Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện mỹ đức, thành phố hà nội hiện nay...

Tài liệu Giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện mỹ đức, thành phố hà nội hiện nay

.PDF
82
127
111

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1. GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO THANH NIÊN MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ........................................................................ 8 1.1. Quan niệm về giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên ......................... 8 1.2. Những yếu tố cơ bản tác động đến giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên ............................................................................................................... 21 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO THANH NIÊN HUYỆN MỸ ĐỨC – THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY ......................................................................................................................... 32 2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội và đặc điểm thanh niên của huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội ........................................................ 32 2.2. Những ưu điểm trong giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội và nguyên nhân ............................................... 40 2.3. Những hạn chế trong giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội và nguyên nhân ............................................... 51 Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO THANH NIÊN Ở HUYỆN MỸ ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI .................................. 57 3.1. Phương hướng tăng cường giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội trong thời gian tới................................. 57 3.2. Giải pháp tăng cường giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên ở huyện Mỹ đức, thành phố Hà Nội........................................................................... 62 KẾT LUẬN .................................................................................................... 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CĐ : Cao đẳng CNH : Công nghiệp hóa CNXH : Chủ nghĩa xã hội CSVN : Cộng sản Việt Nam CTQG : Chính trị quốc gia ĐH : Đại học GDĐT : Giáo dục đào tạo HĐH : Hiện đại hóa LLCT : Lý luận chính trị Nxb : Nhà xuất bản PGS : Phó giáo sư TCT : Ý thức chính trị TNCS : Thanh niên cộng sản TS : Tiến sĩ UBND : Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thanh niên Việt Nam là lực lượng hùng hậu, có tiềm năng to lớn, có đóng góp quan trọng trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đánh giá cao vai trò của thế hệ trẻ; quan tâm giáo dục, động viên, phát huy mọi khả năng của thế hệ trẻ phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Trong bản “Di chúc” để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn về trách nhiệm của Đảng đối với thanh niên là: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”; bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” [29, tr.489]. Kế thừa quan điểm của Người, trong gần 90 năm qua, Đảng ta luôn đánh giá cao vai trò của thanh niên. Nghị quyết Trung ương 7, khóa X của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò to lớn đó: “Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc… công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc” [33]. Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến giáo dục YTCT cho thanh niên nhằm giáo dục lý tưởng cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị, xây dựng những lớp người kế tục trung thành với lý tưởng của Đảng và của cách mạng Việt Nam “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH”. Phần lớn thanh niên nước ta đều có có lòng yêu nước nồng nàn, có lý tưởng cách mạng, luôn phát huy truyền thống tốt đẹp của các thế hệ cha anh, khẳng định niềm tin vào mục tiêu, lý tưởng cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng. Đa số thanh niên ý thức rõ trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc và nhân dân, ra sức phấn đấu lao động, học tập, rèn luyện về mọi mặt với khát vọng cống hiến hết mình vì tương lai tươi sáng của dân tộc. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, do yêu cầu cần phải hội nhập quốc tế, do sự bùng phát của lối sống thực dụng chạy theo danh lợi bất chấp đạo lý đã dẫn đến những tiêu cực trong xã hội ngày càng phổ biến. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục, sự chống phá của các thế lực phản động quốc tế nhằm thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” đã tác động không nhỏ đến đời sống đạo đức công dân, ảnh hưởng lớn đến tâm tư, tình cảm, ý chí phấn đấu của thanh niên. Hậu quả là đã có một bộ phận thanh niên phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn đấu; sống dựa dẫm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia đình và xã 1 hội, sa vào tệ nạn xã hội... Trước thực trạng trên, việc giáo dục YTCT cho thanh niên là một trong những việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng hiện nay nhằm từng bước khắc phục những hạn chế về tư tưởng chính trị, YTCT, đạo đức, lối sống của thanh niên Việt Nam. Nhận thức rõ tầm quan trọng của thanh niên và công tác giáo dục ý thức chính trị, cũng như trước những đòi hỏi của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong những năm qua, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội không ngừng chú trọng, tăng cường công tác thanh niên, đặc biệt là công tác giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên. Huyện ủy Mỹ Đức định hướng các cấp chính quyền xây dựng cơ chế, chính sách thanh niên; bằng những nội dung, biện pháp, cách thức cụ thể đã thu hút, động viên, tập hợp thanh niên tham gia vào sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất nước. Thanh niên trở thành lực lượng to lớn góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng địa phương vững mạnh, phát triển; có năng lực và trình độ, tự giác chấp hành chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; tích cực học tập, phát triển kinh tế, giữ vững an ninh, trật tự và an toàn xã hội… Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân nên công tác giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên trên địa bàn huyện vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng nhu cầu của thực tế cách mạng đang đặt ra. Đứng trước tình hình suy thoái tư tưởng, chủ nghĩa cá nhân, không giữ vững lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị trong một bộ phận không nhỏ thanh niên đã làm cho vấn đề giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên trên địa bàn huyện càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Từ việc nhận thức tầm quan trọng của công tác giáo dục ý thức chính trị nói chung trong tình hình đổi mới đất nước hiện nay đồng thời đánh giá đúng điều kiện cụ thể của huyện Mỹ Đức thì công tác giáo dục ý thức chính trị đối với thanh niên trên địa bàn huyện càng trở nên bức thiết và quan trọng hơn. Vì vậy tác giả chọn và nghiên cứu đề tài “Giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội hiện nay” làm luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Liên quan đến vấn đề giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên đến nay đã có nhiều công trình khoa học, các công trình tiêu biểu như: Thứ nhất, các sách chuyên khảo: - Cuốn sách “Những vấn đề giáo dục hiện nay quan điểm và giải pháp” do nhiều tác giả viết, Nxb. Tri Thức, Hà Nội, 2008. Nội dung cuốn sách gồm các bài quan trọng 2 về các vấn đề mấu chốt và cấp bách của giáo dục do các tác giả trong và ngoài nước viết. Các tác giả đưa ra những phương hướng và giải pháp đối với giáo dục Việt Nam. - Cuốn sách “Đảng lãnh đạo công tác tư tưởng trong thời kì đổi mới” do TS. Nguyễn Danh Tiên (chủ biên), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2010. Cuốn sách đã đề cập đến vai trò của Đảng trong lãnh đạo công tác tư tưởng trước sự phức tạp của tình hình quốc tế và trong nước; tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống trong bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Các tác giả cũng nêu lên những phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp nhằm nâng cao sự lãnh đạo của Đảng trong tình hình hiện nay. - Năm 2004, tác giả Phạm Đình Nghiệp với cuốn sách “Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên hiện nay”, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2004 đã cung cấp thông tin về thực trạng của công tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ, và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục ý thức chính trị cho thế hệ trẻ Việt Nam trong tình hình mới. - Trong cuốn “Về giáo dục và tổ chức thanh niên”, Hồ Chí Minh, Nxb. Thanh niên, Hà nội, 1980. Nội dung cuốn sách khái quát tư tưởng của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của thanh niên và sự cần thiết phải chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục thanh niên và công tác vận động thanh niên trong sự nghiệp cách mạng. - Năm 2011, tác giả Phạm Hồng Tung trong đề tài “ h c trạng và u th iển đổi l i s ng c a thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và h i nh p qu c t ” đã làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và cách tiếp cận khi nghiên cứu về thanh niên và lối sống của thanh niên; khảo sát và phân tích tình hình thanh niên, lối sống của thanh niên trong hơn hai thập k đổi mới đất nước thông qua đỏ ch ra những đặc trưng cơ bản của thanh niên và đặc trưng lối sống của thanh niên trong quá trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, ch ra những yếu tố tác động cơ bản, có tính chất định hướng trong quá trình biến đổi lối sống của thanh niên. Trên cơ sở những nghiên cứu, với những luận chứng có tính thuyết phục cao, tác giả đã đưa ra những khuyến nghị khoa học và đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng lối sống của thanh niên Việt Nam phù hợp với tiến trình đổi mới đất nước hiện. - PGS.TS.Trần Thị Anh Đào tác giả cuốn sách: “Công tác giáo dục lý lu n chính trị cho sinh viên Việt Nam hiện nay”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2013. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn cần tìm ra những giải pháp khả thi để góp phần hữu hiệu vào việc nâng cao chất lượng giáo lý luận chính trị cho sinh viên, nhằm đáp 3 ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thứ hai, các đề tài, luận án, luận văn: - Đề tài “Giáo dục chính trị tư tưởng cho hanh niên trong giai đoạn hiện nay” (2005) của tác giải Nguyễn Đức Quyền, Đại học Hà Nội nghiên cứu về lĩnh vực giáo dục chính trị, tư tưởng và lối sống của thanh niên đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác giáo dục tư tưởng chính trị cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay. - “Định hướng giá trị c a thanh niên sinh viên hiện nay”, Đỗ Ngọc Hà, luận án tiến sĩ tâm lý học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2002. Đề tài đã khái quát và hệ thống hóa cơ sở lý luận tâm lý học về giá trị, định hướng giá trị của thanh niên sinh viên. Theo tác giả, trong những công trình bàn về dịnh hướng giá trị trên thế giới, có 7 hướng nghiên cứu chính và phạm trù giá trị được khai thác dưới góc độ tâm lý học và xã hội học có điều ch nh cho phù hợp tình hình thực tiễn ở Việt Nam. - Đề tài “Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên hiện nay” của tác giải Phạm Đình Nghiệp, Học viện Thanh Thiếu niên Việt Nam (2004). Đề tài nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và phân tích thực trạng công tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong những năm qua; dự báo về xu hướng phát triển của đất nước và của tuổi trẻ, trên cơ sở đó đề xuất những kiến nghị và giải pháp của Đoàn về công tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ. - Đề tài “ ình hình tư tưởng thanh niên và công tác giáo dục c a Đoàn giai đoạn hiện nay” của tác giải Trần Văn Miền (2002, đề tài nghiên cứu cấp Bộ) làm rõ các khái niệm công cụ, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng về giáo dục thanh niên; đánh giá thực trạng tình hình tư tưởng thanh niên và công tác giáo dục chính trị, tư tưởng của Đoàn thời gian qua; dự báo và đề xuất khuyến nghị các giải pháp nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng của Đoàn trong thời kỳ mới. - Đề tài khoa học cấp bộ “Giải pháp c a Đoàn NCS Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, l i s ng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Trần Thanh Giang (2013). Đề tài đã làm rõ môt số vấn đề lý luận về giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên, vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong việc giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên; về thực trạng xây dựng và việc thực hiện các giải pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và những yêu cầu đạt ra. 4 - Luận án tiến sĩ của Trần Hùng (2000) về “Hiệu quả giáo dục lý lu n chính trị cho sinh viên các trường đại học tại thành ph Hồ Chí Minh: h c trạng và giải pháp”. Luận án đã xây dựng được hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên. Việc nâng cao chất lượng đào tạo giảng viên lý luận chính trị luôn phải gắn với yêu cầu nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên. - Tác giả Phùng Quang Thắng với đề tài “Giáo dục chính trị tư tưởng cho đoàn viên thanh niên từ th c tiễn văn phòng trung ương Đảng” (2016, luận văn thạc sỹ) đã nêu ra được một số khái niệm cơ bản về đoàn viên, thanh niên; những chủ trương chính sách của Nhà nước về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đoàn viên thanh niên. Thứ ba, các bài báo khoa học, tạp chí: Bài viết “Mấy vấn đề về xây d ng lý tưởng cho thanh niên hiện nay” của tác giả Vũ Oanh đăng trên Tạp chí cộng sản, số 11, tháng 6 năm 1996. Tác giả Trần Sỹ Phán với bài viết: “Giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, l i s ng cho sinh viên Việt Nam hiện nay”, Tạp chí lý luận chính trị, số tháng 7. “Đổi mới toàn diện, nâng cao chất lượng hiệu quả công tác giáo dục lý lu n chính trị trong tình hình mới” của tác giả Đào Duy Quát, Tạp chí Tư tưởng – Văn hóa, số 6, năm 2006; “Phương pháp đào tạo, ồi dưỡng cán về lý lu n chính trị theo quan điểm c a Hồ Chí Minh” (Mạch Quang Thắng, 2008, Tạp chí Tuyên giáo, số 11). Vũ Hữu Ngoạn với bài viết“Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí lý luận chính trị , số 12. Tất cả các công trình khoa học, sách, luận án trên đều có liên quan đến đề tài trên các khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống hoạt động giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên ở huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội. Do đó, đề tài “Giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội” là vấn đề mới, mang ý nghĩa thực tiễn cao, không trùng lặp các công trình khoa học, các luận văn đã công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên, đề tài đánh giá thực trạng và đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội hiện nay. 5 3.2. Nhiệm vụ Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau: - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên. - Đánh giá thực trạng giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội để làm sáng tỏ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội. - Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng Đề tài nghiên cứu về giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội. - Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu công tác giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội; giới hạn phạm vi nghiên cứu từ năm 2008 đến nay. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử; chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về thanh niên, công tác giáo dục và giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên. - Đề tài kết hợp sử dụng phương pháp nghiên cứu như: phân tích - tổng hợp; đánh giá, quy nạp; diễn dịch; đối chiếu; so sánh… Đề tài góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về công tác giáo dục ý thức chính trị và giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên; đi sâu nghiên cứu thực trạng công tác giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội nhằm ch ra những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân và đề xuất giải pháp góp phần tăng cường công tác giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Ý nghĩa lý luận: Đề tài đưa ra những nghiên cứu về thanh niên và công tác giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên trong huyện. Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận về giáo dục YTCT cho thanh niên nói chung và cho thanh niên huyện Mỹ Đức nói riêng. 6 - Ý nghĩa thực tiễn: Việc thực hiện đề tài “ Giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội hiện nay” từ thực tiễn ở huyện sẽ ch ra được những ưu điểm, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của nó trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng đối với đoàn viên thanh niên huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội. Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu làm tài liệu tham khảo cho việc lãnh đạo và ch đạo công tác thanh niên trong huyện; làm tài liệu cho những sinh viên, học viên và những người muốn tìm hiểu về vấn đề thanh niên, công tác giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung luận văn được kết cấu thành 3 chương và 7 tiết. 7 Chƣơng 1 GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO THANH NIÊN MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 1.1. Quan niệm về giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên 1.1.1. Ý thức chính trị và giáo dục ý thức chính trị 1.1.1.1. Ý thức chính trị Khái niệm ý thức chính trị được tạo thành từ hai khái niệm là ý thức và chính trị. Ý thức theo triết học Mác – Lênin là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc của con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Sự phản ánh ý thức không phải là sự phản ánh thụ động giản đơn, mà là sự phản ánh chủ động, sáng tạo hiện thực khách quan. Theo Phạm Minh Hạc thì ở một con người, ý thức là năng lực hiểu biết được các tri thức về thực tại khách quan nói riêng mà người đó tiếp thu được và năng lực hiểu được thế giới chủ quan trong chính bản thân người đó. Về bản chất, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó thể hiện rằng nội dung của ý thức do thế giới khách quan quy định. Ý thức là hình ảnh của thế giới khách quan vì nó nằm trong bộ não con người. Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ quan, là thực tại chủ quan. Ý thức là sự phản ánh thế giới một cách sáng tạo. Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật. Ý thức là sự phản ánh sáng tạo vì sự phản ánh đó dù trực tiếp hay gián tiếp, dù dưới dạng ý tưởng thì bao giờ cũng phải dựa vào những tiền đề vật chất, dựa trên hoạt động thực tiễn nhất định. Sự sáng tạo của ý thức không đối lập, loại trừ, tách rời sự phản ánh mà ngược lại thống nhất với phản ánh, trên cơ sở phản ánh. Nguồn gốc của ý thức bao gồm: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Nguồn gốc tự nhiên: Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là một thuộc tính của vật chất, nhưng không phải là của mọi dạng vật chất, mà ch là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người. Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào đầu óc con người. Bộ óc con người là cơ quan phản ánh, song ch có bộ óc thôi thì chưa thể có ý thức; không có sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác 8 quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra. Như vậy, nguồn gốc tự nhiên của ý thức là: bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc. Nguồn gốc xã hội: Điều kiện tự nhiên của ý thức là rất quan trọng, song, điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội. Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc con người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội. Nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý thức là một sản phẩm của xã hội. Chức năng của ý thức có 3 chức năng cơ bản sau: Chức năng nhận thức - sự chiếm lĩnh tri thức có tính tích cực và có tính chủ định, được thực hiện trong các quá trình hoạt động nhận thức. Chức năng điều ch nh trên cơ sở cá nhân gia nhập vào các quan hệ xã hội. Chức năng thông tin - được thực hiện hoá trong quá trình giao tiếp, trao đổi tri thức và điều hoà lẫn nhau bởi hành vi con người. Ý thức là một hiện tượng tâm lý – xã hội có kết cấu phức tạp. Theo các yếu tố hợp thành, ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí… trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi. Theo chiều sâu của nội tâm, ý thức bao gồm tự ý thức, tiềm thức, vô thức. Chính trị từ khi xuất hiện đã có ảnh hưởng to lớn tới quá trình tồn tại và phát triển của mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia, dân tộc và toàn nhân loại. Theo Từ điển Triết học: “Chính trị là sự tham gia vào các công việc nhà nước, việc qui định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước. Lĩnh vực chính trị bao gồm các vấn đề chế độ nhà nước, quản lý đất nước, lãnh đạo các giai cấp, vấn đề đấu tranh đảng phái, v.v… Những lợi ích căn bản của các giai cấp và những quan hệ qua lại của các giai cấp biểu hiện trong chính trị. Chính trị cũng biểu hiện những quan hệ giữa các dân tộc và giữa các quốc gia (chính sách đối ngoại). Các quan hệ giữa các giai cấp và do đó, cả chính trị của họ nữa bắt nguồn từ địa vị kinh tế của họ. Những tư tưởng chính trị và những thể chế tương ứng với chúng là kiến trúc thượng tầng bên trên cơ sở hạ tầng kinh tế. Tuy nhiên, điều đó hoàn toàn không có nghĩa rằng chính trị là hệ quả thụ động của kinh tế...” [49, tr.85, 86] V.I. Lênin cho rằng, “chính trị là sự tham gia vào công việc nhà nước, là việc vạch hướng đi cho nhà nước, là việc xác định hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước” [55, tr.404]. Trong chính trị, yếu tố quan trọng nhất là “tổ chức chính 9 quyền nhà nước”. Do vậy, “Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, các quốc gia, các dân tộc, các lực lượng xã hội trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước” [56, tr.403]. Chính trị là tổng hợp những phương hướng, những mục tiêu quy định bởi giai cấp, dân tộc, là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, các đảng phái, nhà nước để thực hiện con đường phát triển đã chọn nhằm đạt mục tiêu đã đề ra. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, bản chất của chính trị suy cho cùng là sự biểu hiện tập trung của kinh tế. Lênin ch rõ: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế… chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế ” [54, tr.121]. Như vậy, có thể hiểu chính trị là toàn bộ những hoạt động có liên quan đến những quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa các dân tộc, trong đó chủ yếu nhất là vấn đề giành, giữ chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực của nhà nước. Ý thức chính trị là hình thái ý thức xã hội xuất hiện khi xã hội có giai cấp và nhà nước, nó phản ánh đời sống chính trị của xã hội, trong đó cốt lõi là mối quan hệ giữa các giai cấp. Cụ thể hơn, ý thức chính trị là sự phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia, cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước. Ý thức chính trị là một lĩnh vực rộng lớn, phức tạp, nhạy cảm và có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội có giai cấp. V.I.Lênin cho rằng: ý thức chính trị bao gồm những mối quan hệ giữa tất cả các giai cấp, tầng lớp với Nhà nước và Chính phủ. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ý thức chính trị cũng bao gồm những nét đặc trưng của ý thức xã hội nói chung. Bởi vậy, có thể hiểu ý thức chính trị là những tình cảm, thái độ chính trị, quan điểm, tư tưởng chính trị hay lý luận chính trị của cộng đồng xã hội, hoặc của các tầng lớp, giai cấp trong xã hội, phản ánh mọi mặt của đời sống chính trị. Như vậy, ta thấy, ý thức chính trị là những tình cảm, thái độ chính trị, quan điểm, tư tưởng chính trị, phản ánh vị trí, vai trò của các chủ thể trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Các cấp độ của ý thức chính trị: Thứ nhất, ý thức chính trị ở cấp độ phản ánh trực tiếp: Trường hợp này ý thức chính trị biểu hiện là tâm lý, mong ước, cảm xúc, nguyện vọng... của quần chúng về những vấn đề chính trị trong thực tiễn đời sống. Ở cấp độ này, ý thức chính trị biểu hiện một cách trực quan, chưa có tính khái quát, 10 tính hệ thống và tính lý luận chưa cao và không ổn định, do đó nó phản ánh còn thiếu đầy đủ, thiếu toàn diện về bản chất các vấn đề chính trị. Tuy vậy, ý thức chính trị ở cấp độ này có nội dung rất phong phú, là cơ sở dữ liệu để ý thức chính trị ở cấp độ lý luận khai thác, đúc kết, khái quát hóa, phản ánh nội dung bản chất các vấn đề chính trị. Thứ hai, ý thức chính trị ở cấp độ lý luận: nó biểu hiện là những quan điểm chính trị đã được khái quát, hệ thống hóa thành một ch nh thể mang tính hợp lý, tính khoa học, phản ánh được mối quan hệ bản chất, tất yếu, phổ biến của các hiện tượng trong đời sống chính trị. Ý thức chính trị ở cấp độ này được diễn tả dưới dạng các phạm trù, khái niệm, luận điểm khoa học và thể hiện ở trình độ cao nhất đó là các học thuyết chính trị và hệ tư tưởng chính trị. Hệ tư tưởng chính trị thường gắn với các tổ chức chính trị mà thông quá đó một giai cấp trong xã hội có thể tiến hành đấu tranh về ý thức hệ vì lợi ích của giai cấp mình và vì lợi ích cho các chủ thể xã hội mà nó làm đại diện. Hệ tư tưởng chính trị của giai cấp phản ánh trực tiếp và tập trung nhất lợi ích của giai cấp đó, nó được hình thành một cách tự giác, được các nhà tư tưởng của giai cấp xây dựng và truyền bá. Ý thức chính trị có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển xã hội. Thông qua tổ chức nhà nước nó tác động trở lại cơ sở kinh tế và có thể, trong những giới hạn nhất định thay đổi cơ sở kinh tế. Hệ tư tưởng chính trị cũng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Tác động tích cực hoặc tiêu cực của hệ tư tưởng chính trị phụ thuộc vào tính chất tiến bộ, cách mạng hoặc phản tiến bộ, phản cách mạng của giai cấp mang hệ tư tưởng đó. Giai cấp khi còn tiến bộ, cách mạng, tiêu biểu cho xu thế phát triển đi lên của lịch sử thì hệ tư tưởng chính trị của nó có tác dụng tích cực đến sự phát triển xã hội. Ngược lại, khi giai cấp đó trở thành lạc hậu, phản động, thì hệ tư tưởng chính trị của nó tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Từ những phân tích trên cho thấy, ý thức chính trị là một lĩnh vực rộng lớn, phức tạp, nhạy cảm và đóng vai trò quan trọng trong đời sống của xã hội có giai cấp. Ý thức chính trị được biểu hiện qua hai cấp độ là tâm lý chính trị và hệ tư tưởng chính trị. Trên thực tế ý thức chính trị bao giờ cũng gắn với một chủ thể nào đó, sẽ không có ý thức chính trị chung chung cho mọi thời đại, vì đời sống tinh thần của xã hội nói chung và ý thức chính trị nói riêng được hình thành và phát triển trên cơ sở đời sống vật chất trong một giai đoạn cụ thể nhất định. Với tư cách là một 11 hình thái ý thức xã hội, ý thức chính trị cũng bao gồm những nét đặc trưng của ý thức xã hội nói chung. Bởi vậy, có thể thiểu ý thức chính trị là những tình cảm, thái độ chính trị, quan điểm, tư tưởng chính trị của cộng đồng xã hội, hoặc của các tầng lớp, giai cấp trong xã hội, phản ánh mọi mặt của đời sống chính trị. 1.1.1.2. Giáo dục Y C Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, khi tìm hiểu khái niệm giáo dục có nhiều cách hiểu khác nhau do xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau. Trong tiếng anh giáo dục là “education” có nghĩa là dẫn dắt con người vươn tới sự hoàn thiện hơn, tốt đẹp hơn cái đang có ở hiện tại. Theo giáo trình Giáo dục học thì định nghĩa: “giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người”. Theo định nghĩa này nhấn mạnh đến vấn đề truyền đạt của người dạy và việc lĩnh hội của người học, nhấn mạnh đến yếu tố dạy học. Kế thừa các quan niệm của các nhà nghiên cứu, theo tác giả giáo dục là một trong những hoạt động của cá nhân hoặc tổ chức tác động đến đối tượng bằng các hình thức và phương pháp khác nhau nhằm đi đến mục đích cuối cùng là làm thay đổi sự phát triển theo chiều hướng tích cực của cá nhân hoặc đối tượng theo ý muốn của chủ thể. Theo các quan niệm, giáo dục là quá trình được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình giảng dạy; là sự tác động có hệ thống, có chủ đích của chủ thể giáo dục và được sắp xếp, tổ chức một cách khoa học nhằm chuyển biến đối tượng giáo dục theo những mong muốn, mục tiêu xác định. Giáo dục có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách của con người. Giáo dục vạch ra phương hướng phát triển nhân cách thông qua những hình mẫu nhân cách theo một yêu cầu nhất định; thông qua giáo dục nhằm truyền thụ các tri thức, các kỹ năng để góp phần hình thành nhân cách và qua đó giáo dục hướng tới một tương lai tốt đẹp. Trước những đòi hỏi của xã hội, giáo dục có khả năng uốn nắn những hành vi lệch chuẩn trong hình thành và phát triển nhân cách, tạo nên những hình mẫu nhân cách mới. Hoạt động giáo dục chính quy liên quan đến việc dạy và học trong môi trường học và theo một chương trình học nhất định. Giáo dục gắn với hệ thống nhà trường (giáo dục nhà trường), đó là các hoạt động giáo dục được tổ chức một cách khoa học, quy củ, bài bản, có chủ đích dựa trên nội dung, chương trình, phương thức đào 12 tạo được áp dụng thống nhất, phù hợp đối với từng cấp học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục cũng được hiểu là hoạt động có mục đích của xã hội với nhiều lực lượng tham gia, tác động để hình thành nên những giá trị nhân cách, những năng lực phẩm chất cần thiết nào đó (giáo dục xã hội). Ngoài giáo dục nhà trường và xã hội thì mỗi gia đình cũng có những ảnh hưởng, tác động quan trọng đến việc hình thành, phát triển nhân cách của con em mình (giáo dục gia đình). Đồng thời, giáo dục cũng bao hàm cả những hoạt động tự thân của mỗi cá nhân trong việc tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu để chiếm lĩnh tri thức (tự giáo dục). Giáo dục có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn thế hệ trẻ “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang sánh vai cùng các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” [29, tr.35]. Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách của đất nước lúc bấy giờ, trong đó có nhiệm vụ về giáo dục. Đảng và Nhà nước ta trong suốt tiến trình cách mạng đã luôn coi trọng giáo dục, xem đó là quốc sách hàng đầu, được ưu tiên trước nhất, thậm chí đi trước một bước so với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội khác. Nghị Quyết TW 3, khoá 7 năm 1993 khẳng định: “Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”. Nghị quyết TW 2, khoá VIII: “Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Nghị quyết TW 8, khoá XI: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”. Giáo dục ý thức chính trị là một quá trình có chủ đích của chủ thể giáo dục đến đối tượng giáo dục và phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Giáo dục YTCT là hoạt động giáo dục trên lĩnh vực tư tưởng. “Bản chất của công tác giáo dục chính trị-tư tưởng là quá trình tác động có mục đích, có hệ thống của một Đảng, một giai cấp, một tổ chức vào quần chúng nhằm giác ngộ, nâng cao nhận thức tư tưởng của họ về quan điểm, đường lối chính trị để quy tụ, tập hợp quần chúng tham gia vào quá trình đấu tranh giành và bảo vệ thực thi quyền lực chính trị, bảo vệ lợi ích của giai cấp” [24, tr.18]. Giữ vị trí là một bộ phận của công tác tư tưởng, giáo dục YTCT là hoạt động có mục đích của Đảng Cộng sản, Nhà nước và các đoàn thể 13 chính trị - xã hội nhằm hình thành ở cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân về thế giới quan khoa học, rèn luyện bản lĩnh chính trị vừng vàng, niềm tin vào sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo, khắc phục thói thụ động và thờ ơ chính trị, hình thành thái độ đấu tranh đối với các tư tưởng phản tiến bộ, thúc đẩy tính tích tự giác, tích cực, sáng tạo tham gia vào các phong trào cách mạng. Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập, đổi mới, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [25, tr.83]. Giáo dục YTCT là một bộ phận trong công tác tư tưởng của Đảng. Nội dung trọng tâm của giáo dục YTCT là tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh những nội dung trọng tâm đó, giáo dục YTCT còn bao gồm: giáo dục lý tưởng cách mạng – xã hội chủ nghĩa, giáo dục niềm tin vào sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo, tính tích cực chính trị-xã hội, đấu tranh khắc phục sự mơ hồ về chính trị, phai nhạt lý tưởng… xây dựng con người Việt Nam mới có nhân cách cao đẹp, sống nhân văn, nhân ái, có ý thức xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ chính trị, đấu tranh cho lợi ích của dân tộc. Như vậy, giáo dục YTCT là hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến các tầng lớp, giai cấp trong xã hội; định hướng giá trị, lý tưởng cách mạng, cung cấp thông tin về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong quần chúng nhằm nâng cao nhận thức chính trị, củng cố niềm tin và bản lĩnh chính trị, hình thành con người mới với khả năng nhạy bén, chủ động, tích cực tự giác, sáng tạo góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác giáo dục ý thức chính trị là các hoạt động giáo dục một cách khoa học, quy củ, bài bản, có chủ đích dựa trên nội dung, chương trình, phương thức đào tạo tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng; chính sách pháp luật của Nhà nước đến với thanh niên, giúp họ có niềm tin, tri thức, lý tưởng chính trị đúng đắn, góp phần hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng; đồng thời, phát huy tính tích cực của thanh niên trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 14 1.1.2. Thanh niên và giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên 1.1.2.1. Thanh niên Thứ nhất, về độ tuổi của thanh niên: Theo Điều lệ của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, thanh niên Việt Nam là những người có tuổi từ 16 đến 30. Từ góc độ pháp luật, theo điều 1, Luật Thanh niên năm 2005 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kì họp thứ XI thì “Thanh niên quy định trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi”. Là thời kì sung sức nhất của mỗi con người về thể chất, có sự phát triển mạnh về trí tuệ, nhạy bén, năng động, sáng tạo, có nhiều ước mơ, hoài bão. Từ góc độ xã hội học, thanh niên được xem là một nhóm xã hội của những người “mới lớn”, “Tuổi thanh niên là độ tuổi quá độ từ trẻ con sang người lớn trong cuộc đời mỗi người”. Đây là một nhóm động, không ổn định, nó như một dòng chảy, thường xuyên đón nhận những thành viên mới và chia tay những người đã trưởng thành, vượt quá phạm vi lứa tuổi của nhóm. Từ góc độ tâm lý học, thanh niên là một độ tuổi, ở giữa lứa tuổi trẻ em và tuổi trưởng thành. Ở giai đoạn này, sự phát triển về thể chất đạt đến đ nh cao, tuy nhiên, các yếu tố tâm lý mới được định hình và ổn định một cách tương đối. Thanh niên có sự khác biệt lớn về nhiều mặt (tuổi, nơi sinh sống, nghề nghiệp…) do đó, các đặc điểm tâm lý của thanh niên rất phong phú, đa dạng, tuy nhiên, họ có một tính chất chung, đó là tính trẻ. Tính trẻ được thể hiện ở sự năng động, nhiệt huyết, chấp nhận mạo hiểm, giàu ước mơ và hoài bão lớn, thích cái mới, thích giao lưu, học hỏi và mong muốn có những đóng góp cho xã hội để khẳng định bản thân. Phạm vi tuổi của thanh niên khá rộng (từ 16 tuổi đến 30 tuổi). Vì vậy, xét từ góc độ nghề nghiệp của họ, trong thanh niên có nhiều nhóm nhỏ khác nhau. Nhóm trẻ tuổi nhất đang chuẩn bị kết thúc những năm học phổ thông, mối quan tâm lớn nhất của họ là lựa chọn nghề, chọn trường để tiếp tục học cao hơn, hoặc bước vào nghề; một bộ phận khác đang học tập tại các trường cao đẳng, đại học, tiếp thu kiến thức và kỹ năng chuyên môn ở trình độ cao để trở thành nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước; có một bộ phận mới bước vào hoạt động nghề nghiệp, đang đối mặt với những khó khăn, thử thách ban đầu; bên cạnh đó, một bộ phận thanh niên đã khẳng định được vị trí nghề nghiệp của mình, có những cống hiến nhất định cho xã hội. Ngày nay, nhờ sự phát triển của khoa học – công nghệ, một 15 lĩnh vực có rất nhiều đặc điểm phù hợp với tâm lý thanh niên, được thanh niên ưa thích và tích cực vận dụng vào chuyên môn, không ít thanh niên đã sớm đạt được thành tích lớn, nhanh chóng khẳng định được bản thân. Với sự nhanh nhạy, nhiệt huyết của tính trẻ, dám nghĩ, dám làm và sức khỏe tốt, thanh niên được xem là lực lượng chủ chốt của xã hội. hứ hai, thanh niên là một nhóm xã hội – dân cư bao gồm những thành viên trong một xã hội cụ thể đang trong độ tuổi thanh niên. Với ý nghĩa nhóm xã hội - dân cư, thanh niên có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống của mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia - dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: Một năm bắt đầu bằng mùa xuân, cuộc đời bắt đầu bằng tuổi trẻ; tuổi trẻ là mùa xuân của dân tộc. Có thể nói, thanh niên chính là tương lai của toàn cộng đồng, dân tộc. Do đó, “Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà! Mình phải làm thế nào cho ích nước lợi nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào”, “Thanh niên phải có tinh thần gan dạ và sáng tạo, cần phải có chí khí hăng hái và tinh thần tiến lên vượt mọi khó khăn gian khổ để tiến mãi không ngừng” [31, tr.455]. Đó là những lời căn dặn quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với tầng lớp thanh niên, trong đó có đội ngũ sinh viên có tri thức. Ở nước ta, thanh niên được xem là rường cột của nước nhà, lực lượng xung kích trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác thanh niên thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã khẳng định: “Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực đảm nhiệm những công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo. Thanh niên là độ tuổi sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ, luôn năng động, sáng tạo, muốn tự khẳng định mình” [24, tr.35]. Như vậy, thanh niên được đánh giá là lực lượng dân số quan trọng của mỗi quốc gia không ch bởi họ là lực lượng dân số đông đảo đang góp phần quan trọng vào mọi hoạt động của đời sống xã hội, mà họ còn là một lực lượng mới đang lớn lên, đang trưởng thành và có khả năng thích ứng nhanh nhạy trước những biến động của xã hội. 16 Thanh niên có khả năng tiếp thu cái mới, cái tiến bộ, những kiến thức khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, tiên tiến làm phong phú thêm những khả năng của bản thân để vươn lên làm chủ và cải tạo tự nhiên và xã hội. Từ những cơ sở trên, có thể đưa ra định nghĩa thanh niên Việt Nam như sau: thanh niên Việt Nam là một nhóm xã hội – dân cư, những người từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi, thuộc mọi giai cấp, tầng lớp xã hội; gồm những người có sức khỏe thể chất đạt đến đ nh cao; năng động, nhiệt huyết, dám nghĩ, dám làm, thích giao lưu, học hỏi để nâng cao trình độ về mọi mặt, mong muốn được đóng góp cho xã hội để khẳng định bản thân. Họ là một lực lượng quan trọng của xã hội hiện tại cũng như trong tương lai. Để có thể phát triển một cách toàn diện, bên cạnh việc được trang bị kiến thức chuyên môn, thanh niên Việt Nam hiện nay cần được trang bị cả tri thức về lý luận chính trị, YTCT, đạo đức, phong cách, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật… 1.1.2.2. Giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên Những chuyển biến mau lẹ của đời sống xã hội đã và đang có những ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý, niềm tin, lý tưởng chính trị của một bộ phận không nhỏ tầng lớp thanh niên, sinh viên. Theo số liệu điều tra, khảo sát trong Đề tài khoa học cấp bộ của PGS,TS. Nguyễn Tuấn Hùng, trong tổng số 851 sinh viên được hỏi về vấn đề con đường đi lên của đất nước, có 71,8% sinh viên cho rằng đất nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn đúng đắn, 26,4% cho rằng chưa hiểu hoặc chưa quan tâm và 4,1% cho rằng nên lựa chọn con đường khác; hỏi về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, có 81,8% sinh viên thừa nhận Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng là người duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội, 14,5% cho rằng chưa hiểu hoặc chưa quan tâm và 4.5% cho rằng nước ta cần theo chế độ đa đảng,.. [50, tr.109]. Một trong những đặc điểm nổi bật của thanh niên là họ luôn hướng đến những tìm tòi mới, sáng tạo, háo hức với những thay đổi, phát triển của đời sống xã hội. Trong quá trình đó, một mặt, họ tiếp thu những cái mới thật sự và tốt đẹp, nhưng mặt khác do nhận thức hạn chế, cũng có thể tiếp nhận những yếu tố lỗi thời, không phù hợp. Thanh niên cũng hết sức nhạy cảm về các vấn đề chính trị - xã hội, họ luôn tích cực gia nhập vào các hoạt động cộng đồng, là lực lượng đi đầu trong các hoạt động chính trị - xã hội của đất nước. Mỗi một thay đổi trong đời sống hàng ngày đều có tác động nhanh, mạnh mẽ đến tầng lớp thanh niên. Vì vậy, sự nhạy cảm của thanh niên nếu không được định 17 hướng đúng thì rất dễ bị kích động, lôi kéo, dẫn đến những hành động nông nổi. Một bộ phận thanh niên nhận thức về chính trị còn kém, ít quan tâm đến tình hình đất nước, bàng quang với thời cuộc, lập trường tư tưởng không vững vàng,… Vì vậy việc giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên là điều cần thiết và cấp bách. Giáo dục YTCT cho thanh niên có thể hiểu là những hoạt động chủ động, tự giác, tích cực của các chủ thể đối với thanh niên nhằm giúp cho họ có niềm tin, tri thức, lý tưởng chính trị đúng đắn; góp phần hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, đồng thời phát huy tính tích cực của thanh niên trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 1.1.3. Mục đích, nội dung, phương thức giáo dục ý thức chính trị cho thanh niên 1.1.3.1. Mục đích giáo dục Y C cho thanh niên : Giáo dục YTCT cho thanh niên là quá trình truyền đạt chủ nghĩa Mác – lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cho thanh niên; cung cấp thông tin trong lĩnh vực chính trị nhằm nâng cao nhận thức chính trị, củng cố niềm tin và bản lĩnh chính trị để góp phần chủ yếu vào việc hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho thanh niên. Giáo dục YTCT cùng với các hoạt động giáo dục khác tác động trực tiếp đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống của mỗi thanh niên; bồi dưỡng nhân sinh quan cộng sản, lý tưởng cách mạng và niềm tin đối với các giá trị của chủ nghĩa xã hội, khắc phục thói thụ động, thờ ở chính trị, hình thành thái độ đấu tranh không khoan nhượng đối với các tư tưởng phản tiến bộ; thúc đẩy tính tích cực, tự giác, sáng tạo tham gia vào các phong trào cách mạng. 1.1.3.2. N i dung giáo dục Y C cho thanh niên : Giáo dục YTCT cho thanh niên là quá trình tác động vào đối tượng giáo dục bằng cách giải thích, tuyên truyền những những tri thức khoa học, tư tưởng trong lĩnh vực chính trị để góp phần chủ yếu vào việc hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho thanh niên. Nhằm bồi dưỡng lý tưởng cách mạng và niềm tin vào các giá trị của chủ nghĩa xã hội để thanh niên có thái độ và hành động chính trị tích cực. Giáo dục YTCT biểu hiện tập trung nhất ở những nội dung sau: M t là, giáo dục ý thức chính trị là giáo dục thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng cho thanh niên, những tri thức về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó, củng cố niềm tin vào sự 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan