Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo trình luật dân sự việt nam. tập 2 ...

Tài liệu Giáo trình luật dân sự việt nam. tập 2

.PDF
368
15
146

Mô tả:

GIÁO TRÌNH LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM TẬP II 1 1254-2019/CXBIPH/12-12/CAND 2 TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI GIÁO TRÌNH LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM TẬP II (Tái bản) NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN HÀ NỘI - 2019 3 Chủ biên PGS.TS. ĐINH VĂN THANH TS. NGUYỄN MINH TUẤN Tập thể tác giả 4 PGS.TS. TRẦN THỊ HUỆ Chương VII (mục N) TS. LÊ ĐÌNH NGHỊ TS. PHẠM CÔNG LẠC Chương X PGS.TS. PHÙNG TRUNG TẬP TS. NGUYỄN MINH TUẤN Chương VII, VIII, IX PGS.TS. PHẠM VĂN TUYẾT Chương VI CHƢƠNG VI NGHĨA VỤ VÀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ A. NGHĨA VỤ I. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGHĨA VỤ 1. Khái niệm, đặc điểm của nghĩa vụ 1.1. Khái niệm nghĩa vụ Nghĩa vụ, theo nghĩa chung nhất là việc mà theo quy định của pháp luật hay vì đạo đức mà bắt buộc phải làm hoặc không đƣợc làm đối với xã hội, đối với ngƣời khác. Theo cách hiểu này thì nghĩa vụ là mối liên hệ giữa hai hay nhiều ngƣời với nhau, trong đó một bên phải thực hiện hoặc không đƣợc thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định vì lợi ích của bên kia. Việc một bên phải thực hiện hoặc không đƣợc thực hiện một số hành vi nhất định có thể không đƣợc đặt dƣới sự bảo đảm của nhà nƣớc bằng pháp luật, pháp luật không buộc ngƣời đó phải thực hiện, họ thực hiện công việc đó hoàn toàn theo lƣơng tâm và vì uy tín của mình. Ở phƣơng diện này, nghĩa vụ đƣợc điều chỉnh bởi các quy phạm đạo đức và thuộc về nghĩa vụ đạo đức. Chẳng hạn, giúp ngƣời già qua đƣờng, giúp đỡ ngƣời tàn tật, nhƣờng chỗ cho ngƣời già, phụ nữ trên xe buýt... là những công việc phải làm vì đạo đức. Những công việc phải làm hoặc không đƣợc phép làm theo 5 quy định của pháp luật là nghĩa vụ pháp luật nói chung. Trong đó, các công việc phải làm hoặc không đƣợc phép làm theo quy định của pháp luật dân sự là nghĩa vụ dân sự. Nghĩa vụ có thể đƣợc hiểu là một bộ phận không tách rời trong nội dung của một quan hệ pháp luật dân sự. Bao gồm những hành vi mà một bên chủ thể phải thực hiện vì lợi ích của chủ thể bên kia nhƣ chuyển giao tài sản, thực hiện một công việc hoặc không đƣợc thực hiện một công việc đã đƣợc các bên tham gia quan hệ đó hoặc pháp luật xác định v.v. Bên có nghĩa vụ phải thực hiện các nghĩa vụ trƣớc quyền yêu cầu của phía bên kia. Mặt khác, nghĩa vụ còn đƣợc hiểu là một quan hệ pháp luật, trong đó quyền dân sự và các nghĩa vụ dân sự của các bên chủ thể phát sinh từ quan hệ đó phải đƣợc thực hiện dƣới sự đảm bảo của pháp luật. Các BLDS của Việt Nam thời Pháp thuộc (Bộ dân luật Bắc kì năm 1931 và Bộ dân luật Trung kì năm 1936) đã có những định nghĩa về nghĩa vụ dân sự: "Nghĩa vụ dân sự là mối liên lạc về luật thực tại hay luật thiên nhiên, bó buộc một hay nhiều người phải làm hay đừng làm sự gì đối với một hay nhiều người nào đó. Người bị bó buộc vào nghĩa vụ gọi là người mắc nợ, người được hưởng nghĩa vụ gọi là người chủ nợ".(1) "Nghĩa vụ là cái dây liên lạc về luật thực tại hay luật thiên nhiên bó buộc một hay nhiều người phải làm hay đừng làm sự gì đối với một hay nhiều người nào đó, người bị bó buộc là người mắc nợ hay trái hộ, người được hưởng là chủ nợ hay (1).Xem: Điều 644 Bộ luật dân luật Bắc kì năm 1931. 6 trái chủ".(1) "Nghĩa vụ về luật thiên nhiên thì không thể tố tụng trước tòa án được".(2) "Nghĩa vụ thuộc về luật thiên nhiên là nghĩa vụ không thể cưỡng bách thi hành".(3) Theo quy định trong hai Bộ dân luật nói trên thì ngoài nghĩa vụ thuộc về luật thực tại còn bao gồm nghĩa vụ thuộc về luật thiên nhiên. Thực ra, nghĩa vụ thuộc về luật thiên nhiên chỉ đƣợc đƣa vào khái niệm cho hợp với truyền thống và phong tục của ngƣời Á Đông mà hoàn toàn không có sự cƣỡng chế của pháp luật. Vì vậy, dù đã đƣợc quy định trong Bộ luật nhƣng nghĩa vụ thuộc về luật thiên nhiên (nghĩa vụ tự nhiên) vẫn chỉ là nghĩa vụ luân lí. Nghĩa vụ đƣợc định nghĩa tại Điều 274 BLDS năm 2015 nhƣ sau: " Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền). 1.2. Đặc điểm của nghĩa vụ Nếu nhìn nhận nghĩa vụ ở trạng thái là một quan hệ pháp luật dân sự thì so với các quan hệ pháp luật dân sự khác, quan hệ nghĩa vụ có một số đặc điểm sau đây: Thứ nhất, nghĩa vụ là sự ràng buộc pháp lý giữa ít nhất là hai ngƣời đứng về hai phía chủ thể khác nhau. (1).Xem: Điều 675 Bộ dân luật Trung kì năm1936. (2).Xem: Điều 642 Bộ dân luật Bắc kì năm 1931. (3).Xem: Điều 677 Bộ dân luật Trung kì năm 1936. 7 Dù đƣợc hình thành theo thoả thuận hay theo luật định thì nghĩa vụ luôn là sự ràng buộc giữa các bên về việc phải làm hay không đƣợc làm một việc nhất định. Bên phải làm một công việc nếu không làm sẽ phải gánh chịu chế tài của luật. Tuỳ từng trƣờng hợp, mỗi bên trong nghĩa vụ có thể có nhiều ngƣời hoặc nhiều chủ thể khác tham gia nhƣng cũng có thể mỗi một bên chỉ có một ngƣời tham gia. Thứ hai, quyền và nghĩa vụ dân sự của hai bên chủ thể đối lập nhau một cách tƣơng ứng và chỉ có hiệu lực trong phạm vi giữa các chủ thể đã đƣợc xác định. Nghĩa vụ và quyền luôn đi đôi với nhau, nói đến quyền là nói đến nghĩa vụ. Tuy nhiên, nói đến quyền và nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ là nói đến sự đối lập, tính tƣơng ứng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Nói một cách cụ thể hơn, quyền của bên này sẽ là nghĩa vụ của bên kia và ngƣợc lại. Bên này có bao nhiêu quyền với phạm vi bao nhiêu thì bên kia sẽ có bấy nhiêu nghĩa vụ với phạm vi tƣơng ứng. Mặt khác, trong quan hệ nghĩa vụ, cả chủ thể mang quyền, cả chủ thể mang nghĩa vụ luôn luôn đƣợc xác định một cách cụ thể nên quyền của bên này chỉ là nghĩa vụ của bên kia. Nói cách khác, mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ trong quan hệ này không liên quan đến ngƣời khác ngoài các chủ thể đã đƣợc xác định cụ thể. Trong một số trƣờng hợp, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ này có thể liên quan đến ngƣời thứ ba nhƣng ngƣời thứ ba đó phải là ngƣời đã đƣợc xác định cụ thể trƣớc. Ví dụ, trong quan hệ cho vay, bên có quyền đòi nợ là ngƣời đã cho vay, bên có nghĩa vụ trả nợ là ngƣời vay nhƣng cũng có thể ngƣời phải trả khoản nợ đó lại là ngƣời thứ ba (là ngƣời bảo lãnh đã đƣợc các bên xác định trƣớc). 8 Chính từ đặc điểm này mà quan hệ pháp luật về nghĩa vụ đƣợc coi là loại quan hệ pháp luật tƣơng đối. Đồng thời cũng qua đặc điểm này, chúng ta thấy rằng quan hệ pháp luật về nghĩa vụ hoàn toàn khác với quan hệ pháp luật về sở hữu. Trong quyền sở hữu, chỉ có chủ thể mang quyền là đƣợc xác định cụ thể nên tất cả các chủ thể khác đều phải có nghĩa vụ tôn trọng các quyền dân sự của chủ thể mang quyền đó. Chủ sở hữu tự thực hiện các quyền đối với tài sản để đáp ứng các nhu cầu của mình, vì vậy quyền đân sự trong quan hệ pháp luật về sở hữu là quyền tuyệt đối. Thứ ba, quan hệ nghĩa vụ là quan hệ trái quyền nên quyền của các bên chủ thể là quyền đối nhân. Nếu trong quan hệ sở hữu, quyền của chủ thể mang quyền đƣợc thực hiện bằng hành vi của chính họ thì trong quan hệ nghĩa vụ dân sự quyền của bên này lại đƣợc thực hiện thông qua hành vi của chủ thể phía bên kia. Nói cách khác, quyền của bên này chỉ đƣợc đáp ứng khi bên kia đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ. Mặt khác, nếu việc thực hiện quyền trong quan hệ sở hữu là việc tác động trực tiếp đến vật thì trong nghĩa vụ dân sự ngƣời mang quyền dân sự không đƣợc tác động trực tiếp đến tài sản của ngƣời mang nghĩa vụ. Khi ngƣời mang nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đó, ngƣời mang quyền chỉ có thể sử dụng các phƣơng thức mà pháp luật đã quy định để tác động và yêu cầu ngƣời đó phải thực hiện nghĩa vụ cho mình. Nói cách khác, trong nghĩa vụ, quyền của ngƣời này là đối với ngƣời có nghĩa vụ bên kia chứ không đối với tài sản của họ. 2. Các yếu tố của quan hệ nghĩa vụ 2.1. Chủ thể của nghĩa vụ 9 Chủ thể của quan hệ pháp luật nói chung là những ngƣời tham gia quan hệ pháp luật đó. Chủ thể của quan hệ nghĩa vụ là những ngƣời tham gia vào quan hệ nghĩa vụ, bao gồm: Cá nhân, pháp nhân, Nhà nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các chủ thể này có những quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ nghĩa vụ mà họ tham gia. Các chủ thể này khi tham gia một quan hệ nghĩa vụ sẽ thiết lập mối liên hệ pháp lý về quyền và nghĩa vụ giữa hai bên. Trong đó, một bên đƣợc gọi là ngƣời có quyền, một bên đƣợc gọi là ngƣời có nghĩa vụ. - Bên có quyền: Là một bên trong quan hệ nghĩa vụ đƣợc pháp luật bảo đảm quyền đƣợc yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không đƣợc thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định vì lợi ích của mình. - Bên có nghĩa vụ: Là một bên trong quan hệ nghĩa vụ buộc phải thực hiện hoặc không đƣợc thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định vì lợi ích của bên có quyền. Tuỳ theo tính chất của từng quan hệ nghĩa vụ cụ thể mà có những quan hệ nghĩa vụ trong đó một bên chỉ có quyền yêu cầu nhƣng không phải gánh vác nghĩa vụ, còn một bên có nghĩa vụ thực hiện cho bên kia công việc nhất định mà không có quyền yêu cầu. Những quan hệ nghĩa vụ ở dạng này đƣợc gọi là quan hệ đơn vụ. Mặt khác, trong phần lớn các quan hệ nghĩa vụ thì mỗi bên chủ thể tham gia đều có quyền yêu cầu bên kia thực hiện những hành vi nhất định nhằm đem lại lợi ích cho mình. Và ngƣợc lại họ cũng phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định nhằm đáp ứng lợi ích cho phía bên kia. Nghĩa là, trong những quan hệ nghĩa vụ, mỗi bên chủ thể vừa là ngƣời có quyền, vừa là ngƣời có 10 nghĩa vụ. Những quan hệ nghĩa vụ ở dạng này đƣợc gọi là quan hệ song vụ. Khi xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong các quan hệ nghĩa vụ mang tính song vụ cần phải xem xét để xác định tƣơng ứng với hành vi nhất định, chủ thể nào là ngƣời có nghĩa vụ thực hiện hành vi đó. Ví dụ: Quan hệ nghĩa vụ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mua bán tài sản là quan hệ song vụ. Trong đó, đối với hành vi giao vật bán thì bên bán là ngƣời có nghĩa vụ, đối với hành vi trả tiền thì bên mua là ngƣời có nghĩa vụ. 2.2. Nội dung của nghĩa vụ Khi tham gia quan hệ nghĩa vụ, mỗi bên hƣớng tới lợi ích nhất định. Theo đó, lợi ích mà một bên hƣớng tới chỉ đạt đƣợc khi bên kia thực hiện đầy đủ các hành vi mang tính nghĩa vụ của họ. Quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự là hai yếu tố cấu thành nội dung của quan hệ nghĩa vụ. Vì vậy, có thể nói nội dung của quan hệ nghĩa vụ là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ nghĩa vụ có thể do các bên tự thoả thuận xác định hoặc do luật định. Bao gồm: - Quyền yêu cầu: Là xử sự mà bên có quyền đƣợc phép thực hiện theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Xử sự đƣợc coi là quyền trong quan hệ nghĩa vụ chính là quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không đƣợc thực hiện những hành vi nhất định. - Nghĩa vụ dân sự: Là xử sự bắt buộc theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật mà bên có nghĩa vụ phải thực hiện. Xử sự đƣợc coi là nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ chính là việc phải thực hiện hành vi nhất định nhƣ chuyển giao vật, 11 chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không đƣợc thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của bên có quyền. 2.3. Khách thể của nghĩa vụ Ở góc độ lý luận chung về nhà nƣớc và pháp luật thì khách thể của quan hệ pháp luật là lợi ích mà các chủ thể hƣớng tới và nhằm đạt đƣợc. Quan hệ nghĩa vụ có đặc trƣng cơ bản là quyền và nghĩa vụ của các bên luôn đối lập nhau một cách tƣơng ứng. Vì vậy, trong các quan hệ nghĩa vụ, hƣớng tới quyền lợi của mình chính là việc chủ thể có quyền luôn hƣớng tới hành vi thực hiện nghĩa vụ của chủ thể phía bên kia. Ngƣợc lại, để bên kia thực hiện lợi ích cho mình thì mỗi bên chủ thể đều phải quan tâm và thực hiện những hành vi nhất định để hoàn thành nghĩa vụ của mình. Nói cách khác, hành vi thực hiện nghĩa vụ của các bên chủ thể luôn đƣợc sự quan tâm và hƣớng tới của các bên chủ thể. Chẳng hạn, trong quan hệ nghĩa vụ phát sinh từ một hợp đồng mua bán tài sản, để đạt đƣợc lợi ích của mình, bên mua quan tâm đến hành vi giao vật bán của bên bán, bên bán quan tâm đến hành vi trả tiền của bên mua. Mặt khác, để bên bán giao vật bán cho mình, bên mua phải thực hiện hành vi trả tiền, để bên mua trả tiền, bên bán phải thực hiện hành vi giao vật. Vì vậy, hành vi thực hiện nghĩa vụ là khách thể trong quan hệ nghĩa vụ. Khách thể của quan hệ nghĩa vụ là những xử sự của các bên chủ thể mà chỉ thông qua đó, quyền yêu cầu cũng nhƣ nghĩa vụ của các chủ thể mới đƣợc thực hiện. Hành vi thực hiện nghĩa vụ là một phƣơng tiện mà thông qua đó, quyền lợi của các chủ thể đƣợc thực hiện. Vì vậy, trong các quan hệ nghĩa vụ, hành vi là cái mà các chủ thể đều hƣớng 12 tới, là khách thể nói chung của mọi quan hệ nghĩa vụ. Tuy nhiên, tƣơng ứng với sự đa dạng của các quan hệ nghĩa vụ, hành vi là khách thể của quan hệ nghĩa vụ cũng rất đa dạng, phong phú. Trong nhiều quan hệ nghĩa vụ, hành vi của các chủ thể gắn liền với một vật nhất định mà nếu không có vật đó sẽ không có hành vi. Ví dụ: Nếu không có vật bán sẽ không có hành vi giao vật bán. Vật đƣợc gắn liền với hành vi trong quan hệ nghĩa vụ, đƣợc gọi là đối tƣợng của nghĩa vụ. Đối tƣợng của nghĩa vụ có ý nghĩa quan trọng. Nếu thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của một bên, quyền của bên kia sẽ đƣợc thoả mãn thì chỉ thông qua tính chất, đặc điểm của đối tƣợng mới thấy đƣợc quyền của bên có quyền đã đƣợc thoả mãn ở mức độ nào. Vì vậy, trong các quan hệ nghĩa vụ mà hành vi với tƣ cách là khách thể của quan hệ nghĩa vụ đó gắn liền với vật thì bên có quyền không chỉ quan tâm tới hành vi mà còn quan tâm đến vật gắn liền với hành vi đó. Ví dụ: Trong quan hệ nghĩa vụ phát sinh từ một hợp đồng mua bán tài sản, ngƣời mua không chỉ quan tâm đến việc ngƣời bán có chuyển vật bán cho mình hay không mà còn quan tâm đến vật mà ngƣời bán chuyển giao có đúng với số lƣợng, chất lƣợng hoặc tình trạng nhƣ đã thoả thuận hay không. Trái lại, trong các quan hệ nghĩa vụ mà hành vi của chủ thể không gắn liền với vật thì bên có quyền chỉ cần quan tâm đến việc thực hiện hành vi đó của chủ thể mang nghĩa vụ. Ví dụ: Trong quan hệ nghĩa vụ phát sinh từ một hợp đồng dịch vụ thì bên thuê dịch vụ chỉ cần quan tâm đến việc bên cung ứng dịch vụ thực hiện hành vi cung ứng dịch vụ nhƣ thế nào, có bảo đảm quyền và lợi ích của mình hay không. Hành vi (sự xử sự của các chủ thể) có thể đƣợc thể hiện ở 13 dạng hành động (tác vi) nhƣng cũng có thể đƣợc thể hiện ở dạng không hành động (bất tác vi). Nếu hành vi là hành động và kết quả đƣợc tạo ra từ hành vi đó là vật cụ thể thì hành vi này đƣợc gọi là hành vi đƣợc vật chất hoá. Trái lại, nếu kết quả đó không phải là một vật cụ thể, thì hành vi này là hành vi không đƣợc vật chất hoá. Ngoài ra, trong nhiều trƣờng hợp hành vi còn tồn tại ở dạng không hành động (khi đối tƣợng của nghĩa vụ là một công việc không đƣợc làm). Trong những trƣờng hợp này, ngƣời ta quan tâm đến sự "bất động" của nhau, vì chính sự "bất động" đó sẽ bảo đảm lợi ích cho bên có quyền. 3. Đối tượng của nghĩa vụ 3.1. Khái niệm và các loại đối tượng của nghĩa vụ Đối tƣợng của nghĩa vụ là cái mà các bên tác động tới trong việc xác lập, thực hiện quan hệ nghĩa vụ với nhau. Trong quan hệ nghĩa vụ, hành vi của các chủ thể sẽ tác động vào một tài sản, một công việc cụ thể nào đó. Những tài sản, công việc này chính là đối tƣợng của việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Tuỳ thuộc vào tính chất và nội dung của từng quan hệ nghĩa vụ cụ thể mà đối tƣợng của nó có thể là một tài sản, một công việc phải làm hoặc một công việc không đƣợc làm. Điều 276 BLDS năm 2015 quy định: "1. Đối tượng của nghĩa vụ là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện. 2. Đối tượng của nghĩa vụ phải được xác định”. Từ quy định trên cho thấy, đối tƣợng của nghĩa vụ có thể là: - Đối tượng của nghĩa vụ là tài sản Đa phần các nghĩa vụ dân sự đều có đối tƣợng là tài sản. Tài sản trong luật dân sự đƣợc hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ 14 là những vật có thực mà còn bao gồm cả tiền, các giấy tờ trị giá đƣợc bằng tiền và các quyền tài sản. Tài sản là vật có thể là động sản hoặc bất động sản, có thể là vật chia đƣợc hoặc là vật không chia đƣợc, có thể là vật cùng loại hoặc vật đặc định, có thể là vật đƣợc xác định theo chủng loại hay đƣợc xác định là vật đồng bộ. Tuỳ theo tính chất của từng loại tài sản cụ thể trong quan hệ nghĩa vụ dân sự mà các bên thoả thuận để xác định nội dung của quan hệ nghĩa vụ.Vật là đối tƣợng của nghĩa vụ có thể là vật hiện hữu (vật có thực), có thể là vật đƣợc hình thành trong tƣơng lai. - Đối tượng của nghĩa vụ là công việc phải làm Công việc phải làm đƣợc coi là đối tƣợng của nghĩa vụ, nếu từ một công việc đƣợc nhiều ngƣời xác lập với nhau một quan hệ nghĩa vụ mà theo đó, ngƣời có nghĩa vụ phải thực hiện công việc theo đúng nội dung đã đƣợc xác định. Công việc phải làm có thể đƣợc hoàn thành với một kết quả nhất định nhƣng cũng có thể không gắn liền với một kết quả (do các bên thoả thuận hoặc do tính chất của công việc). Mặt khác, kết quả của công việc phải làm có thể đƣợc biểu hiện dƣới dạng một vật cụ thể nhƣng cũng có thể không biểu hiện dƣới dạng một vật cụ thể nào (các loại dịch vụ). Thông thƣờng, các quan hệ nghĩa vụ có đối tƣợng là công việc phải làm là những quan hệ nghĩa vụ phát sinh từ các hợp đồng mang tính dịch vụ nhƣ hợp đồng vận chuyển, hợp đồng gửi giữ tài sản... - Đối tượng của nghĩa vụ là công việc không được làm Công việc không đƣợc làm là đối tƣợng của nghĩa vụ trong những trƣờng hợp các bên từ công việc đó xác lập với nhau 15 một quan hệ nghĩa vụ, theo đó một bên có nghĩa vụ không đƣợc thực hiện công việc theo nội dung mà các bên đã xác định. Ví dụ: Hai ngƣời có bất động sản liền kề nhau thoả thuận một bên nhận ở bên kia một khoản tiền và cam kết không xây dựng nhà trên đất của mình để khỏi che lấp nhà của bên kia (thời hạn không đƣợc xây nhà đƣợc xác định theo thoả thuận của hai bên). 3.2. Điều kiện đối với đối tượng của nghĩa vụ Qua việc xem xét đối tƣợng của nghĩa vụ dân sự ở các dạng cụ thể thì một tài sản, một công việc phải làm hoặc một công việc không đƣợc làm chỉ đƣợc coi là đối tƣợng của nghĩa vụ dân sự khi chúng thoả mãn các điều kiện sau đây: - Phải đáp ứng đƣợc lợi ích nào đó cho chủ thể có quyền Thông thƣờng, lợi ích mà chủ thể có quyền hƣớng tới là một lợi ích vật chất (vật cụ thể, khoản tiền v.v.) nhƣng cũng có thể là một lợi ích tinh thần. Để chủ thể có quyền đạt đƣợc lợi ích vật chất nếu đối tƣợng của nghĩa vụ dân sự là một vật cụ thể thì vật đó phải mang đầy đủ các thuộc tính của hàng hoá (giá trị và giá trị sử dụng). Nếu đối tƣợng của nghĩa vụ là công việc thì việc phải làm hoặc việc không đƣợc làm phải hƣớng tới lợi ích của ngƣời có quyền. Khi làm hoặc không làm công việc đó sẽ đem đến cho bên kia lợi ích nhất định. - Phải đƣợc xác định hoặc có thể xác định đƣợc Khi các bên giao kết hợp đồng để từ đó xác lập quan hệ nghĩa vụ đối với nhau, phải xác định rõ đối tƣợng của nghĩa vụ là công việc hay vật gì. Trong trƣờng hợp nghĩa vụ đƣợc thiết lập theo quy định của pháp luật thì đối tƣợng đã đƣợc pháp luật 16 xác định rõ trong nội dung của quan hệ nghĩa vụ ấy. Nếu đối tƣợng của nghĩa vụ là vật thì các bên phải xác định rõ về số lƣợng, trọng lƣợng, khối lƣợng, tính chất, tình trạng của tài sản thông qua việc kiểm đếm và các giấy tờ liên quan (nếu có). Nếu là tài sản hình thành trong tƣơng lai thì phải có các giấy tờ liên quan xác định cụ thể về tài sản đó và các căn cứ để chứng minh tài sản đó chắc chắn sẽ hình thành và khi hình thành sẽ thuộc sở hữu của một trong các bên. Nếu là giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản thì bên đƣa tài sản đó làm đối tƣợng của nghĩa vụ phải có đầy đủ bằng chứng chứng minh tài sản đó thuộc sở hữu của mình. - Đối tƣợng của nghĩa vụ có thể thực hiện đƣợc Nếu đối tƣợng của nghĩa vụ dân sự là việc không thể thực hiện đƣợc sẽ không thoả mãn đƣợc lợi ích của chủ thể có quyền. Vì vậy, nếu đối tƣợng là tài sản thì phải là những tài sản có thể đem giao dịch đƣợc, nếu là công việc thì phải là những công việc có thể thực hiện đƣợc. Khi xem xét đối tƣợng của nghĩa vụ có thể thực hiện đƣợc hay không cần xác định theo hai vấn đề sau: Thứ nhất, xác định theo đặc tính của bản thân đối tƣợng, đối tƣợng vốn dĩ là vật không thể xác định đƣợc hoặc nếu đối tƣợng là công việc nhƣng về bản chất đó là công việc không thể thực hiện đƣợc sẽ không thể đem giao dịch. Thứ hai, do pháp luật cấm hoặc trái đạo đức xã hội. Những tài sản mà pháp luật cấm giao dịch, những công việc mà pháp luật cấm làm hoặc những việc nếu làm sẽ trái với đạo đức xã hội cũng là những đối tƣợng không thể thực hiện đƣợc. Vì vậy, nó không bao giờ đƣợc coi là đối tƣợng của nghĩa vụ dân sự. Ví dụ: Thuốc phiện là một vật có thực nhƣng không thể đem giao 17 dịch đƣợc vì đã bị pháp luật cấm lƣu thông. Mặt khác, một ngƣời chỉ có thể dùng tài sản làm đối tƣợng giao dịch nếu họ là chủ sở hữu của tài sản, là ngƣời đƣợc chủ sở hữu uỷ quyền giao dịch hoặc là ngƣời có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. II. CÁC LOẠI NGHĨA VỤ Nhƣ đã xác định ở phần trƣớc, chủ thể của nghĩa vụ là những ngƣời tham gia quan hệ nghĩa vụ. Họ đứng về hai phía và có quyền, nghĩa vụ dân sự đối lập nhau một cách tƣơng ứng. Một quan hệ nghĩa vụ đƣợc hình thành làm phát sinh mối liên hệ về quyền và nghĩa vụ giữa ít nhất là hai ngƣời đứng ở hai phía đối lập nhau (một ngƣời có quyền, một ngƣời có nghĩa vụ) nhƣng cũng có thể mối liên hệ đó là giữa nhiều ngƣời đối với nhau (nhiều ngƣời có quyền, nhiều ngƣời có nghĩa vụ). Đồng thời cũng có nhiều quan hệ nghĩa vụ mà quyền, nghĩa vụ liên quan đến cả ngƣời thứ ba. Căn cứ vào chủ thể tham gia, tính chất, đặc điểm, nội dung và phƣơng thức thực hiện nghĩa vụ mà nghĩa vụ có thể đƣợc phân thành các loại sau đây: 1. Nghĩa vụ một người Nghĩa vụ một ngƣời là nghĩa vụ mà trong đó, mỗi bên chủ thể chỉ có một ngƣời tham gia. Nghĩa vụ một ngƣời chỉ tồn tại ở một dạng duy nhất là: Một ngƣời có nghĩa vụ đối với một ngƣời có quyền. Vì vậy, việc xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong các quan hệ nghĩa vụ này hết sức đơn giản bởi theo đặc điểm của nghĩa vụ thì quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngƣợc lại. Tuy nhiên, nếu là quan hệ song vụ thì cần xác định ai là ngƣời có quyền, ai là ngƣời có nghĩa vụ tƣơng ứng với từng hành vi cụ thể. 2. Nghĩa vụ nhiều người 18 Nghĩa vụ nhiều ngƣời là nghĩa vụ mà trong đó, một bên chủ thể có nhiều ngƣời tham gia. Nghĩa vụ nhiều ngƣời có thể là một trong các dạng sau: - Nhiều ngƣời có nghĩa vụ đối với một ngƣời có quyền; - Nhiều ngƣời có quyền đối với một ngƣời có nghĩa vụ; - Nhiều ngƣời có nghĩa vụ đối với nhiều ngƣời có quyền. Trong những trƣờng hợp này, cần phải xác định rõ phạm vi quyền yêu cầu của mỗi một ngƣời có quyền đối với ngƣời có nghĩa vụ, cũng nhƣ phạm vi nghĩa vụ mà từng ngƣời có nghĩa vụ phải thực hiện trƣớc ngƣời có quyền. Mặt khác, cần phải xác định giữa những ngƣời có nghĩa vụ hoặc giữa những ngƣời có quyền có mối liên quan nhƣ thế nào trong quá trình cùng nhau thực hiện nghĩa vụ hoặc cùng nhau hƣởng quyền. Vì vậy, đối với các quan hệ nghĩa vụ nhiều ngƣời cần phải xác định là nghĩa vụ riêng rẽ hay nghĩa vụ liên đới. 3. Nghĩa vụ dân sự riêng rẽ Điều 287 BLDS năm 2015 quy định: " Khi nhiều người cùng thực hiện một nghĩa vụ, nhưng mỗi người có một phần nghĩa vụ nhất định và riêng rẽ thì mỗi người chỉ phải thực hiện phần nghĩa vụ của mình". Nghĩa vụ dân sự riêng rẽ là loại nghĩa vụ nhiều ngƣời, trong đó mỗi một ngƣời trong số những ngƣời có nghĩa vụ chỉ phải thực hiện phần nghĩa vụ của mình hoặc mỗi ngƣời trong số những ngƣời có quyền chỉ có thể yêu cầu ngƣời có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ cho riêng phần quyền của mình. Bản chất của loại nghĩa vụ này là không có sự liên quan lẫn nhau giữa những ngƣời cùng thực hiện nghĩa vụ, cũng nhƣ không có sự liên quan trong việc thực hiện quyền yêu cầu của 19 những ngƣời có quyền. Nếu nhiều ngƣời có nghĩa vụ thì nghĩa vụ đƣợc xác định thành từng phần và mỗi ngƣời thực hiện nghĩa vụ theo phần của mình một cách riêng rẽ. Ngƣời nào thực hiện xong nghĩa vụ của mình thì quan hệ nghĩa vụ giữa ngƣời đó với ngƣời có quyền sẽ chấm dứt (họ không phải chịu trách nhiệm đối với phần nghĩa vụ mà những ngƣời có nghĩa vụ khác chƣa thực hiện). Nếu nhiều ngƣời có quyền thì mỗi ngƣời chỉ có quyền yêu cầu ngƣời có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ cho riêng phần quyền của mình (không đƣợc phép yêu cầu ngƣời có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ). Khi một trong số những ngƣời có quyền đó nhận đƣợc sự thực hiện nghĩa vụ đối với phần quyền cuả mình thì quan hệ nghĩa vụ giữa ngƣời đó với ngƣời có nghĩa vụ đƣợc coi là chấm dứt. Quan hệ nghĩa vụ giữa ngƣời có nghĩa vụ với những ngƣời có quyền khác vẫn tồn tại và vẫn có hiệu lực. 4. Nghĩa vụ dân sự liên đới Để quyền dân sự của các chủ thể đƣợc bảo đảm, trong một số trƣờng hợp, nghĩa vụ nhiều ngƣời sẽ đƣợc xác định là nghĩa vụ dân sự liên đới nếu các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Mục đích của việc xác định một nghĩa vụ liên đới khi có nhiều ngƣời tham gia quan hệ nghĩa vụ là buộc những ngƣời có nghĩa vụ phải cùng nhau gánh vác toàn bộ nghĩa vụ nhằm bảo đảm quyền lợi cho chủ thể có quyền đƣợc trọn vẹn, kể cả khi có một trong số những ngƣời có nghĩa vụ không có khả năng thực hiện nghĩa vụ. Vì vậy, trong quan hệ nghĩa vụ liên đới, những ngƣời có nghĩa vụ luôn luôn liên quan với nhau trong cả quá trình thực hiện toàn bộ nghĩa vụ cũng nhƣ quyền yêu cầu của những ngƣời có quyền luôn đƣợc coi là một thể thống nhất. Nghĩa vụ dân sự liên đới là loại nghĩa vụ nhiều ngƣời, trong 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất