơng đầu tiên trong Phần các tội phạm của
BLHS. Nhóm tội phạm này có tính chất nguy hiểm cho xã hội
rất đặc biệt vì có khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội
giữ vị trí quan trọng, có tính quyết định trong hệ thống các
quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Đó là an
ninh quốc gia. Đảm bảo an ninh quốc gia là điều kiện cần thiết
cho sự đảm bảo các quan hệ xã hội khác. Trong đó, an ninh
quốc gia đƣợc hiểu “là sự ổn định, phát triển bền vững của chế
độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”.(1)
(1). Điều 3 Luật an ninh quốc gia.
9
Nhƣ vậy, các tội xâm phạm an ninh quốc gia là những hành
vi cố ý xâm hại sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã
hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, xâm hại sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam.
An ninh quốc gia là tổng thể các an ninh trên các lĩnh vực
khác nhau nhƣ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tƣ
tƣởng - văn hoá, an ninh xã hội, an ninh quốc phòng, an ninh
đối ngoại v.v.. Trong đó, an ninh chính trị là trung tâm, giữ vai
trò quyết định của an ninh quốc gia. Trong các tội xâm phạm
an ninh quốc gia có tội có thể xâm phạm an ninh quốc gia
trong tổng thể nhƣng cũng có tội chỉ có thể xâm phạm an ninh
quốc gia thuộc lĩnh vực cụ thể nhất định. Tuy nhiên, tội xâm
phạm an ninh quốc gia thuộc lĩnh vực chính trị cũng đƣợc coi
là xâm phạm an ninh quốc gia trong tổng thể do ý nghĩa quyết
định của lĩnh vực an ninh này.
Căn cứ vào tình hình cụ thể của Việt Nam và quốc tế; dựa
trên kinh nghiệm đấu tranh chống các hoạt động xâm phạm an
ninh quốc gia cũng nhƣ kinh nghiệm lập pháp hình sự trong
lĩnh vực này, BLHS (năm 2015) đã quy định từ Điều 108 đến
Điều 121 mƣời bốn tội danh khác nhau thuộc chƣơng Các tội
xâm phạm an ninh quốc gia. Đó là các tội danh sau:
- Tội phản bội Tổ quốc (Điều 108);
- Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân
(Điều 109);
- Tội gián điệp (Điều 110);
- Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ (Điều 111);
10
- Tội bạo loạn (Điều 112);
- Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 113);
- Tội phá hoại cơ sở vật chất - kĩ thuật của nƣớc Cộng hoà
XHCN Việt Nam (Điều 114);
- Tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội
(Điều 115);
- Tội phá hoại chính sách đoàn kết (Điều 116);
- Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài
liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nƣớc Cộng hoà XHCN Việt
Nam (Điều 117);
- Tội phá rối an ninh (Điều 118);
- Tội chống phá cơ sở giam giữ (Điều 119);
- Tội tổ chức, cƣỡng ép, xúi giục ngƣời khác trốn đi nƣớc
ngoài hoặc trốn ở lại nƣớc ngoài nhằm chống chính quyền
nhân dân (Điều 120);
- Tội trốn đi nƣớc ngoài hoặc trốn ở lại nƣớc ngoài nhằm
chống chính quyền nhân dân (Điều 121).
Các tội phạm nói trên có chung một số đặc điểm sau:
- Các tội xâm phạm an ninh quốc gia đều xâm phạm một
hoặc nhiều lĩnh vực khác nhau của an ninh quốc gia. Các quan
hệ xã hội bị các tội xâm phạm an ninh quốc gia xâm phạm đều
thuộc nhóm quan hệ xã hội cùng tính chất. Đó là nhóm quan hệ
xã hội về an ninh quốc gia với nội dung cụ thể đã đƣợc định
nghĩa trong Luật an ninh quốc gia.
- Lỗi của ngƣời phạm tội của các tội xâm phạm an ninh
quốc gia đều là lỗi cố ý.
11
- Mục đích của ngƣời phạm tội của các tội xâm phạm an
ninh quốc gia đều hƣớng tới mục đích chung là chống Nhà
nƣớc Cộng hoà XHCN Việt Nam, chống chính quyền các cấp
của Nhà nƣớc Cộng hoà XHCN Việt Nam.
Trong các đặc điểm chung nói trên của các tội xâm phạm
an ninh quốc gia, đặc điểm chung về mục đích phạm tội là đặc
điểm để phân biệt giữa một số tội xâm phạm an ninh quốc gia
với các tội phạm thuộc các chƣơng khác của BLHS có những
đặc điểm khác tƣơng tự nhƣ ở các tội xâm phạm an ninh quốc
gia. Ví dụ: Giữa tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân
dân (Điều 113 BLHS) với tội khủng bố (Điều 299 BLHS);
giữa tội phá rối an ninh (Điều 118 BLHS) với tội gây rối trật tự
công cộng (Điều 318 BLHS); giữa tội chống phá cơ sở giam
giữ (Điều 119 BLHS) với tội đánh tháo ngƣời bị bắt, bị tạm
giữ, tạm giam, ngƣời đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt
tù (Điều 387 BLHS)...
Bên cạnh các đặc điểm chung nhƣ vậy, giữa các tội xâm
phạm an ninh quốc gia còn có những điểm khác nhau về quan
hệ xã hội cụ thể bị trực tiếp xâm phạm và chủ thể của tội
phạm. Cụ thể: Về khách thể trực tiếp, có tội xâm phạm an ninh
quốc gia trong tổng thể nhƣ tội phản bội Tổ quốc, có tội chỉ
xâm phạm đến an ninh quốc gia thuộc lĩnh vực cụ thể nhƣ tội
xâm phạm an ninh lãnh thổ; về chủ thể của tội phạm, có tội
phạm chỉ có thể do ngƣời Việt Nam thực hiện nhƣ tội trốn đi
nƣớc ngoài hoặc trốn ở lại nƣớc ngoài nhằm chống chính
quyền nhân dân, có tội có thể do cả ngƣời nƣớc ngoài và cả
ngƣời Việt Nam thực hiện nhƣ tội gián điệp v.v.. Trong nội
12
dung trình bày về dấu hiệu pháp lí của các tội cụ thể, dấu hiệu
chủ thể của tội phạm chỉ đƣợc trình bày khi chủ thể của tội
phạm có dấu hiệu đặc biệt.
Từ sự khác nhau giữa các tội xâm phạm an ninh quốc gia
có thể phân loại chƣơng tội phạm này thành các nhóm khác
nhau theo tiêu chí chủ thể của tội phạm hoặc theo tiêu chí
phạm vi quan hệ xã hội bị trực tiếp xâm phạm. Theo tiêu chí
chủ thể của tội phạm có thể phân các tội xâm phạm an ninh
quốc gia thành ba nhóm: Nhóm tội phạm có thể do bất cứ ai
thực hiện không phụ thuộc vào quốc tịch, nhóm tội phạm chỉ
có thể do ngƣời có quốc tịch Việt Nam thực hiện và nhóm tội
phạm chỉ có thể do ngƣời không có quốc tịch Việt Nam thực
hiện. Theo tiêu chí phạm vi quan hệ xã hội bị trực tiếp xâm
phạm có thể phân các tội xâm phạm an ninh quốc gia thành
hai nhóm: Nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia trong
tổng thể (có tính nguy hại tổng thể) và nhóm các tội xâm
phạm an ninh quốc gia thuộc từng lĩnh vực (có tính nguy hại
cho từng lĩnh vực). Thuộc nhóm thứ nhất có 3 tội danh là tội
phản bội Tổ quốc, tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền
nhân dân và tội gián điệp. Trong đó, tội phản bội Tổ quốc và
tội gián điệp có phạm vi xâm phạm an ninh quốc gia ở diện
rộng có tính tổng thể còn tội hoạt động nhằm lật đổ chính
quyền nhân dân tuy chỉ xâm phạm một lĩnh vực an ninh
nhƣng là lĩnh vực chính trị nên cũng bị coi là xâm phạm an
ninh quốc gia có tính tổng thể. Thuộc nhóm thứ hai là các tội
danh còn lại. Các tội phạm này xâm phạm an ninh quốc gia
thuộc các lĩnh vực khác nhau: An ninh lãnh thổ, an ninh trật tự,
13
an ninh kinh tế-xã hội, an ninh tƣ tƣởng.(1)
2. Chính sách xử lí các tội xâm phạm an ninh quốc gia
Điều 12 Luật an ninh quốc gia đã xác định rõ chính sách xử
lí các hành vi xâm phạm an ninh quốc gia. Theo đó, việc xử lí
các hành vi này cần tuân thủ các nguyên tắc xử lí đƣợc áp dụng
chung cho tất cả các tội phạm sau:
- Nguyên tắc xử lí kịp thời và nghiêm minh;
- Nguyên tắc xử lí nghiêm trị kết hợp với khoan hồng.
Theo nguyên tắc thứ nhất, tất cả các tội xâm phạm an ninh
quốc gia đều phải đƣợc xử lí kịp thời. Tuân thủ nguyên tắc này
là điều kiện cần thiết đảm bảo tính hiệu quả của đấu tranh
chống các tội xâm phạm an ninh quốc gia, phát huy đƣợc tối đa
tác dụng phòng ngừa của các biện pháp xử lí. Khi thực hiện
việc xử lí kịp thời vẫn phải đảm bảo tính nghiêm minh. Theo
đó, các tội xâm phạm an ninh quốc gia tuy là loại tội có tính
chất nguy hiểm cho xã hội rất đặc biệt nhƣng việc xử lí về hình
sự các tội phạm này vẫn đòi hỏi phải tuân thủ tuyệt đối và đầy
đủ các quy định của pháp luật Việt Nam, trƣớc hết là luật tố
tụng hình sự và luật hình sự cũng nhƣ pháp luật quốc tế. Việc
xử lí về hình sự các tội xâm phạm an ninh quốc gia đòi hỏi
phải có sự rõ ràng, công khai, đảm bảo tính bình đẳng trƣớc
pháp luật của tất cả những ngƣời phạm tội, không có sự phân
biệt đối xử giữa công dân Việt Nam và công dân nƣớc ngoài;
(1). Trong Giáo trình luật hình sự của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội xuất bản
trƣớc lần xuất bản thứ 18, các tội xâm phạm an ninh quốc gia đƣợc phân thành
2 nhóm: Nhóm các tội trực tiếp uy hiếp sự tồn tại của chính quyền nhân dân
(Điều 78 và Điều 79 BLHS năm 1999) và nhóm các tội trực tiếp uy hiếp sự
vững mạnh của chính quyền nhân dân (các điều còn lại).
14
giữa những ngƣời có đặc điểm nhân thân khác nhau v.v..
Theo nguyên tắc thứ hai, việc xử lí về hình sự các tội xâm
phạm an ninh quốc gia cần có sự phân hoá cao về TNHS theo
hƣớng nghiêm trị ngƣời chủ mƣu, cầm đầu, chỉ huy, ngƣời
ngoan cố chống đối đồng thời cũng khoan hồng đối với ngƣời
bị ép buộc, bị lừa gạt, bị lôi kéo mà phạm tội nhƣng đã tự thú,
thành khẩn khai báo. Thể hiện nguyên tắc này, trong các điều
luật cụ thể quy định về các tội xâm phạm an ninh quốc gia đều
có ít nhất hai khung hình phạt khác nhau. Trong đó có nhiều
điều luật xác định rõ hai loại khung hình phạt cho trƣờng hợp
nghiêm trị và cho trƣờng hợp khoan hồng. Ngoài ra, Điều 110
BLHS còn cụ thể hoá nguyên tắc khoan hồng qua việc quy
định về trƣờng hợp đƣợc miễn TNHS đối với ngƣời phạm tội
gián điệp. Đây là một trong số ít các điều luật thuộc Phần các
tội phạm đã cụ thể hoá điểm c khoản 2 Điều 29 BLHS là điều
quy định về căn cứ miễn TNHS nói chung.(1)
Nguyên tắc thứ hai này không chỉ đƣợc thể hiện trong sự
phân hoá TNHS trong BLHS mà còn đòi hỏi phải đƣợc thể
hiện trong sự cá thể hoá TNHS trong áp dụng luật.
Từ nguyên tắc xử lí chung nhƣ trên, BLHS Việt Nam quy
định hình phạt có thể đƣợc áp dụng cho ngƣời phạm tội xâm
(1). Khoản 2 Điều 29 BLHS quy định: “Người phạm tội có thể được miễn TNHS
khi có một trong các căn cứ sau đây: a)..; b)..; c) Trƣớc khi hành vi phạm tội bị
phát giác, ngƣời phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc
phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của
tội phạm và lập công lớn …”
Khoản 4 Điều 110 BLHS quy định: “Người đã nhận làm gián điệp, nhưng
không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thì được miễn TNHS về tội phạm này”.
15
phạm an ninh quốc gia nhƣ sau:
- Hình phạt chính có thể đƣợc áp dụng là hình phạt tù có
thời hạn, hình phạt tù chung thân hoặc hình phạt tử hình.
- Hình phạt bổ sung có thể đƣợc áp dụng là hình phạt tƣớc
một số quyền công dân, hình phạt quản chế, hình phạt cấm cƣ
trú, hình phạt tịch thu tài sản.
II. SƠ LƢỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ THAY ĐỔI
CỦA KHÁI NIỆM “CÁC TỘI XÂM PHẠM AN NINH
QUỐC GIA”
Trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, BLHS Việt Nam
năm 1985 là văn bản quy phạm pháp luật hình sự đầu tiên sử
dụng khái niệm “Các tội xâm phạm an ninh quốc gia”. Tuy
nhiên, khái niệm này đƣợc sử dụng khi đó với nghĩa rộng hơn
so với hiện nay. Theo BLHS năm 1985, các tội xâm phạm an
ninh quốc gia gồm hai nhóm tội phạm: Nhóm các tội đặc biệt
nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia và nhóm các tội phạm
khác xâm phạm an ninh quốc gia. Hai nhóm tội phạm này khác
nhau trƣớc hết ở mục đích phạm tội. Nhóm tội phạm thứ nhất
có mục đích chống Nhà nƣớc Cộng hoà XHCN Việt Nam và
nhóm tội phạm thứ hai không có mục đích phạm tội này.
Nhóm tội thứ nhất gồm: Tội phản bội Tổ quốc; Tội hoạt động
nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; Tội gián điệp; Tội xâm
phạm an ninh lãnh thổ; Tội bạo loạn; Tội hoạt động phỉ; Tội
khủng bố; Tội phá hoại cơ sở vật chất-kĩ thuật của CNXH; Tội
phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế-xã hội; Tội phá
hoại chính sách đoàn kết; Tội tuyên truyền chống chế độ
XHCN; Tội phá rối an ninh; Tội chống phá trại giam; Tội trốn
16
đi nƣớc ngoài hoặc trốn ở lại nƣớc ngoài nhằm chống chính
quyền nhân dân. Nhóm tội thứ hai gồm: Tội chiếm đoạt tàu
bay, tàu thủy; Tội tổ chức, cƣỡng ép ngƣời khác trốn đi nƣớc
ngoài hoặc trốn ở lại nƣớc ngoài trái phép; Tội xuất, nhập cảnh
trái phép hoặc ở lại nƣớc ngoài trái phép; Tội vi phạm các quy
định về hàng không; Tội vi phạm các quy định về hàng hải;
Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nƣớc, tội chiếm đoạt, mua bán hoặc
tiêu huỷ tài liệu bí mật nhà nƣớc; Tội vô ý làm lộ bí mật nhà
nƣớc, tội làm mất tài liệu bí mật nhà nƣớc; Tội phá huỷ các
công trình, phƣơng tiện quan trọng về an ninh quốc gia; Tội
chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
vũ khí quân dụng, phƣơng tiện kĩ thuật quân sự; Tội chế tạo,
tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt các chất
nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ; Tội buôn lậu hoặc vận
chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới; Tội làm tiền
giả, tội tàng trữ, lƣu hành tiền giả, tội phá hủy tiền tệ; Tội truyền
bá văn hoá đồi trụy.
Trong BLHS năm 1999, khái niệm “Các tội xâm phạm an
ninh quốc gia” đƣợc sử dụng theo nghĩa nhƣ hiện nay và tƣơng
ứng với khái niệm “Các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an
ninh quốc gia” đã đƣợc sử dụng trong BLHS năm 1985. Kể từ
đây, khái niệm “Các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh
quốc gia” và khái niệm “Các tội khác xâm phạm an ninh quốc
gia” không còn đƣợc sử dụng. Các tội danh cụ thể thuộc “Các
tội phạm khác xâm phạm an ninh quốc gia” đã đƣợc đƣa về các
chƣơng tội phạm tƣơng ứng. Ví dụ: Tội chiếm đoạt tàu bay, tàu
thuỷ; Tội phá hủy các công trình, phƣơng tiện quan trọng về an
17
ninh quốc gia đƣợc đƣa về chƣơng Các tội xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự công cộng; Tội buôn lậu hoặc vận chuyển
trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới đƣợc đƣa về chƣơng
Các tội xâm phạm trật tự quản lí kinh tế; v.v..(1)
Trong BLHS năm 2015, khái niệm “Các tội xâm phạm an
ninh quốc gia” đƣợc sử dụng theo nghĩa nhƣ đã đƣợc sử dụng
trong BLHS năm 1999.
Trƣớc khi có khái niệm “Các tội xâm phạm an ninh quốc
gia”, luật hình sự Việt Nam sử dụng khái niệm “Các tội phản
cách mạng” để chỉ nhóm tội phạm mà hiện nay gọi là “Các tội
xâm phạm an ninh quốc gia”. Khái niệm “Các tội phản cách
mạng” đƣợc sử dụng chính thức lần đầu trong Pháp lệnh trừng
trị các tội phản cách mạng năm 1967. Theo Pháp lệnh này, các
tội phản cách mạng bao gồm: Tội phản quốc; Tội âm mƣu lật
đổ chính quyền dân chủ nhân dân; Tội gián điệp; Tội xâm
phạm an ninh lãnh thổ; Tội bạo loạn; Tội hoạt động phỉ; Tội
trốn theo địch hoặc vì mục đích phản cách mạng mà trốn ra
nƣớc ngoài; Tội giết ngƣời, gây thƣơng tích, bắt giữ ngƣời, doạ
giết ngƣời vì mục đích phản cách mạng; Tội phá hoại; Tội phá
hoại khối đoàn kết toàn dân; Tội chống lại hoặc phá hoại việc
thực hiện các chính sách và pháp luật của Nhà nƣớc; Tội phá
rối trật tự, an ninh; Tội tuyên truyền phản cách mạng; Tội phá
trại giam, đánh cƣớp can phạm, tổ chức vƣợt trại giam, trốn tù;
Tội che giấu phần tử phản cách mạng.
Khái niệm “Tội phản cách mạng” cũng đƣợc sử dụng trong
(1).Xem: Mục B Chƣơng I Phần các tội phạm BLHS năm 1985 và so sánh với
Phần các tội phạm của các BLHS năm 1999, 2015.
18
văn bản quy phạm pháp luật hình sự của Chính phủ cách mạng
lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam là Sắc luật số 03-SL/76
năm 1976. Điều 3 của Sắc luật này xác định tội phản cách
mạng bao gồm: Tội phản quốc; Tội âm mƣu lật đổ chánh
quyền; Tội gián điệp; Tội vì mục đích phản cách mạng mà
phá hoại khối đoàn kết và thống nhất dân tộc, phá hoại quốc
phòng, phá hoại trật tự an ninh, phá hoại kinh tế, tài chánh,
văn hoá và xã hội; Tội cố ý tuyên truyền, xuyên tạc nhằm
lung lạc tinh thần, gây hoang mang rối loạn, chống chánh
quyền cách mạng, phá hoại chế độ; Tội biết rõ là phần tử
phản cách mạng mà che giấu.
Tóm lại, khái niệm “Các tội xâm phạm an ninh quốc gia”
có quá trình bắt đầu từ khái niệm “Các tội phản cách mạng”
(năm 1967), tiếp đến đƣợc thay thế bằng khái niệm “Các tội
đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia” (năm 1985)
và từ năm 1999, khái niệm “Các tội xâm phạm an ninh quốc
gia” đã đƣợc thống nhất sử dụng trong luật hình sự Việt Nam.
B. CÁC TỘI PHẠM CỤ THỂ
I. CÁC TỘI XÂM PHẠM AN NINH QUỐC GIA CÓ TÍNH
NGUY HẠI TỔNG THỂ
1. Tội phản bội Tổ quốc (Điều 108 BLHS)
Tội phản bội Tổ quốc đƣợc quy định là hành vi của “ công
dân Việt Nam câu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, lực lượng quốc phòng, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tiềm lực quốc
phòng, an ninh”.
19
a. Dấu hiệu pháp lí
* Dấu hiệu chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phản bội Tổ quốc đƣợc quy định là công
dân Việt Nam - ngƣời có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt
là đang cƣ trú tại Việt Nam hoặc đang định cƣ ở nƣớc ngoài.
* Dấu hiệu mặt khách quan của tội phạm
CTTP của tội phản bội Tổ quốc đòi hỏi chủ thể có hành vi
câu kết với nước ngoài. Theo Từ điển tiếng Việt, câu kết đƣợc
hiểu là sự “hợp thành phe cánh để cùng thực hiện âm mưu xấu
xa”.(1) Từ đó, có thể hiểu câu kết với nƣớc ngoài là hành vi liên
kết, hợp sức với nƣớc ngoài, có thể là cá nhân hay nhóm ngƣời
không phải là công dân Việt Nam hay có thể là một tổ chức
nƣớc ngoài hay cũng có thể là nƣớc ngoài với tính chất là một
nhà nƣớc. Sự câu kết giữa ngƣời phạm tội với nƣớc ngoài có
thể đƣợc thể hiện qua các hành vi cụ thể nhƣ: Cùng bàn bạc về
ý đồ và kế hoạch gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, cho lực lƣợng quốc
phòng, chế độ XHCN và Nhà nƣớc Cộng hoà XHCN Việt
Nam, tiềm lực quốc phòng, an ninh hoặc cùng bàn bạc, thống
nhất về sự tài trợ của nƣớc ngoài cho ngƣời phạm tội trong
việc chuẩn bị, trong việc thực hiện kế hoạch gây nguy hại nói
trên; v.v.. Sự câu kết cũng có thể đƣợc thể hiện qua chính hành
vi nhận sự tài trợ nói trên trên thực tế nhƣ nhận tài trợ tài
chính, nhận tài trợ vũ khí, phƣơng tiện kĩ thuật v.v..
(1). Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, tr. 121.
20
- Xem thêm -