ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
PGS.TS. TRẦN NGỌC NGOẠN
GIÁO TRÌNH
CÂY SẮN
NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP
HÀ NỘI - 2007
1
LỜI NÓI ĐẦU
Quá trình chuyển dịch nền kinh tế theo hướng sản xuất
hàng hóa đã tạo nên sự cạnh tranh giữa các loại cây trồng.
Đặc biệt từ sau năm 2000, với định hướng ngành nông
nghiệp sẽ có thêm một số nông sản tham gia vào xuất khẩu
(mía đường, vừng, sắn, măng tre, bột giấy, thịt lợn) đã tác
động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu kinh tê nông nghiệp
nông thôn ở nhiều vùng trong cả nước. Sản xuất sắn của
nước ta đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới.
Cây sắn hiện đang chuyển đổi nhanh chóng từ cây lương
thực truyền thống thành cây công nghiệp đánh dấu bước
phát triển mới của cây trồng này ở nước ta. Việt Nam đã
trở thành nước điển hình của châu Á và thế giới về việc
tăng nhanh năng suất và sản lượng sắn,toàn quốc hiện có
53 nhà máy chế biến tinh bột sắn với tổng công suất ước
đạt 2,2 - 3,8 triệu tấn củ tươi/ năm tạo thuận lợi cho sản
xuất sắn.
Giáo trình Cây sắn được biên soạn nhằm đáp ứng nhu
cầu cấp thiết phục vụ công tác giảng dạy và học tập của
giáo viên và sinh viên ngành nông học, đông thời là tài liệu
tham khảo cho các cán bộ nghiên cứu và khuyên nông.
Khi biên soạn giáo trình này, chúng tôi đã cố gắng
tham khảo các tư liệu và cập nhật các thông tin về thành
tựu nghiên cứu và phát triển cây sắn trên thế giới và ở
nước ta. Song do thời gian và trình độ có hạn nên chắc
chắn không tránh khỏi những thiến sót. Chúng tôi rất mong
nhận được các ý kiên góp ý của các bạn đồng nghiệp và
các độc giả
Xin trân trọng cảm ơn
Tác giả
2
Chương 1
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ TRIỂN VỌNG
CỦA CÂY SẮN
1.1. Nguồn gốc, phân loại
1.1.1 Nguồn gốc
Lịch sử tiến hoá của cây sắn cũng như các cây có củ
khác là rất khó xác định được chính xác nguồn gốc phát
sinh. Bởi vì những di chỉ khảo cổ còn lại đối với các bộ phận
của cây có bột rất hiếm hoi, đặc biệt ở vùng đất thấp nhiệt
đới. Các nghiên cứu từ các chế tác của Côlômbia và
Vênêzuêla đã đưa ra bằng chứng rằng nghề trồng sắn có
cách đây từ 3000 đến 7000 năm (Reichel- Dolmantoff, 1957
và 1965; Rouse và Cruxent, 1963).
Đến cuối thế kỷ thứ 1 8, các tác giả, đặc biệt là Crantz (
1766) cho là tất cả những loài của chi Manihot đều cô nguồn
gốc từ châu Mỹ nhiệt đới. Tuy nhiên, năm 1772 Raynal đưa
ra ý kiến về nguồn gốc châu Phi, sau đó Humboldt, Brown,
Moreaudejonnes, Saint-Hilaire và De Candolle khẳng định
nguồn gốc châu Mỹ của cây trồng này. Năm 1886, đầu tiên
De Candolle coi Braxin là trung tâm phát sinh của loài.
Vavilov bênh vực quan điểm đó- giả thuyết gốc của ông là
trung tâm phát sinh của một cây trồng là nơi loài cây đó có
số lượng các chủng loại phong phú nhất. Vùng Đông Bắc
Braxin có sự đa dạng, phong phú về sắn trồng và nhiều loài
của chi Manihot. Tuy nhiên nguồn gốc Braxin cũng chỉ dựa
trên những bằng chứng gián tiếp về sự có mặt của sắn vào
những thời kỳ không lâu lắm: Di vật trên đảo Mario ở cửa
sông Amazon vào khoảng năm 110 đến 1300 sau công
nguyên (Rogers,1965), di tích còn lại của các cái rây bột thế
kỷ thứ 16 và dấu hiệu đã gặp ở nơi hợp lưu hai con sông
Ore'noque và Rio Ventuari vào năm 450 sau công nguyên.
Những nhân tố lịch sử và khảo cổ học cho phép nghĩ tới hai
trung tâm phát sinh khác (Roger, 1963, 1965). Một trung
3
tâm có thể ở Mêhicô và Trung Mỹ (Goatemala và
Hondurat). Bằng chứng là những di vật tìm thấy trong dãy
núi Tamoulipas, phía Đông Bắc Mehicô có từ năm 200 trước
công nguyên và sự phát hiện ra những hạt tinh bột trong
những phân hoá thạch có tuổi từ năm 200 đến 900 trước
công nguyên và được tìm thấy trong những hang động của
thung lũng Têhucan, bang Pueblo, Mêhicô. Ngoài ra lịch sử
bộ lạc Maya chỉ rõ sắn đối với họ quan trọng hơn là người ta
vẫn tưởng.
Một trung tâm khác có thể ở vùng duyên hải khô Nam
Mỹ, đặc biệt là ở các trảng cỏ Vênêzuêla. Người ta tìm thấy
những bằng chứng củ sắn ở vùng ven biển Peru 2000 năm
trước công nguyên và sự tồn tại của những lò nướng bánh
sắn trong phức hệ Malambo, ở phía Bắc Côlômbia niên đại
1200 trước công nguyên cùng với những di tích khảo cổ học
khác ở vị trí địa hình Rancho peludo (hồ Maracaibo
Venêzuêla) niên đại 2700 trước công nguyên.
J.C- Leon cho rằng việc buôn bán bột sắn đã nhộn nhịp
ở phía bắc Nam Mỹ 1000 hay 2000 năm trước công nguyên.
Những nghiên cứu gần đây cho rằng cây sắn là cây đa nguồn
gốc phát sinh (Renvoize, 1973). Spath (1973) cây sắn có 4
trung tâm khởi nguyên đó là Guatemala, Mêhicô, vùng
duyên hải Savana Tây Bắc của Nam Mỹ, miền Đông của
Bolivia và miền
Tây Bắc của Achentina và miền Đông của Braxin. Một
số tác giả nghĩ rằng vì sắn ngọt không yêu cầu phải chế biến
một cách đặc biệt trước khi ăn nên được thuần hóa trước
tiên. Sự phân bố của sắn đắng và sắn ngọt hiện nay cho thấy
rằng sắn đắng nhiều ở phía Đông Nam Mỹ, đặc biệt ở vùng
Amazon và sắn ngọt nhiều ở phía Tây và ở trung tâm Nam
Mỹ, ở Trung Mỹ và Mêhicô. Phân bố này không phản bác
lại giả thuyết nêu trên nhưng cũng không chứng minh được
là sắn được thuần hóa ở những nơi tập quán trồng sắn ngọt
hiện nay. Thực ra, người ta trồng sắn ngọt khi sắn được coi
như một loại rau bổ sung và trồng sắn đắng khi sắn là cây
4
lương thực chính. Dựa trên những nghiên cứu trên những
phạm vi rộng từ Nam Mỹ đến Achentina, Rogers và Appan
(1973) đã xác định được trong chi Manihot có 98 loài sắn
hoang dại phân bố rộng khắp vùng thấp nhiệt đới của Châu
Mỹ. Nassar (1978) xác định có 4 trung tâm phát sinh loài sắn
hoang dại: Vùng trung tâm của Braxin (Miền nam Goias và
miền tây Minas Gerais) có 38 loài; miền Tây Mêhicô có 19
loài và 2 trung tâm phụ là vùng Đông Bắc Braxin và miền
tây Mâm Grosso và miền Đông Bolivia (Hình l). Roger
(1963) đã xây dựng một bản đồ phân bố các loài của chi
Manihot ở Trung Mỹ và Nam Mỹ, ở phía Tây và Tây Nam
Mêhicô cũng như ở bờ biển Thái Bình Dương của các nước
Trung Mỹ.
Tóm lại, còn có những điều không chắc chắn về vấn đề
trung tâm phát sinh cây sắn. Các công trình nghiên cứu gần
đây của nhiều tác giả kết luận rằng: Cây sắn có nguồn gốc
phức tạp và có 4 trung tâm phát sinh chính đó là ở Braxin có
2 trung tâm còn lại là ở Mêhicô và Bolivia. Sắn đã được
trồng cách đây khoảng 3000-7000 năm (Reichel Dolmantoff
1957 và 1965; Rouse và Cruxent, 1963).
1.1.2. Phân loại
Chi Manihot bao gồm những cây có hoa, hạt kín, có hai
lá mầm, họ thầu dầu. Hình như Bauhin là người đầu tiên
(năm 1651) đã dùng danh từ Manihot để chỉ chi này, khi
ông mô tả một mẫu cây đã được một thày tu Pháp A. Thevet
mang từ Braxin về. Ông đặt tên loài là Manihot Theveti. Có
thể cho rằng loài cây đó hiện nay người ta gọi tên là
Manihot esculenta Crantz.
Năm 1776 Crantz công bố một sự mô tả loài với tên
Manihot esculenta, căn cứ vào một mẫu cây Merian mang
về từ Surinam năm 1726. Sau đó nhiều tác giả đã nghiên
cứu về chi Manihot với các cách phân nhóm khác nhau. Đến
năm 1938, Cifferi trở lại cách gọi tên của Crantz. ông dùng
lại tên loài M esculenta và không còn phân biệt giữa sắn
đắng và sắn ngọt. ông cung cấp một quan niệm về các giống
5
trồng phổ biến (cultivar).Bảng phân loại cuối cùng của
Rogers và Appan (1973) là kết quả của một công trình
nghiên cứu rất đầy đủ về chi Manihot, tiến hành trong 20
năm với phương pháp phân loại số lượng. Chi Manihot
thuộc họ thầu dầu, có tới hơn 300 chi và 8000 loài hầu hết là
cây nhiệt đới. Đặc điểm của họ thầu dầu là thường hay có
mạch.nhựa mủ. Chi Manihot thuộc nhóm Manihotae. Tất cả
các loài trong chi đều có số lượng nhiễm sắc thể 2n= 36.
Rogers và Appan (1973) đã xây dựng một bảng phân
loại cho 98 loài, phân thành 17 nhóm. Sự nhận dạng các loài
và các nhóm dựa vào sự phân tích nhiều mặt của nhiều đặc
điểm hình thái ở các bộ phận trên mặt đất. Nhờ vào bảng
phân loại trên người ta đã lập được một bảng nhận dạng các
loài trong chi.
1.2. Sự phát triển của cây sắn trên thế giới
Khi khám phá ra châu Mỹ, cây sắn vẫn chưa hề được thế
giới biết đến. Những người Bồ Đào Nha đến lập nghiệp đầu
tiên ở Braxin thấy người da đỏ ở Braxin đã trồng sắn. Cây
sắn được người Bồ Đào Nha du nhập vào châu Phi vào
khoảng giữa thế kỷ 16. Tài liệu đầu tiên nói về cây sắn là
của Barre và Thevet viết vào năm 1558. Vào thời kỳ đó sắn
chỉ trồng ở các khu di dân người Bồ Đào Nha ở vịnh BeninSao Tome, Principe và cửa sông Côngo. Thế kỷ 17 nghề
trồng sắn chỉ tăng một cách rất chậm chạp, lúc đầu ở vùng
lòng chảo Côngo (Zaire, bộ lạc Bushongo ở Kassai 1650), ở
Angôla (1614 đến 1648) và ở bờ biển Ghinê (1650). Đáng
chú ý là ở châu Phi và châu Mỹ người ta trồng sắn đắng ở
các vùng rừng coi sắn là một nguồn thực phẩm chính và
trồng các giống sắn ngọt ở các vùng mới, coi sắn là nguồn
thực phẩm bổ sung.
Ở ấn Độ Dương sắn được du nhập vào đảo Bourbon và
Ilede France (bao gồm Reunion và Maurice) vào các năm
1738 và 1739. Từ đó sắn được đưa sang Madagascar trồng ở
Imerina năm 1875, sang Srilanca năm 1786 rồi từ đó sang
Calcutta năm 1794. Hình như cũng từ các đảo ở ấn Độ
6
Dương sắn đã được đem vào trồng ở các nước phía Đông
châu Phi.
Ở châu á, ngoài con đường du nhập vào Srilanca và
Calcutta vào cuối thế kỷ 18, hình như sắn đã được đưa vào
trồng trước đó (thế kỷ 16) bởi người Bồ Đào Nha ở Goa (ấn
Độ) và người Tây Ban Nha ở Philippin, từ đó sắn mới đem
trồng ở Inđônesia cuối thế kỷ 18. Cuối cùng sắn được đem
vào trồng ở úc đầu thế kỷ 20. Cũng như châu Phi, nghề trồng
sắn mới bắt đầu trở nên quan trọng vào thế kỷ 1 9.
1.3. Tình hình sản xuất sắn
1.3.1. Sản xuất sắn trên thế giới
Ngày nay, cây sắn được trồng từ 30 độ vĩ Nam đến 30
độ vĩ Bắc ở 89 nước nhiệt đới thuộc châu Mỹ, châu Phi và
châu Á- Thái Bình Dương. Từ năm 1961 đến nay diện tích
và năng suất sắn trên thế giới có xu hướng gia tăng. Theo
thống kê của FAO, năm 2005 diện tích sản xuất sắn trên toàn
thế giới đạt 18,63 triệu ha, năng suất bình quân 10,94 tấn/ha,
sản lượng đạt 203,86 triệu tấn. Diện tích, năng suất và sản
lượng sắn thế giới có chiều hướng gia tăng trong 45 năm qua
1961 -2005 (Bảng 1.1 ). Trong 45 năm (1961 - 2005 ) diện
tích trồng sắn ở trên thế giới sắn tăng 9,49 triệu ha (l03,8%),
tăng bình quân hàng năm tăng 2,3%, tăng mạnh nhất là trong
giai đoạn 1961 - 1991 tăng 71,4%.
7
Bảng l.l: Diện tích, năng suất, sản lượng sắn trên thế giới
(1961-2005)
Năm
1961
1991
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Diện tích
(triệu ha)
9,14
15,67
16,78
16,43
16,25
16,05
16,56
16,56
16,86
17,17
17,31
17,59
18,51
18,63
Năng suất
(tấn/ha)
8,00
9,80
9,80
9,84
9,75
10,06
9,90
10,31
10,70
10,73
10,61
10,79
10,94
10,94
Sản lượng
(triệu tấn)
71,02
153,69
164,59
161,79
158,51
161,60
164,10
170,92
177,89
184,36
183,82
189,99
202,64
203,86
Nguồn: 1961: Underground Crops, 1985; 1991-2005: FAOSTAT, 2006
Không chỉ tăng lên về diện tích mà năng suất và sản
8
lượng sắn trên thế giới cũng tăng. Năng suất tăng 36,75%,
sản lượng tăng 178,73%. Có được kết quả đó là do: Chiến
lược phát triển lương thực toàn cầu thực sự đã tôn vinh giá
trị của cây sắn là một trong những cây lương thực dễ
trồng, thích hợp với đất nghèo dinh dưỡng và là cây công
nghiệp có khả năng cạnh tranh cao đối với nhiều cây trồng
khác.
Hiện nay có 89 nước trên thế giới trồng sắn, trong đó
22 nước đạt sản lượng sắn hàng năm hơn 1 triệu tấn. Châu
Phi chiếm 53,42% sản lượng sắn của thế giới, sau đó là
châu Á chiếm 29,12% và Châu Mỹ Latinh và vùng Caribe
chiếm 17,52%. (Bảng l.2).
Bảng l.2: Diện tích, năng suất, sản lượng sắn của các
nước đạt trên 1 triệu tấn trên thế giới năm 2004
Vùng trồng
Toàn thế giới
Châu Phi
+ Nigiêria
+ Cônggô
+ Ga na
+ Tandania
+ Môdămbích
+ Ănggola
+ U gan đa
+ Bê nanh
+ Mali
+ Ma đa gaxca
+ Camơ rum
+ Cốtđi Voa
+ Ghinê
Châu Á
Diện tích
(1.000 ha)
18.511
12.252
4.118
1.850
783
660
1.050
640
407
300
150
352
145
300
270
3.515
Năng suất
(tan/ ha)
10,94
8,82
9,27
8,08
12,42
10,43
5,85
8,75
13,51
13,33
17,06
6,21
13,44
5,00
5,00
16,76
Sản lượng
(triệu tấn)
202,64
108,10
38,17
14,95
9,73
6,89
6,15
5,60
5,50
4,00
2,55
2,19
1,95
1,50
1,35
58,92
+ Thài Lan
+ Indonesia
+ Ấn Độ
+ Việt Nam
+ Trung Quốc
+ Philippines
1.050
1.267
240
370,5
250
205
19,42
15,19
27,91
14,50
16,79
7,99
20,40
19,26
6,70
5,37
4,20
1,64
9
Châu Mỹ
+ Braxin
+ Paraguay
+ Colombia
2.728
1.773
306
191
12,99
13,55
17,97
11,56
35,44
24,03
5,50
2,21
Nguồn: FAOSTAT, 2005
Bảng 1.3. Diện tích, năng suất, sản lượng của một số cây
trồng chính ở Việt Nam từ năm 2001 đến 2004
Cây
trông
Lúa
Ngô
Sắn
Khoai
lang
Diện tích
(1.000 ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(1.000 tấn)
Diện tích
(1.000 ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(1.000 tấn)
Diện tích
(1.000 ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(1.000 tấn)
Diện tích
(1.000 ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(1.000 tấn)
2001
2002
2003
2004
7.492
7.504
7.449
7.400
4,28
4,59
4,63
4,79
32.065
34.443
34.488
35.446
729
776,8
909,8
900,4
2,96
2,78
3,20
3,487
2.158
2160
2.911
3140
292,3
329,9
300,0
370,0
12,00
13,50
15,20
14,49
3.508
4.454
4.560
5.361
244
237
219
220
6,76
7,17
7,24
7,50
1.649
1.699
1.586
1.650
Nguồn: FAOSTAT, 2005
1.3.2. Sản xuất sắn ở Việt nam
Đến nay chưa có tài liệu minh chứng về sự du nhập
10
của cây sắn vào Việt Nam. Song đã từ lâu cây sắn đã trở
thành cây có củ đứng hàng đầu về diện tích trồng trọt và
sản lượng trong số các cây có củ ở nước ta.
Việt Nam là nước nông nghiệp với dân số trên 80 triệu
người. Trong đó, hiện có khoảng 5% hộ đói và 20% hộ
nghèo. Cây sắn là nguồn thu nhập quan trọng của các hộ
nông dân nghèo. Ở miền Bắc, sắn được trồng trên vùng
đồi và trung du với diện tích khá lớn nhưng không tập
trung, sản phẩm của sắn chủ yếu là sắn lát phơi khô hoặc
tiêu thụ tươi, chăn nuôi và một phần làm lương thực. Cây
sắn là một trong bốn cây lương thực chính, có vai trò quan
trọng trong chiến lược an toàn lương thực quốc gia sau lúa
và ngô (Bảng 1.3).
Trước đây, nhân dân ta trồng sắn chủ yếu để sử dụng
làm lương thực. Đã có những thời kỳ diện tích sắn của Việt
Nam đứng vào hàng thứ 7 trên thế giới. Và sắn được trồng ở
tất cả các vùng trong cả nước. Quá trình phát triển cây trồng
này có nhiều biến động về diện tích, Sau ngày giải phóng
miền Nam, cây sắn coi là cây lương thực cứu đói. Do đó
diện tích trồng sắn đã tăng lên đáng kể đạt tới 500 000 ha
(1985). Sau đó, giảm dần xuống chỉ còn 256 800 ha (1990)
và thấp nhất là 226 800 ha (1999). Về năng suất sắn của
nước ta xếp vào nhóm các nước có năng suất thấp nhất thế
giới, trong cả thời kỳ dài năng suất sắn củ tươi chỉ đạt 7-8
tấn củ tươi/ha (Bảng l.4).
Bảng l.4: Diện tích, năng suất, sản lượng sắn Việt Nam
1961 - 2005
Năm
1961*
1965*
Diện
tích (ha)
122.000
143.000
Năng
suất
(tấn/ha)
8,00
7,00
Sản
lượng
(1000
tấn)
976
1.001
11
1970*
1975*
1980*
1985*
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
131.000
160.000
439.000
500.000
256.800
273.200
283.800
278.000
279.400
277.400
275.600
238.700
235.500
226.800
234.900
292.300
329.900
300.000
370.000
390.000
7,00
7,00
7,00
6,0
8,86
8,98
9,04
8,81
8,44
8,00
7,50
8,31
7,55
7,96
8,66
12,00
13,50
15,20
14,49
14,60
917
1.120
3.073
3.000
2.275
2.453
2.566
2.449
2.358
2.219
2.067
1.983
1.778
1.805
2.036
3.507
4.454
4.560
5.361
5.694
Ghi chú: *: Underground Crops. 1985, FAO STAT, 2006).
Diện tích sắn Việt Nam trong giai đoạn 1961 -2005
tăng 219,6% (268.000 ha) có mức tăng hàng năm 4,88%.
Năng suất sắn năm 2005 đạt 14,60 tấnlha tăng 82,5% so
với năm 1961, mức tăng hàng năm là 1,83%. Sản lượng
sắn năm 2005 đạt 5.694.000 tấn tăng 483,4% so với năm
1961. Đặc biệt giai đoạn từ năm 2000 đến 2005, diện tích
tăng 66%, năng suất tăng 68,6% và sản lượng tăng
179,6%. Các vùng sắn chính ở các tỉnh miền Nam tăng
nhanh cả về diện tích và năng suất, điển hình là tỉnh Tây
Ninh, diện tích sắn tăng từ 800 ha (2000) lên đến 43.300ha
(2005) và cũng là tỉnh có năng suất tăng hai lần trong giai
đoạn 2000-2005 (Bảng 1.5).
Bảng l.5: Diện tích, năng suất, sản lượng sắn một số tỉnh
đại điện cho các vùng trồng sắn của nước ta (2000-
12
2005)
Diện tích nghìn ha)
Tỉnh
Hà Tây
Yên Bái
Sơn La
Thanh
Hóa
Quảng
Ngãi
Gia lai
Tây Ninh
Kiên
Giang
2000
3,1
8,6
17,0,
12,1
2001
3,1
8,5
16,2
11,9
2002
2,9
9,6
17,2
13,6
2003
2,7
10,2
17,9
15,2
2004
2,9
11,9
18,1
14,5
2005*
2,7
12,7
17,8
15,0
7,7
11,7
14,0
15,7
16,3
17,1
17,7
0,8
0,7
16,5
25,4
0,4
19,6
31,7
1,2
24,3
35,6
0,7
27,4
38,6
1,8
31,7
43,3
1,5
*: Số liệu ước tính, Niên giám thống kê, 2005.
Tỉnh
Hà Tây
Yên Bái
Sơn La
Thanh
Hóa
Quảng
Ngãi
Gia lai
Tây Ninh
Kiên
Giang
2000
7,74
7,96
7,55
6,48
Năng suất (Tấn /ha)
2001 2002 2003 2004
9,87 11,51 11,80 12,24
8,96 12,35 15,48 17,38
8,81
9,25 10.22 11,00
7,97
8,19
8,52
8,57
2005*
12,59
17,90
10,80
8,30
7,88
10,23
11,30
12,77
15,07
15,85
8,87
12,00
7,57
9,88
21,29
9,50
10,18
21,52
12,16
10,70
22,47
13,00
11,42
23,28
4,77
12,10
24,58
5,60
*: Số liệu ước tính, Niên giám thống kê, 2005.
Tỉnh
Hà
2000
24,0
Sản lượng (Nghìn tấn)
2001
2002
2003
2004
30,6
33,4
31,9
35,5
2005*
34,0
13
Tây
Yên
Bái
Sơn
La
Thanh
Hóa
Quảng
Ngãi
Gia
lai
Tây
Ninh
Kiên
Giang
68,5
76,2
118,6
157,9
206,8
227,3
128,3
142,7
159,1
183,0
199,1
192,4
78,4
94,8
111,4
129,5
124,3
124,5
60,7
119,7
158,2
200,5
245,6
271,0
157,0
163,0
199,5
260,0
312,9
383,6
9,6
538,2
682,2
800,0
898,6
1064,3
5,3
3,8
14,6
9,1
8,6
8,4
*: Số liệu ước tính, Niên giám thống kê. 2005.
Yếu tố chính gây nên biến động về diện tích, năng suất
của cây trồng này là do những nguyên nhân sau:
+ Trước năm 1980, do những khó khăn về lương thực,
đặc biệt đối với các tỉnh trung du, miền núi với quỹ đất đai
chưa sử dụng còn lớn, do vậy các địa phương đã khuyến
khích người dân trồng sắn để làm lương thực và hậu quả là
tài nguyên rừng bị tàn phá, đất trống đồi núi trọc.
+ Sau năm 1980 đến năm 2000: Quá trình chuyển dịch
nền kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa đã tạo nên sự
cạnh tranh giữa các loại cây trồng. Do chiến lược phủ xanh
đất trống đồi núi trọc đã khiến cho diện tích cây trồng này
bị giảm xuống.
+ Từ sau năm 2000 với định hướng ngành nông nghiệp
sẽ có thêm một số nông sản tham gia vào xuất khẩu (mía
đường, vừng, sắn măng tre, bột giấy, thịt lợn) đã tác động
mạnh đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông
thôn ở nhiều vùng trong cả nước. Đối với cây sắn đó là sự
chuyển đổi vi trí từ cây lương thực truyền thống sang cây
14
hàng hóa, đánh dấu bước phát triển mới của cây trồng này ở
nước ta. Việt Nam trở thành nước điển hình của châu Á và
thế giới về tốc độ tăng năng suất và sản lượng sắn.
Bảng l.6: Năng suất sắn của một số nước châu Á 19992004
Nước
Năng suất sắn (tấn/ha)
Ấn Độ
1999
25,00
2000
25,19
2001
25,56
2002
25,92
2003
26,29
2004
27,91
Thái Lan
15,49
16,86
17,96
17,07
17,55
19,42
Trung Quốc 15,96
15,97
16,04
16,20
16,24
16,79
Việt Nam
8,66
12,00
13,50
15,20
14,49
7,96
Nguồn: FAOSTAT, 2005.
1.4. Giá trị sử dụng của củ sắn
Cây sắn có giá trị kinh tế lớn về nhiều mặt. Sắn là
nguồn lương thực đáng kể cho con người, là nguồn thức ăn
dồi dào cho chăn nuôi, nguồn nguyên liệu cho công nghiệp.
Tất cả các bộ phận của cây sắn đều có thể sử dụng vào các
mục đích kinh tế.
1.4.1. Thành phần hóa học của củ son
Thành phần hoá học (Bảngl.7) chính của củ sắn là
gluxit, ở sắn củ tươi có tỷ lệ các chất khoáng và vitamin
khá cao đặc biệt là canxi. Tuy nhiên, sắn có tỷ lệ protein và
lipit thấp, vì vậy khi sử dụng sắn làm lương thực cần chú ý
bổ sung thêm thức ăn giàu đạm và lipit mới cung cấp đủ
năng lượng cho cơ thé.
1.4.2. Sử dụng sắn làm lương thực
Thực tế nhiều vùng nhiệt đới trên thế giới đã coi sắn và
các sản phẩm chế biến từ sắn là nguồn lương thực chính,
đặc biệt là các nước của châu Phi. Sắn là cây trồng đứng vị
trí thứ tư trên thế giới về mặt cung cấp năng lượng cho con
người (Bảng 1.8 ; 1.9).
15
Bảng l.7: Thành phần hoá học của sắn và sản phẩm sơ chế từ sắn so với các loại lương thực khác
Loại
Iương
thực
Gạo tẻ
Ngô hạt
khô
Ngô mảnh
K.lang
tươi
K.lang khô
K.tây tươi
K.tây khô
Mỳ loai I
Sắn củ
tươi
Sắn khô
Thành phần học học
(%)
Gluxit
protein lipit
76,2
7,6
1,0
69,4
8,6
4,7
Muối khoáng (mg%)
Vitamin (mg%)
353
364
Ca
30,0
30,0
P
104,0
190,0
Fe
1,3
2,3
Caroten
0,4
B1
0,12
0,28
B2
0,04
0,11
PP
1,9
2,0
71,8
28,5
8,5
0,8
3,2
0,2
359
122
34,0
49,4
1,0
0,3
0,05
0,05
0,6
80,0
21,0
75,1
72,9
36,4
2,2
2,0
6,6
1V0
1,1
0,5
Vết
0,3
1,1
0,2
342
94
338
354
156
10,0
37,0
29,0
25,0
50,0
180,0
132,0
30,0
1,2
4,3
2,0
1,2
Vết
-
0,09
0,10
0,18
0,03
0,05
0,13
0,03
0,9
1,0
0,6
80,3
3,0
0,7
348
-
-
-
-
-
-
-
* Calo/100 gr
Nguồn: Cock, 1982
16
Calo*
Bảng 1.8: Năng lượng cung cấp trực tiếp cho con người ở
vùng nhiệt đới
Nguôn nàng Itfdng
Lúa gạo
Đường
Ngô
Sắn
Cao lương
Kê
Lúa mỳ
Khoai tây
Chuối
Câc ntfôc
nhiêt dôi
924*
311
307
172
147
128
<100
54
32
Thé giôi
2043
926
600
178
208
204
1877
434
44
* Tỷ cam trên ngày.
Nguồn: Cock.1982
Trong thập kỷ 20, có khoảng 450-500 triệu người ở 26
nước nhiệt đới sử dụng nguồn năng lượng từ sắn tới 300
kcal/ngày. Đặc biệt là ở châu Phi, sắn cung cấp năng lượng
từ 402 cal/ngày đến 1 281 callngày cho khoảng 50 triệu dân.
Trong đó, Zaire và Côngo sắn đáp ứng 55-56% năng lượng
trong khẩu phần. Giai đoạn 1975-1977, khoảng 65% sản
lượng sắn của thế giới được sử dụng làm lương thực, trong
đó một nửa trực tiếp làm lương thực ở dạng củ tươi, phần
còn lại sử dụng dưới dạng bột hoặc tinh bột. Do vậy, các
nước đã chế biến sắn thành nhiều loại như Gaplek ở
Indonesia; Farinha và Fufu ở châu Phi.
Nước ta, trước 1980 sắn là nguồn lương thực của người
nghèo và là cây trồng dự trữ lương thực phòng khi mất mùa.
Sau năm 1990, sắn chủ yếu được bán dưới dạng củ tươi
(48,6%), sử dụng làm thức ăn gia súc (22,4%), chế biến
(16,8%), làm lương thực chỉ chiếm 12,2% (Bảng 1.10).
17
Bảng 1.9: Cơ cấu dinh dưỡng của 100 gr các sản phẩm lương thực khác nhau. (*)
Ghi chú:
- Sản phẩm cây có củ đã bóc vỏ ; Lương thực được nấu chín;
- Các dấu chấm biểu thị thiếu số liệu tin cậy
- Nguồn: Composition of Food (Washington D.C: US Department of Agricul nhe, 1975).
18
Bảng l.l0: Tình hình sử dụng sắn ở các vùng khác nhau
của Việt Nam ( % )
Vùng
Lương
thực
Thức ăn Chế biến
Bán
(củ tươi)
chăn nuôi
Miền Bắc
19,1
34.9
7,0
39,0
Miền núi phía Bắc
15,4
39.4
6,5
38,7
Đồng bằng sông
ồ Trung Bộ
Bắc
22,0
23,8
3,4
50,8
27,5
28,8
11,2
32,5
Miền Nam
6,7
13,7
24,4
55,2
Nam Trung Bộ
10,9
19,4
40,0
29,7
Tây Nguyên
2,1
12,2
32,7
53,0
Đông Nam Bộ
5,2
11,8
8,8
74,2
cả nước
12,2
22,4
16,8
48,6
Nguồn: Điều tra sắn Việt Nam, 1991.
Từ sau năm 1991, đặc biệt từ năm 1996 đến nay nhờ
sự tiến bộ trong công tác nghiên cứu tuyển chọn giống sắn
mới và khuyến nông sắn, với việc giới thiệu giống sắn mới
KM60, KM94 vào sản xuất đã tạo ra bước đột phá trong
nghề trồng sắn ở Việt Nam cùng với việc đưa 42 nhà máy
chế biến tinh bột sắn vào hoạt động, đã đánh dấu sự
chuyển dịch vị trí cây sắn từ cây lương thực thành cây
trồng hàng hóa.
1.4.3. Sử dụng sắn làm thức ăn gia súc
Bên cạnh sử dụng làm lương thực và chế biến tinh bột
phục vụ cho các ngành công nghiệp, sắn còn là nguồn thức
ăn gia súc cho cả vùng nhiệt đới và ôn đới. Trên thế giới đã
có nhiều công trình nghiên cứu sử dụng sắn thay thế một
phần ngũ cốc trong chăn nuôi. Các tác giả đã rút ra kết luận
về tỷ lệ phối hợp sắn với ngũ cốc cho từng đối tượng chăn
nuôi. Chăn nuôi lợn, nên phối
hợp từ 15 đến 30% trong khẩu phần thức ăn (tuỳ theo
tuổi). Ở các nước tây âu người ta quy định chỉ phối hợp sắn
19
trong khẩu phần thức ăn tối đa từ 30 đến 35%. Trong chăn
nuôi gà, ở Mehico đã sử dụng tới 50% sắn trong thức ăn hỗn
hợp để nuôi gà con mà tốc độ tăng trọng vẫn không kém so
với khi cho gà ăn toàn ngô. Ở Vênêzuêla, dùng từ 30 đến
54% sắn trong khẩu phần nuôi gà thịt mà không ảnh đến
tăng trọng (Montilla, 1970; Armaschicco, 1973). Nhiều tác
giả cho rằng sử dụng từ 10 đến 15% sắn trong chăn nuôi gà
là thích hợp. Ngay trong việc vỗ béo cho bò bằng cỏ tươi và
chăn nuôi bò sữa nên cho ăn thêm hỗn hợp thức ăn tinh chứa
85% bột sắn, 6% rỉ mật, 8% Urê và 1% premic khoáng thì có
thể hoàn toàn đáp ứng yêu cầu thức ăn cho bò (Muller,
1973). Vì vậy, nhiều tác giả đã đưa ra ý kiến rằng: ở vùng
nhiệt đới sắn là một nguồn thức ăn chiến lược trong việc
nuôi bò thịt, bò sữa để bù đắp lại chất lượng cỏ kém. Một
điều đáng lưu ý là hệ số an toàn khi sử dụng sắn cho bò ăn
rất cao, không gặp nhiều trắc trở như khi sử dụng cho lợn và
gia cầm.
Ở nước ta, sắn là nguồn thức ăn quan trọng trong chăn
nuôi của các hộ gia đình. Do vậy, trong những năm gần đây,
bên cạnh phối hợp sắn vào khẩu phần thức ăn hỗn hợp trong
công nghiệp chế biến thức ăn gia súc, việc nghiên cứu ủ
chua sắn củ tươi phục vụ chăn nuôi lợn quy mô gia đình đã
được chú ý và đã xây dựng thành quy trình kỹ thuật đang
được nhiều hộ gia đình áp dụng vào chăn nuôi lợn ở khu vực
miền Trung.
1 4.4.Chế biến tinh bột son
Củ sắn là nguyên liệu để chế biến tinh bột và tinh bột
biến tính. Châu Á là lục địa chế biến và xuất khẩu sắn đứng
đầu thế giới.
20
- Xem thêm -