TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
GIÁO TRÌNH
(Lưu hành nội bộ)
“LỊCH SỬ TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN”
(Dành cho ĐH GDCT)
Tác giả: Nguyễn Văn Duy
Nguyễn Thị Thanh Hà
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương 1. Sự xuất hiện và hình thành triết học Mác
1.1. Những tiền đề xuất hiện triết học Mác
1.2. Quá trình hình thành các quan điểm và thế giới quan
triết học của C.Mác và Ăngghen (1842 - 1848)
Chương 2. Thời kỳ bổ sung và phát triển lý luận
2.1. Thời kỳ từ 1848 đến 1871
2.2. Thời kỳ từ 1871 đến 1895
Chương 3. Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác
3.1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời của chủ nghĩa Lênin
3.2. Những giai đoạn phát triển triết học Mác của Lênin
Trang
3
4
4
8
32
32
41
62
62
66
2
LỜI NÓI ĐẦU
Để phục vụ cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu các môn khoa học
Mác – Lênin trong trường Đại học Quảng Bình, chúng tôi đã biên soạn cuốn giáo
trình môn “Lịch sử triết học Mác - Lênin”. Nội dung cuốn giáo trình gồm ba
chương: Sự xuất hiện và hình thành triết học Mác; Thời kỳ bổ sung và phát triển lý
luận; Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!
Tác giả: NGUYỄN VĂN DUY
NGUYỄN THỊ THANH HÀ
3
CHƯƠNG I
SỰ XUẤT HIỆN VÀ HÌNH THÀNH TRIẾT HỌC MÁC
(10 tiết)
1.1. Những tiền đề xuất hiện triết học Mác
1.1.1. Tiền đề kinh tế - xã hội
Thời kỳ Mác sống và hoạt động là thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển hết sức
mạnh mẽ. Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai
đoạn mới của sự phát triển nhờ sự trợ giúp của cuộc cách mạng công nghiệp. Nền
kinh tế của một số nước châu Âu đã phát triển mạnh mẽ chưa từng có trong lịch sử.
Trong tư liệu sản xuất, máy móc ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, lao động
chân tay dần được thay thế bằng lao động máy móc. Ở nước Anh, từ năm 1820 đến
1844 số thợ dệt thủ công đã giảm từ 240.000 xuống còn 60.000. Nước Anh trở
thành cường quốc công nghiệp lớn nhất thế giới. Ở nước Pháp, cuộc cách mạng
công nghiệp cũng đã được hoàn thành, đưa nước Pháp lên chiếm giữ vị trí thứ hai ở
châu Âu về công nghiệp. Ở nước Đức và một số nước khác, cuộc cách mạng công
nghiệp cũng trở thành trợ thủ đắc lực cho sức vươn lên khẳng định vị thế của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng xã hội phong kiến. Thành quả do
cuộc cách mạng công nghiệp mang lại đã chứng minh tính chất tiến bộ hơn hẳn của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa so với các phương thức sản xuất trước đây.
Nói cách khác, chế độ tư bản đã thể hiện tính ưu việt của nó so với các chế độ đã
có trong lịch sử. Như Mác đã đánh giá: “giai cấp tư sản trong quá trình thống trị
giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra một lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ
hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”.
Nhưng mặt khác, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một hệ quả
khách quan ngược chiều là làm cho những mâu thuẫn xã hội vốn có của chế độ tư
bản ngày càng bộc lộ gay gắt. Của cải xã hội tăng nhưng lý tưởng xã hội mà giai
cấp tư sản đưa ra không những không thực hiện được mà bất công xã hội còn tăng
thêm, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ngày càng gay gắt. Đối
chọi với cảnh nghèo đói cùng cực của người lao động không có tư liệu sản xuất là
sự giàu sang thừa thải của giai cấp tư sản. Máy móc có thể giải phóng con người
khỏi những thao tác cơ bắp nặng nhọc nhưng nó lại trở thành cái hữu hình cột chặt
thân phận của những người lao động vào vòng quay của mô-tơ, máy móc trở thành
công cụ tuyệt vời để tăng cường độ lao động. “Những con ngỗng vàng ngày càng
đẻ ra nhiều trứng vàng”, trong khi đó người lao động ngày càng oằn người xuống
dưới sức nặng của cường độ lao động và thời gian làm việc.
Thực tiễn đã chứng minh và khẳng định: giai cấp tư sản không còn đóng vai
trò là giai cấp cách mạng. giai cấp vô sản đã trở thành đối tượng của sự bóc lột.
4
Nhiều cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản mang tính chất
của cuộc đấu tranh giai cấp đã nổ ra ngày càng có quy mô và tổ chức, trở thành
một phong trào lan rộng khắp thế giới đặc biệt ở châu Âu. Như cuộc khởi nghĩa
của những người thợ dệt ở Liông Pháp (1831-1834), phong trào Hiến chương ở
Anh (1830-1840), phong trào của những người thợ dệt ở Xilêdi Đức,… những
phong trào đó đã chứng tỏ rằng vai trò lịch sử của giai cấp tư sản cùng những lý
thuyết của họ đã mất dần. Thực tiễn không chỉ đặt ra nhu cầu cấp bách là phải xây
dựng một hệ thống lý luận mới đáp ứng đòi hỏi của cuộc đấu tranh lúc bấy giờ mà
còn là để khẳng định sự lớn mạnh không ngừng của giai cấp vô sản trên vũ đài
chính trị.
Học thuyết của các nhà xã hội không tưởng như Xanhximông, Phurie, Ôoen
mặc dù chan chứa tinh thần nhân đạo, có giá trị trong việc phê phán chế độ tư bản
nhưng lại không nhìn thấy những lợi ích sống còn của giai cấp vô sản trong cuộc
đấu tranh để giải phóng mình và giải phóng toàn thể những người lao động bị áp
bức và bóc lột.
Thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản chính là
yêu cầu khách quan của việc hình thành nên một lý luận khoa học soi đường cho
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
Chính Mác & Ăngghen đã sống và chiến đấu cùng với phong trào cách mạng của
giai cấp vô sản, hai ông đã nghiên cứu những lý luận trước đó và đã khái quát kinh
nghiệm đấu tranh của phong trào công nhân, sáng tạo ra học thuyết của mình.
Trong đó, triết học là cơ sở lý luận chung – cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận. Có thể nói, sự ra đời của triết học Mác nói riêng và công nghiệp Mác nói
chung là nhằm để đáp ứng nhu cầu của sự phát triển của phong trào công nhân từ
tự phát đến tự giác.
Với sự xuất hiện của triết học Mác, giai cấp vô sản đã có trrong tay sức
mạnh và vũ khí tinh thần của mình, còn triết học Mác lại tìm thấy ở giai cấp vô sản
vũ khí vật chất của nó. Triết học Mác là công cụ và cẩm nang của giai cấp vô sản
cách mạng trong việc lý giải các vấn đề lý luận mà thực tiễn và thời đại đặt ra.
1.1.2. Tiền đề lý luận
Theo Lênin, sự ra đời của triết học Mác nói riêng và công nghiệp Mác nói
chung là “sự kế thừa thẳng và trực tiếp những học thuyết của các đại biểu xuất sắc
nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học và trong công nghiệp xã hội”. Cụ
thể ở đây là triết học cổ điển Đức, kinh tếchớnh trị cổ điển Anh và cụng nghiệpxó
hội không tưởng ở Pháp. Đó là những giá trị tiêu biểu nhất về mặt lý luận mà nhân
loại đã gặt hái được cho đến giữa thế kỷ XIX.
+ Triết học cổ điển Đức
(Cantơ, Phíchiện tượngơ, Sêlinh, Hêghen và Phơ bách).
5
Triết học cổ điển Đức được xem như là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết
học Mác. Đặc biệt là với hai nhà triết học tiêu biểu là Hêghen và Phơbach.
• Phép biện chứng duy tâm khách quan của Hêghen
Triết học duy tâm của Hegel là đỉnh cao của triết học cổ điển Đức. Hegel là
người đầu tiên đã tổng kết toàn bộ lịch sử nhận thức, tìm ra nguyên lý cơ bản của
tư duy biện chứng, xây dựng một cách có hệ thống các quy luật, phạm trù của phép
biện chứng trên cơ sở của chủ nghĩa duy tâm.
Mác & Ăngghen đánh giá cao công lao lịch sử của Hegel trong việc xây
dựng một cách có hệ thống phép biện chứng. Đồng thời, hai ông cũng triệt để phê
phán tính chất thần bí, duy tâm của hệ thống đó. Mác, Ăngghen đã chỉ ra rằng: “Ở
Hegel, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát
hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó đằng sau lớp vỏ thần bí”. Mác, Ăngghen đã
cải tạo phép biện chứng duy tâm thành phép biện chứng duy vật triệt để nhất.
• Chủ nghĩa duy vật của Phơbach
Phơbách là đại biểu cuối cùng của triết học cổ điển Đức. Công lao của ông là
ở chỗ chống lại chủ nghĩa duy tâm của Hegel và của các nhà triết học khác; chống
tôn giáo khi ông khẳng định giới tự nhiên là tính thứ nhất, tồn tại vĩnh viễn, không
phụ thuộc vào ý thức của con người; khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật thế
kỷ XVII – XVIII. Coi con người với tư cách là thực thể của giới tự nhiên – là đối
tượng nghiên cứu của triết học. Chính chủ nghĩa duy vật vô thần của Phơbách đã
tạo tiền đề quan trọng cho bước chuyển của Mác-Ăngghen từ thế giới quan duy
tâm sang thế giới quan duy vật; từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường
chủ nghĩa cộng sản.
Mác và Ăngghen đánh giá cao công lao của Phơbách đồng thời chỉ ra những
hạn chế trong triết học của ông: đó là phương pháp siêu hình, ông không nhận thấy
tính uyển chuyển biện chứng từ cảm tính đến lý tính trong nhận thức; không hiểu
được vai trò của thực tiễn trong hoạt động nhận thức. Mặc dù là nhà triết học duy
vật trong lĩnh vực tự nhiên, nhưng lại duy tâm trong lĩnh vực xã hội. Ông không
thấy được vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội mà lại cho rằng
tình yêu là sinh lực vạn năng để giải quyết mọi mâu thuẫn bế tắc của xã hội.
+ Kinh tế chính trị học cổ điển Anh
Với các đại biểu xuất sắc là A. Xmith và Ricacdo. Là cơ sở xã hội lý giải các
vấn đề lý luận về lao động, giá trị và những nguyên lý cơ bản của thế giới quan duy
vật lịch sử.
Hai ông cho rằng, giá trị của hàng hóa không phải do tính chất vật lý, hóa
học, cũng không phải do công dụng của hàng hóa quy định mà là do lượng lao
động xã hội cần thiết làm ra nó quy định. Chứng minh rằng lợi nhuận là từ sản xuất
chứ không phải từ lưu thông,…
6
Hạn chế của A. Xmít và Ricacđô là chưa đi đến lý giải nguồn gốc của giá trị
thặng dư, nguồn gốc lợi nhuận, xem xã hội tư bản là trạng thái vĩnh viễn. Mặt khác,
hai ông đã không thấy được tính lịch sử của giá trị; không thấy được mâu thuẫn của
hàng hóa và sản xuất hàng hóa; không thấy được tính hai mặt của lao động sản xuất
hàng hóa cũng như không phân biệt được sản xuất hàng hóa giản đơn và sản xuất
hàng hóa tư bản chủ nghĩa.
Trên cơ sở kế thừa các yếu tố khoa học và những tư tưởng tiến bộ của các
nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh, Mác đã giải quyết những bế tắc mà các nhà kinh
tế chính trị cổ điển Anh không thể vượt qua được để xây dựng nên lý luận về giá trị
thặng dư, luận chứng khoa học về bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản và nguồn
gốc kinh tế dẫn đến sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản cũng như sự ra đời
tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
+ Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp (đầu thế kỷ XIX)
Với các đại biểu nổi tiếng như Xanhximông, Phuriê và Ôoen cũng đóng vai
trò quan trọng trong việc hình thành triết học Mác, nhất là việc hình thành các quan
điểm duy vật lịch sử và dự báo sự xuất hiện của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng thể hiện đậm nét tinh thần nhân đạo, phê phán
mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản trên cơ sở vạch trần những mâu thuẫn của xã hội tư bản
như: sự giàu sang và thừa thải của thiểu số bọn sở hữu và sự nghèo nàn của đông
đảo quần chúng nhân dân, sự đối lập giữa lao động trí óc và lao động chân tay,
giữa thành thị và nông thôn,... xã hội đó sớm muộn sẽ được thay thế bằng xã hội
mới tốt đẹp hơn đó là xã hội xã hội chủ nghĩa (đã dự đoán về những đặc trưng cơ
bản của xã hội tương lai). Xã hội mà trong đó con người được phát triển, đặc biệt là
phụ nữ và trẻ em không còn bị bóc lột về sức lao động.
Hạn chế của các ông là ở tính không tưởng vì: không luận chứng được một
cách khoa học về bản chất của chủ nghĩa tư bản, không hiểu được những quy luật
phát triển của xã hội tư bản và không thấy được vai trò lịch sử của giai cấp vô sản
với tư cách là lực lượng xã hội có khả năng xóa bỏ chủ nghĩa tư bản để xây dựng
một xã hội mới, tốt đẹp hơn. Các giải pháp mà họ đưa ra mang tính chủ quan,
nhấn mạnh vai trò của giáo dục, hợp tác, họ chỉ dừng lại ở ước mơ, nguyện vọng
mà không đề ra được những biện pháp khoa học để thực hiện nó, phủ nhận đấu
tranh giai cấp.
1.1.3. Tiền đề khoa học tự nhiên
Triết học Mác ra đời không chỉ dựa trên cơ sở thực tiễn của cuộc đấu tranh
giữa giai cấp tư sản và vô sản ở nữa đầu thế kỷ thứ XIX, không chỉ dựa vào sự kế
thừa những tinh hoa văn hóa nhân loại, mà còn dựa trên những thành tựu của các
khoa học như cơ học, hóa học, toán học, địa chất,... đặc biệt là ba phát minh khoa
7
học lớn ở thế kỷ XIX, đó là học thuyết tế bào, học thuyết tiến hóa, định luật bảo
toàn và chuyển hóa năng lượng.
Như vậy, triết học Mác cũng như toàn bộ cụng nghiệp Mác ra đời như một
tất yếu lịch sử không những vì đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn cách mạng
của giai cấp công nhân, đòi hỏi phải có lý luận mới soi đường mà còn vì những tiền
đề cho sự ra đời lý luận mới đã được nhân loại tạo ra.
1.2. Quá trình hình thành các quan điểm và thế giới quan triết học của
C.Mác và Ăngghen (1842 - 1848)
1.2.1. Sơ lược tiểu sử
1.2.1.1. Sơ lược tiểu sử Các Mác (1818 - 1883)
Các Mác (5/5/1818) ở Tơria thuộc tỉnh Ranh nước Đức, trong một gia đình
trí thức (cha ông là luật sư Henrich Mác). Từ nhỏ ông đã được giáo dục và hun
đúc trong tinh thần khai sáng của chủ nghĩa tự do, nhân đạo và lý tính.
Thời kỳ học trung học, Mác là một tín đồ Kitô ngoan đạo, xem Chúa Kitô là
biểu tượng của cái thánh thiện, vì vậy để vượt qua những hạn chế của bản thân
mình, để vươn tới cuộc sống thực sự thánh thiện thì phải lấy Thiên Chúa làm đích
đến. Và trong trái tim của chàng trai trẻ thánh thiện ấy tràn đầy tính nhân đạo và sự
yêu chuộng tự do, muốn được sống vì người khác.
Ông nổi tiếng với bài luận văn tốt nghiệp trung học: “Những suy nghĩ của
một thanh niên khi chọn nghề”. Mác đã thổ lộ, một sự báo trước về ý nghĩa cuộc
sống mà Mác sẽ chọn sau này: “Nếu một người chỉ lao động về mình thôi thì người
đó có thể trở nên một nhà bác học nổi tiếng, một nhà thông thái lớn, một nhà thơ
tuyệt vời, nhưng người đó không bao giờ có thể trở thành một con người thực sự
hoàn thiện và vĩ đại” và “Nếu một người chọn nghề trong đó người ấy có thể làm
được nhiều nhất cho nhân loại, thì lúc đó người ấy cảm thấy không phải một sự vui
sướng ích kỷ hạn chế và đáng thương mà hạnh phúc của người đó sẽ thuộc về hàng
triệu người”. Đó được xem là bài luận văn hay nhất của một học sinh 17 tuổi.
Trong bài luận văn này Mác đã lên án việc chọn nghề chỉ dựa trên lợi ích vị kỷ
hoặc hoàn toàn mang tính vật chất.
Sau khi tốt nghiệp trung học, năm 1835 Mác đến học đại học Luật tại trường
ĐH Bon theo ý của cha, tại đây Mác tiếp tục duy trì mối tình với Gienny từ những
ngày còn học trung học. Gienny hơn Mác 4 tuổi, xinh đẹp, thông minh, có học thức
so với những người con gái thời bấy giờ.
Giữa tháng 10/1836, Mác đi Berlin. Có thể nói, tại đây Mác đã phát hiện ra
Hêghen và khát khao muốn nghiên cứu triết học. Từ 1837 Mác bắt đầu làm quen
với triết học của Heghen và tham gia phái Heghen trẻ. Càng nghiên cứu triết học,
Mác càng thấy rõ tính phi khoa học của công nghiệpduy tâm. Mác thấy Hegel đã
vạch rõ các trạng thái của lịch sử chỉ là những bước phát triển nhất thời, chỉ là
8
những giai đoạn trong tiến trình phát triển vô tận từ thấp đến cao của xã hội loài
người. Cái mà ngày hôm qua vẫn còn tồn tại hợp lý, thì ngày hôm nay lại đang tiêu
vong, thay vào đó là một hiện thực mới cao hơn. Nhưng Hegel là nhà duy tâm vì
ông đã xem cơ sở của mọi tồn tại là ý niệm tuyệt đối. Mác nhận thấy mặc dù triết
học Hegel còn nhiều mâu thuẫn nhưng nó là bước tiến trong lịch sử của tư duy con
người. Chính vì thế Mác đã chuyển sang nghiên cứu Hegel. Mác tham gia các cuộc
tranh luận và đứng về phe dân chủtư sản.
Để rời xa triết học tư biện của Hegel từ năm 1839, Mác tập trung vào nghiên
cứu triết học Hi Lạp cổ đại. Trong kho tàng đồ sộ của nền văn minh Hi-La, Mác
đặc biệt chú ý triết học Eepiquya, chủ nghĩa khắc kỷ và phái hoài nghi. Những ghi
chép và nhận xét về ba trào lưu triết học này làm thành Tập bút ký.
Năm 1842 Mác bảo vệ luận án tiến sĩ với đề tài: Sự khác biệt giữa triết học
tự nhiên của Đêmôcrit và triết học tự nhiên của Êpiquya. Trong luận án này, mặc
dù còn đứng trên lập trường duy tâm, cường điệu vai trò ý thức của con người, gán
cho ý thức là động lực phát triển của xã hội nhưng cũng đã toát lên những tư tưởng
vô thần và dấu hiệu khác biệt với triết học của Hegel.
Mác đánh giá cao Êpiquya. Theo Mác, Êpiquya là người đã làm phong phú,
phát triển học thuyết nguyên tử của Đêmôcrít chứ không phải là triết gia đóng vai
trò phổ biến học thuyết nguyên tử như các triết gia duy tâm nhìn nhận. Mác đặc
biệt đánh giá cao những tư tưởng vô thần của Êpiquya, và khẳng định bản chất của
triết học Êpiquya là phủ nhận tôn giáo, xem triết học như là vũ khí để giải phóng
con người.
Như vậy ngay từ những buổi khởi đầu Mác đã khai sinh ra luận đề triết học
bắt đầu ở chỗ tôn giáo kết thúc, chủ nghĩa vô thần là trung tâm của triết học, nhưng
chưa hiểu được nguồn gốc vật chất của sự áp bức xã hội nên Mác đã truy tìm nó
trong tôn giáo và xem triết học là công cụ duy nhất có trách nhiệm giải phóng con
người khỏi áp bức do tôn giáo tạo ra. Tư tưởng này của Mác có sự song trùng với
quan niệm của phái Hegel trẻ. Những người thuộc phái Hegel trẻ cho rằng sự tự ý
thức là lực lượng cao nhất. Tuy nhiên vẫn có điểm khác vì triết học của Mác gắn
với khuynh hướng cách mạng dân chủ, gắn với mục tiêu phục vụ đấu tranh chính
trị chống chế độ chuyên chế Phổ. Và nếu không có sự khởi đầu khác biệt này thì
không thể có Mác, cha đẻ của Tư bản sau này. Có thể nói, sự vượt trước về mặt tư
tưởng là dấu hiệu của một thiên tài.
Đầu những năm 1840 của thế kỷ XIX, chính phủ Phổ tìm mọi cách đàn áp
phong trào cách mạng, báo chí tiến bộ cách mạng bị cấm. Các nhà khoa học bị đuổi
khỏi trường đại học và các tòa soạn. Trong hoàn cảnh ấy, Mác không thể tiếp tục
hoạt động ở trường đại học, vì ông không thể che dấu những quan điểm dân chủ
9
của mình. Và cũng trong hoàn cảnh ấy ông đã đọc được bản chất đạo Cơđốc của
Phơbach.
Năm 1843 Mác về lại nơi Gienny sống để cầu hôn và cưới Gienny. Từ đó
hai vợ chồng bắt đầu cuộc đời hoạt động cách mạng.
1.2.1.2. Sơ lược tiểu sử Ph.Ăngghen(1820 - 1895)
Ph.Ăngghen (28/11/1820) tại Barmen tỉnh Ranh, vương quốc Phổ, trong một
gia đình chủ xưởng dệt. Từ nhỏ Ăngghen đã bộc lộ tính cách độc lập. Những lời
dạy bảo nghiêm khắc của cha và những sự đe doạ trừng phạt không thể làm cho
ông đi đến chỗ phải phục tùng mù quáng. Cho đến năm 14 tuổi, Ăngghen học ở
trường tại thành phố Barmen và sớm bộc lộ năng khiếu về ngoại ngữ.
Tháng 10/1834, Ăngghen chuyển sang học ở trường trung học Elberfelder,
một trường tốt nhất ở Phổ thời bấy giờ. Mặc dù là học sinh giỏi toàn diện và có
những năng lực phi thường (năm 17 tuổi ông đã học thông viết thạo 15 ngoại ngữ),
nhưng năm 1837, theo yêu cầu của bố, ông buộc phải bỏ dở chừng trung học để đi
làm thư ký nhà buôn ở Barmen - công việc mà ông không hề thích thú. Trong thời
gian này ông tự học các ngành sử học, triết học, văn học, ngôn ngữ và thơ ca.
Cuối năm 1839 Ăngghen bắt đầu nghiên cứu triết học Đức và đặc biệt quan
tâm đến các tác phẩm của Hêghen. Mặc dù còn chưa hiểu được giai cấp vô sản là
giai cấp đặc biệt trong quần chúng lao động bị áp bức nhưng trong những bài báo
đầu tiên của mình Những bức thư từ Vesphali ông đã công khai đả kích sự sùng
đạo giả dối của những chủ xưởng ở Vesphali và cảm thông với những người công
nhân bị bóc lột tàn tệ.
Nếu như 1939, Ăngghen còn ngập ngừng giữ trạng thái nước đôi trong quan
niệm về tôn giáo thì đến 1840 ông đã là một người vô thần, ngang nhiên kêu gọi
tiến hành cách mạng ở Đức và nguyền rủa kẻ đứng đầu nhà nước Phổ lúc bấy giờ.
Sự phê phán biểu hiện quyết liệt ở mặt ngôn từ, nhưng lúc này giống như các nhà
dân chủ cách mạng khác ông chủ yếu chỉ dừng lại ở mức bày tỏ cảm thông cho
thân phận của quần chúng cần lao mà chưa cảm nhận được giai cấp vô sản là giai
cấp đứng mũi chịu sào, giai cấp cách mạng nhất trong hoạt động cải biến xã hội
hiện tồn.
Tháng 9/1841, ông đến Berlin để làm nghĩa vụ quân sự. Ở đây ông đã làm
quen với những người thuộc phái Hegel trẻ và trở thành thành viên của phái này.
Mùa xuân 1842, Ăngghen bắt đầu cộng tác với tờ Nhật báo tỉnh Ranh. Trong
những bài báo in năm 1842, Ăngghen đã lên tiếng phản kháng chế độ kiểm duyệt
của Chính phủ Vương quốc Phổ và trật tự phong kiến ở Đức. Ngày 8 tháng 10 năm
1842, Ăngghen mãn hạn phục vụ trong quân đội. Từ Berlin ông trở về Barmen.
Một tháng sau, Ăngghen sang Anh thực tập buôn bán.
10
Cuộc gặp gỡ giữa Mác và Ăngghen lần đầu tiên diễn ra vào tháng 11.1842
khi trên đường sang Anh, Ăngghen đã thăm trụ sở tờ Nhật báo tỉnh ranh và ông đã
gặp Mác, Tổng biên tập tờ báo. Tháng 8.1844, trên đường từ Anh về Đức tại Paris
diễn ra cuộc gặp gỡ lần thứ hai. Từ đó hai ông đã trở thành đôi bạn chí thân vĩ đại
và cảm động để cùng nhau sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, sáng tạo ra kinh tế chính trị mácxít và lý luận chủ nghĩa xã hội
khoa học.
Ông mất ngày 5/8/1895 lúc 10h30p ở nước Anh, theo di chúc di hài của ông
được hỏa táng và bình đựng di hài được thả xuống biển.
Tình bạn giữa Mác và Ăngghen:
Hai con người xa lạ, từ những hoàn cảnh xuất thân, môi trường giáo
dục và quá trình đào tạo rất khác nhau đã trở thành hai người đồng chí rồi
sau trở thành hai người bạn, một tình bạn vĩ đại và cảm động, gắn quyện
tình đồng chí sắt son chung thuỷ tới mức mà sau khi Mác qua đời Ăngghen
đã đề xuất rằng những công trình sáng tạo riêng cũng như những công
trình hợp tác chung của hai người nên lấy tên là học thuyết Marx.
Lần đầu tiên, Mác gặp Ăngghen vào cuối tháng 11/1842, khi
Ăngghen trên đường sang Anh và ghé thăm ban biên tập tờ Nhật báo tỉnh
Ranh. Mùa hè năm 1844, Ăngghen đến thăm Mác ở Pa-ri. Hai ông đã trở
thành những người bạn cùng chung lý tưởng và quan điểm trong tất cả mọi
vấn đề lý luận và thực tiễn và đây được xem như là “ cuộc gặp mặt lịch
sử” của hai vĩ nhân. Hai ông trở thành đôi bạn hiếm có trong lịch sử.
Bằng cả cuộc đời, hai ông đã chứng minh rằng: từ mục đích lý tưởng
và học thuyết, họ đã sống vì nhau, cho nhau trọn c ả cuộc đời. Họ đã dành
cho nhau những gì tốt đẹp nhất, tôn trọng và quý mến nhau hơn cả chính
bản thân mình. Mác kể rằng: Ăngghen luôn đi trước Mác trên nhiều lĩnh
vực, mọi điều tiên đoán của Mác bao giờ xảy ra cũng muộn hơn ở
Ăngghen và Mác bao giờ cũng theo gót Ăngghen. Chính những nghiên cứu
phác thảo trong lĩnh vực kinh tế của Ăngghen đã làm cho Mác nảy ra ý
tưởng phải đi vào nghiên cứu môn kinh tế chính trị.
Không ai có thể phủ nhận thiên tài của Mác khi nghiên cứu kinh tế
chính trị học thể hiện ở bộ Tư bản vĩ đại nhưng cũng không ai có thể phủ
nhận ảnh hưởng to lớn và sự cộng tác của Ăngghen đối với Mác khi hoàn
thành tác phẩm đó. Hơn thế nữa, Vì lý do vật chất, trong lúc gia đình Mác
phải bôn ba từ nơi này đến nơi khác do sự truy lùng của chính quyền
đương thời, chính Ăngghen là người đứng ra lo chu toàn thu xếp gia đình
để Mác phần nào yên tâm nghiên cứu, Ăngghen đã phải làm nghề thư ký
11
hãng buôn trong gần 20 năm. Và cũng vì thế, có lần Mác chỉ vào bộ Tư
bản và nói rằng: Chính đây là của Ăngghen.
Mác cũng cho biết rằng Ăngghen chắc còn có thể sáng tạo thêm bao
công trình đồ sộ, nếu gần hai mươi năm ấy ông được tự do, không bị cái
nghề thư ký hãng buôn cầm tù khổ sai. Bởi lẽ, Ăng ghen là người có khối
óc bách khoa, sắc sảo, với sự hiểu biết phong phú lạ thường và khả năng
làm việc kỳ diệu. Mác ngưỡng mộ, tự hào và lấy làm thõa mãn về đạo đức,
tài trí của Ăng. Mác yêu mến Ăngghen hơn cả bản thân mình và luôn luôn
lo cho sức khoẻ của Ăngghen, sẵn sàng quên cả bản thân mình để bảo vệ
Ăngghen.
Còn Ăngghen, suốt cả cuộc đời đã hy sinh, giúp đỡ cho cả gia
đình Mác về vật chất lẫn tinh thần. Nếu không có sự giúp đỡ hết lòng của
Ăngghen thì Mác khó có điều kiện vật chất để hoàn thành những tác phẩm
đồ sộ của mình. Ăngghen luôn chăm lo cho Mác về mọi mặt, không những
về công việc, mà cả sức khoẻ và cuộc sống gia đình. Do điều kiện tài
chính khó khăn và do làm việc quá sức, Mác khó tránh khỏi bị ốm đau.
Mỗi lần Mác ốm, Ăngghen sốt sắng sưu tầm các loại sách báo nói về bệnh
tật và phương thức điều trị và tự mình trở thành bác sĩ điều trị cho Mác.
Ăngghen đã trở thành linh hồn của gia đình Mác và luôn đóng vai trò trung
tâm hòa giải những mâu thuẫn, là trọng tài trong các cuộc vui gia đình.
Ăngghen nuôi hầu hết các con của Mác và được họ xem như người cha thứ
hai của mình.
Nhưng không chỉ có thế, trên bình diện lý luận, ngoài những tác
phẩm riêng của mình, Ăngghen còn giúp đỡ Mác rất nhiều về mặt khoa
học. Mác dành cho bộ Tư bản bao nhiêu năm tháng của cuộc đời, bao
nhiêu sức lực và tâm huyết của mình. “Tư bản” là một t ác phẩm biểu hiện
trí tuệ tuyệt vời với trình độ hiểu biết phi thường. Chính Mác trước khi
xuất bản bộ Tư bản tập I đã đề nghị Ăngghen cùng đứng tên với tư cách
đồng tác giả nhưng Ăngghen đã khiêm nhường từ chối.
Sau khi Mác mất, chính sự uyên bác và sự mẫn cảm khoa học cùng
với đồng điệu về tư tưởng và tâm hồn, đã cho phép Ăng ghen soạn thảo hai
tập còn lại của bộ Tư bản đồ sộ, tác phẩm đó vẫn mang tên Mác và liền
mạch tư tưởng. Ngay khi Tư bản tập II và III được xuất bản, có người băn
khoăn hỏi Ăngghen sao không lấy tên mình, ông tuyên bố: “Phần ông
đóng góp như thế nào thì tuỳ độc giả nhận xét nhưng tư tưởng chủ đạo của
các tác phẩm ấy hoàn toàn là của bạn ông K.Marx”.
12
Khi Mác qua đời, có người từng hỏi Ăngghen, ông có thể nói tư
tưởng chủ đạo của học thuyết Mác là gì? Ăngghen đã không ngần ngại trả
lời “sự tự do của mỗi người là là điều kiện tạo nên sự tự do của xã hội”.
Sau khi Mác qua đời, Ăngghen là người duy nhất có quyền công bố
những tác phẩm của Mác nhưng cho đến trước khi trút hơi thở cuối cùng
ông vẫn nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng công lao sáng lập ra triết học và
khoa kinh tế chính trị học mácxit chủ yếu thuộc về Mác. Ăngghen đã đề
xuất rằng những công trình sáng tạo riêng cũng như công trình hợp tác
chung của hai người nên lấy tên là học thuyết Mác. Đối với Mác Ăngghen luôn tự cho mình chỉ là vai phụ. Còn bất cứ ở đâu và bất kỳ
trong vở diễn nào, Mác bao giờ cũng là kép chính. Tên tuổi của Ăngghen
vang lừng khắp thế giới vì nó luôn gắn liền với tên tuổi của Mác. Để đánh
giá về công lao của Ăngghen, Lênin viết: “Sau bạn ông là C.Mác,
Ăngghen là nhà bác học và người thầy lỗi lạc nhất của giai cấp ấp vô sản
hiện đại trong toàn thế giới văn minh. Từ ngày mà vận mệnh đã gắn liền
Mác với Ăngghen thì sự nghiệp suốt đời của hai người bạn ấy trở thành sự
nghiệp chung của họ. Cho nên muốn hiểu Ăngghen đã làm gì cho giai cấp
vô sản thì phải nhận rõ ý nghĩa của học thuyết và hoạt động của Mác đối
với sự phát triển của phong trào công nhân hiện đại ”.
Mác và Ăngghen không những để lại cho nhân loại một khố i lượng
tri thức khoa học khổng lồ mà các ông còn để lại một tấm gương sáng chói
về nhân cách, một tình bạn - tình đồng chí vĩ đại đáng để chúng ta học hỏi.
1.2.2. Những luận điểm khởi đầu
(Sự chuyển biến tư tưởng của Mác và Ăngghen từ chủ nghĩa duy
tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa xã hội khoa học)
Việc chính phủ Phổ đuổi Phơbách và cách chức giáo sư đại học của
Bau-e lãnh tụ của phái Hegel trẻ đã giúp cho Mác nhận ra một sự thật là
giảng đường đại học không phải là mãnh đất thuận lợi để công khai bày tỏ
quan điểm của mình. Việc Mác trở thành biên tập viên Báo Sông Ranh
(1842-1843) là một mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển đầu tiên của
Mác từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng, từ lập
trường dân chủ sang lập trường cộng sản. Với Mác rời bỏ nghề dạy học để
sang làm báo chí, sang hoạt động chính trị công khai là bước đi hợp quy
luật để “thay đổi bộ đồ khổ hạnh của thầy tu thành bộ đồ nhẹ nhàng hợp
thời trang” trên con đường đi tới “triết học bình thường ”.
Sự xuất hiện của Mác ở Báo Sông Ranh đã thổi một luồng khí mới
vào tờ báo này. Trái với những quy định truyền thống, Mác đã phơi bày
13
trên mặt báo không chỉ những vấn đề thường nhật của đời sống hàng ngày
mà cả những luận đề cốt lõi của triết học. Bởi theo Mác, “các nhà triết học
không mọc như nấm từ dưới đất lên, họ là sản phẩm của thời đại họ, là
những nhựa sống tinh tế nhất, quý giá nhất và chưa từng có của nhân dân
được chung đúc lại trong những tư tưởng triết học…”.
Điều đó cho thấy, Mác đã cảm nhận được vai trò của triết học trong
việc cải biến xã hội. Tuy vậy cũng mới chỉ dừng lại ở quan niệm đồng nhất
triết học với hoạt động sáng tạo của tư duy, xem hoạt động vật chất của
con người là năng lực của tư duy, vì vậy các luận điểm triết học không
nằm trong mối liên hệ với thực tiễn, còn ở trong cánh cửa của chủ nghĩa
duy tâm.
Chủ đề cơ bản và cuối cùng của những bài báo của Mác trên Báo
Sông Ranh là bảo vệ lợi ích và bênh vực quần chúng lao động. Mác lên án
dự luật xem người nông dân nhặt củi khô là phạm tội ăn cắp. Mác đứng về
phía những người nông dân trồng nho ở xứ Mô -den trước những phán
quyết hàm hồ của thế lực cường quyền.
Điều mà Mác gặt hái được trong những luận chiến để bảo vệ nhân
dân là nhà nước không phải là hiện thân của lý tính và tự do đạo đức như
quan niệm của Hegel.
Song song với việc bảo vệ lợi ích của những người nghèo, Mác còn
viết nhiều bài báo chống lại chế độ kiểm duyệt báo chí của nhà nước Phổ
và đấu tranh cho dân chủ và tự do. Theo Mác “Tinh thần của con người
phải được phát triển tự do phù hợp với những quy luật vốn có của nó và có
quyền truyền đạt cho những tinh thần khác cái mà nó đã đạt được, nếu
không thế thì dòng suối trong trẻo đầy sức sống sẽ trở thành ao nước tù
hôi thối”.
Sự phê phán và đấu tranh trên lĩnh vực báo chí c ủa Mác đã làm cho
nhà cầm quyền đương thời lo ngại bởi vì nó khơi dậy tinh thần cách mạng
của giới cần lao. Vì thế ngày 1/4/1843 chính phủ Phổ đã ra lệnh đình chỉ
hoạt động của tờ Báo Sông Ranh.
Thời gian làm việc ở Báo Sông Ranh tuy ngắn nhưng cũng giúp Mác
dần hiểu ra rằng không thể tiến hành đấu tranh chính trị, giải phóng quần
chúng lao động trong giới hạn pháp luật. Thực tiễn đấu tranh và bằng sự
suy nghĩ tìm tòi của mình đã đưa Mác đến ý thức rằng thắng lợi của cuộc
đấu tranh chỉ có thể có được khi tấn công vào mối quan hệ kinh tế-xã hội,
vào cơ sở hạ tầng mà nhà nước pháp quyền dựng lên trên đó. Không chỉ
vậy, thực tiễn Báo Sông Ranh còn giúp Mác khắc phục những ảnh hưởng
14
tiêu cực của chủ nghĩa duy tâm khách quan Hegel và đoạn tuyệt với phái
Hegel trẻ.
Năm 1841, Phơbách cho ra mắt cuốn Bản chất của đạo Cơ đốc, tác
phẩm này đã tác động mạnh mẽ đến ý thức triết học của Mác. Ông khẳng
định: “Đối với anh không có con đường nào khác để đi tới chân lý và tự do
ngoài con đường thông qua suối lửa”. “Phơbách là người chuộc tội của
thời đại chúng ta”. Sức hút của những luận điểm triết học của Phơbách đã
làm cho Mác, Ăngghen trở thành môn đồ của ông. Tuy nhiên, ngay từ đầu
Mác đã không đồng tình với đạo đức triết học của Phơbách vì ông đã tìm
kiếm ý nghĩa của đạo đức trong tôn giáo.
Mác cũng đã nhận thấy triết học của Phơbách thắm đượm màu sắc tự
nhiên chủ nghĩa và thoát ly chính trị. Trái với quan điểm này, Mác cho
rằng “triết học phải liên kết với chính trị, phải là cơ sở lý luận để cải tạo
thế giới bằng thực tiễn cách mạng”.
Từ tháng 5 đến tháng 10/1843 Mác bắt tay vào viết cuốn Góp phần
phê phán triết học pháp quyền của Hêgel.
Để viết cuốn này, Mác đã tập trung nghiên cứu về lịch sử hiện đại,
mổ xẻ, phân tích cách mạng tư sản Pháp (1789-1794) từ nhiều phương
diện khác nhau; tìm đọc các tác phẩm của các nhà duy vật danh tiếng như
Rút-xô, Mông-te-xkiơ và đặc biệt là rà soát lại triết học pháp quyền của
Hêgel.
Điều quan trọng của tác phẩm này là Mác đã đặt lên bàn cân của
thực tiễn để giải quyết quan niệm về nhà nướ c của Hegel. Mác chứng minh
rằng tư tưởng về nhà nước của Hegel chỉ là sự miêu tả và lý tưởng hóa nhà
nước đương thời chứ không phải là những lý luận logic được rút ra từ việc
phân tích bản chất nhà nước trong lịch sử. Hegel đã cố tình đánh lận con
đen, biến nhà nước đương thời thành bản chất của nhà nước nói chung.
Nếu như Hegel cho rằng nhà nước là một cơ cấu tối cao và xem “ xã
hội công dân” là sự tha hóa của nhà nước thì Mác khẳng định nhà nước là
con đẻ của xã hội công dân. Nếu như Hegel say sưa tuyên truyền chức
năng của nhà nước là điều hòa, giải quyết các mâu thuẫn thì Mác chỉ rõ đó
là luận điểm không hợp lý vì các mặt đối lập thực sự đấu tranh với nhau
thì không thể điều hòa được.
Những luận đề phản bác của Mác ở trong Góp phần phê phán triết
học pháp quyền của Hêgel đã xác định độ chín và sự trưởng thành lập
trường triết học của Mác. Mác đã tiến gần đến quan niệm duy vật về đời
sống xã hội và đã có những dấu hiệu vượt lên trên mọi tư tưởng triết học
và xã hội học tiền bối.
15
Năm 1844, Mác viết Bản thảo kinh tế triết học.
Tác phẩm này là kết quả đầu tiên của việc nghiên cứu kinh tế chính
trị học tư sản Anh trên nền tảng duy vật biện chứng. Mác đã chỉ rõ tính
chất hạn hẹp của các nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh. Họ là những học
giả hết sức giáo điều, mâu thuẫn và mơ hồ khi khẳng định tính chất vĩnh
hằng của chế độ tư hữu. Một mặt họ cho rằng tư hữu là thuộc tính của con
người nhưng mặt khác họ lại phủ nhận quyền tư hữu ở những người vô
sản. Đối chọi với quan niệm đề cao quyền tư hữu, Mác khẳng định: “X óa
bỏ tư hữu có nghĩa là giải phóng hoàn toàn mọi cảm giác và thuộc tính con
người”.
Tuy vậy, Mác cũng hết sức khách quan khi đánh giá những giá trị
tích cực mà kinh tế chính trị cổ điển Anh mang lại. Kế thừa trên tinh thần
phê phán, Mác nhận định lao động đã sáng tạo ra con người, và xã hội
loài người. Lao động làm cho “những lực lượng bản chất của loài người”
được phát triển và hoàn thiện.
Sự khác biệt giữa Mác và Phơbách trong việc lý giải cảm giác của
con người là ở chỗ: Phơbách cho rằng sự khác biệt về chất (ông gọi là ưu
việt) của con người so với cảm giác của loài vật là do đặc tính tự nhiên
của ý thức con người quy định, còn theo Mác nhờ có hoạt động vật chất
mà cảm giác và tư duy con người phát triển.
Bên cạnh chủ đề chủ yếu của tác phẩm là khẳng đị nh vai trò to lớn
của lao động sản xuất trong sự phát triển của con người và xã hội loài
người. Mác còn làm sáng tỏ mặt tiêu cực của lao động là chiếm giữ mất tất
cả sức lực và thời gian của con người, nô dịch con người và là nguồn gốc
của sở hữu tư nhân, của giai cấp và bóc lột. Mác gọi khía cạnh này của lao
động là lao động bị tha hóa.
Lao động bị tha hóa là thứ lao động mà sản phẩm do con người làm
ra lại trở thành lực lượng thống trị chính bản thân họ. Lao động bị tha hóa
làm cho người sản xuất đánh mất tính người, đánh mất cuộc sống đồng
loại, phá vỡ quan hệ giữa người và người. Nhưng lao động bị tha hóa
không thể có đời sống trường tồn, một khi chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất bị thủ tiêu, thì điều kiện sinh tồn của lao động bị tha hóa đã bị
loại bỏ. Việc thủ tiêu lao động bị tha hóa sẽ tạo ra cơ sở để thủ tiêu sự tha
hóa trong đời sống chính trị và tinh thần của xã hội. Bản chất của hoạt
động này không gì khác hơn là cải tạo xã hộicông nghiệp đối với các quan
hệ xã hội.
16
Phạm trù tha hóa không phải đến Mác là người sử dụng đầu tiên, vì
trước khi xuất hiện trong Bản thảo kinh tế triết học thì Hegel và Phơbách
đã dùng trong các tác phẩm của mình.
Hegel xem hiện tượng của tự nhiên và xã hội là sự tồn tại tha hóa
của ý niệm tuyệt đối và quy toàn bộ vấn đề phát triển vào việc khắc phục
sự tha hóa ấy. Tính hợp lý trong quan niệm của Hegel là ông đã nhìn thấy
tính khách quan và tính mâu thuẫn trong hoạt động của con người, trong
sự vận động và phát triển của xã hội ở quan niệm thần bí duy tâm này.
Tha hóa ở Phơbách là tiền đề để phê phán tôn giáo. Ông coi tôn giáo
không phải đơn thuần là một sự bịa đặt, mà là sản phẩm độc đáo, là sự tha
hóa bản chất của con người. Sự tha hóa này lại trở thành cái quy định tất
cả những hình thức tha hóa khác của con người trong đời sống hiện thực
của nó và là gốc rễ của áp bức giữa con người với con người. Để giải
quyết tình trạng đó, Phơbách cho rằng cần phải thủ tiêu tôn giáo hiện hành
để xây dựng một tôn giáo mới, ở tôn giáo này con người đóng vai thay
Thượng đế.
Đứng trên lập trường duy vật, Mác đã phê phán quan niệm của Hegel
và Phơbách về tha hóa và phương thức khắc phục sự tha hóa. Từ sự phê
phán đã toát lên tinh thần xác lập giá trị chân thực của lao động, cách nêu
vấn đề một cách biện chứng đối với sự phát sinh, phát triển cũng như sự
khắc phục những mâu thuẫn đối kháng vốn có của quá trình sản xuất vật
chất mà con người, xã hội đang tiến hành không ngừng nghỉ để xã hội tồn
tại và phát triển.
Tuy nhiên, ở thời điểm này Mác vẫn chưa hoàn toàn loại bỏ được
ảnh hưởng của công nghiệpduy vật nhân bản Phơbách, do vậy khái niệm
tha hóa trong Bản thảo kinh tế triêt học không hoàn toàn đồng nhất về mặt
ý nghĩa với nội dung mà khái niệm này biểu thị những quá trình khách
quan của sự phát triển lịch sử xã hội. Cũng như vậy, các luận điểm về công
nghiệpduy vật lịch sử, công nghiệpxã hội khoa học có những dị biệt nhất
định so với nội dung được biểu đạt trong các khái niệm ở thời kỳ Mác
trưởng thành.
Bản thảo kinh tế triết học là một tác phẩm còn để lại một khoảng
trống về phần phê phán triết học Hegel viết chưa xong. Nhưng từ những
nội dung đã có cũng đã đủ dữ kiện để phác thảo nên những đánh giá của
Mác về Hegel.
Bằng những vấn đề được nêu lên trong Bản thảo kinh tế triết học
năm 1844 đã khẳng định đây là một mốc quan trọng tro ng quá trình hình
17
thành các quan niệm triết học của Mác nói riêng và khởi thảo các nguyên
lý nền tảng của chủ nghĩa Mác nói chung.
Năm 1845, Ăngghen xuất bản Tình cảnh giai cấp công nhân Anh.
Trong đó, Ăngghen đặc biệt quan tâm nghiên cứu sự phát sinh, ph át
triển và thực trạng của giai cấp vô sản Anh. Ông đi đến kết luận: sự đấu
tranh chống chế độ hiện hành của những người vô sản là một tất yếu khách
quan vì hiện thực kinh tế-xã hội và đời sống của họ đã buộc họ phải đấu
tranh. Chính vì thế giai cấp vô sản không chỉ là giai cấp khổ đau mà còn là
giai cấp đang tranh đấu. Ăngghen đã phát hiện ra vai trò lịch sử của giai
cấp vô sản trong việc xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, đồng thời ông cũng chỉ rõ
sự cần thiết phải hợp nhất giai cấp vô sản thành 1 giai cấp độc lập; với
những lợi ích riêng và các nguyên tắc độc lập với hệ tư tưởng của giai cấp
đang thống trị xã hội.
Như vậy, đến cuối năm 1844, mặc dù hoạt động độc lập nhau nhưng
Mác và Ăngghen đã đi đến những quan điểm giống nhau về các nguyên lý
cơ bản của triết học, về đời sống xã hội và về nhiệm vụ của giai cấp vô
sản.
Những thành quả về mặt tư tưởng mà hai ông gặt hái được đã đánh
dấu sự chuyển hướng hoàn toàn của Mác & Ăngghen từ chủ nghĩa duy tâm
sang chủ nghĩa duy vật biện chứng & từ lập trường dân chủ cách mạng
sang lập trường chủ nghĩa xã hội khoa học.
Nếu như trong phần trước, khi bàn về sự chuyển biến tư tưởng của
Mác và Ăngghen từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa xã hội khoa học. Mác và Ăngghen
viết riêng các tác phẩm của mình.
- Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen - Mác 1843
- Bản thảo kinh tế triết học - Mác 1844
- Tình cảnh giai cấp công nhân Anh - Ănghen 1845
Như vậy, đến cuối năm 1844, mặc dù hoạt động độc lập nhau nhưng
Mác và Ăngghen đã đi đến những quan điểm giống nhau về các nguyên
lý cơ bản của triết học, về đời sống xã hội và về nhiệm vụ của giai cấp vô
sản.
Những thành quả về mặt tư tưởng mà hai ông gặt hái được đã đánh
dấu sự chuyển hướng hoàn toàn của Mác & Ăngghen từ chủ nghĩa duy
tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng & từ lập trường dân chủ cách mạng
sang lập trường chủ nghĩa xã hội khoa học.
18
Từ chỗ chuyển hướng lập trường và tư tưởng đó, Mác và Ănghen đã
đi đến khẳng định những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
1.2.3. Khẳng định những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
Từ tháng 9/1844 đến 2/1848 là thời gian Mác và Ăngghen cộng tác
cùng nhau để từng bước xây dựng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
(- tháng 9/1844 Mác và Ăngghen bắt đầu viết chung tác phẩm Gia
đình thần thánh hay là phê phán sự phê phán có tính phê phán chống
Brunô Baue và đồng bọn.
- Tháng 2/1848 lần đầu tiên Tuyên ngôn của Đảng cộng sản ra mắt
bạn đọc).
Quá trình đó được thể hiện qua các tác phẩm tiêu biểu sau:
1. Gia đình thần thánh
Đây là tác phẩm đầu tiên do Marx và Engels cộng tác viết ra. Tác phẩm này
được viết vào khoảng tháng 9 đến tháng 11/1844 và xuất bản vào tháng 2/1845.
(C. Mác - Ph. Ăng-ghen Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, 1995, t.2, tr.13-316)
Nguyên nhân:
Có thể nói, một trong những nguyên nhân thúc đẩy Mác và Ăngghen
nhanh chóng hoàn thành tác phẩm viết chung đầu tiên Gia đình thần
thánh….là do Baue và những đồng phái của ông ta đã sùng bái công cụ
phê phán đến mức vượt khỏi những biểu hiện của tư duy bình thường.
Mác viết: “Baue mất trí về bệnh phê phán đến nỗi cách đây không
lâu đã viết cho tôi như sau: Không phải là chỉ cần phê phán xã hội những
bọn sở hữu có đặc quyền đặc lợi… mà (trước đó chưa ai nghĩ tới) cần phê
phán cả giai cấp vô sản nữa”.
Baue đã chứng minh rằng sự phê phán của những triết gia xuất sắc là
động lực duy nhất thúc đẩy lịch sử phát triển. Còn giai cấp vô sản chỉ là
đám người ô hợp, không có tinh thần phê phán - và họ cũng là đối tượng
của sự phê phán.
Sự ra đời của Gia đình thần thánh trước hết là nhằm phản bác lại
quan niệm đó của Baue. Như Lênin đã chỉ rõ: “Gia đình thần thánh là một
cái tên gọi chế giễu những nhà triết học như anh em Baue cùng những môn
đồ của họ. Trong cuốn sách này, Marx và Engels đã bác bỏ anh em Bauer và
19
những người khác thuộc phái Hegel trẻ, đồng thời cũng phê phán cả triết học duy
tâm của chính Hegel.
ND1- Ngọn lửa đầu tiên của sự phê phán của Gia đình thần thánh là
tập trung vào cơ sở lý luận của phái Hegel trẻ, những người theo chủ nghĩa
duy tâm của Hegel. Nhưng việc phê phán này chỉ như là mạch dẫn để
chuyển thành sự phê phán triết học duy tâm nói chung. Theo Mác và
Ăngghen:
+ chủ nghĩa duy tâm vì muốn đi tìm bản chất tự nhiên ở bên ngoài
tự nhiên, bản chất con người ở bên ngoài con người,
+ Tìm đối tượng triết học ở bên ngoài thế giới hiện thực nên đã quy
thế giới thành những phạm trù logic trừu tượng. Đó là lý do vì sao chủ
nghĩa duy tâm lại khẳng định thế giới hiện thực chỉ là biểu hiện bên ngoài
của một ý thức (ý niệm)- Heghen - tồn tại độc lập nào đó.
Mác và Ănghgen khẳng định: toàn bộ chủ nghĩa duy tâm được xây
dựng trên tính chất vô căn cứ về mặt lý luận, trở thành vô dụng trong cuộc
đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp và không thể đem lại bất cứ ý nghĩa
nào khác cho đời sống xã hội.
+ Đối với phái Hegel trẻ, mặc dù họ đã loại bỏ ý niệm tuyệt đối của
Hegel, nhưng họ vẫn là những người tôn sùng và tuyệt đối hóa vai trò của
ý thức. Họ đã biến ý thức thành thần thánh duy nhất. Mác và Ăngghen đã
bác bỏ kiểu suy luận tư biện thuần túy này.
+ Tiếp theo, Mác đã phản đối quan niệm của Baue xem lịch sử chỉ là
hoạt động tinh thần của những triết gia phê phán và tôn trọng phê phán.
Mác vạch rõ: khác với “những nhà phê phán có tính chất phê phán”,
những người công nhân hiểu rằng không thể thoát khỏi ách thống trị của
bọn chủ bằng “tư duy thuần túy”. Họ cảm thấy đau khổ bởi sự khác nhau
giữa tồn tại và tư duy, giữa ý thức và cuộc sống. Họ biết rằng sở hữu, tư
bản, tiền bạc, lao động làm thuê,… hoàn toàn không phải là ảo ảnh của trí
tưởng tượng mà là sản phẩm rất thực tế, rất cụ thể của sự tha hóa của công
nhân và vì thế chúng cũng phải được xóa bỏ bằng phương thức thực tế và
cụ thể”.
Trái với thái độ khinh mạn, phủ nhận vai trò của quần chúng đối với
sự phát triển của lịch sử, Mác & Ăng khẳng định: quần chúng lao động,
nhất là giai cấp vô sản, đó là những lực lượng cách mạng, là động lực
tạo nên sự biến đổi và phát triển của lịch sử. “Hoạt động lịch sử càng đi
sâu thì khối quần chúng lấy hoạt động đó làm sự nghiệp của mình cũng sẽ
do đó mà lớn lên”. Đây chính là một trong những nguyên lý quan trọng
của chủ nghĩa duy vật lịch sử được xác lập trong tác phẩm này.
20
- Xem thêm -