MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
1.1.
1.2.
1.3.
Chương 2
ĐẾN ĐỀ TÀI
Các công trình nghiên cứu giáo dục pháp luật
Các công trình nghiên cứu giáo dục pháp luật trong nhà trường
Khái quát kết quả của các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài và
những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết
5
12
12
21
31
CƠ SỞ LÝ LUẬN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC VIÊN Ở
CÁC TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
Những vấn đề lý luận về pháp luật và giáo dục pháp luật
Những vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật cho học viên ở các
trường sĩ quan quân đội
Những yếu tố tác động đến giáo dục pháp luật cho học viên ở các
trường sĩ quan quân đội trong bối cảnh hiện nay
CƠ SỞ THỰC TIỄN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC VIÊN
Ở CÁC TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
36
36
Khái quát chung các trường sĩ quan quân đội
3.2.
Khái quát khảo sát thực trạng giáo dục pháp luật cho học viên ở
các trường sĩ quan quân đội
3.3.
Thực trạng nhận thức về pháp luật và giáo dục pháp luật cho học
viên ở các trường sĩ quan quân đội
3.4.
Thực trạng giáo dục pháp luật cho học viên ở các trường sĩ quan quân đội
3.5.
Thực trạng các yếu tố tác động đến giáo dục pháp luật cho học viên ở
các trường sĩ quan quân đội
Chương 4 BIỆN PHÁP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG
SĨQUANQUÂNĐỘIHIỆNNAYVÀTHỰCNGHIỆMSƯPHẠM
4.1.
Biện pháp giáo dục pháp luật cho học viên ở các trường sĩ quan
quân đội hiện nay
4.2.
Thực nghiệm sư phạm
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
69
2.1.
2.2.
2.3.
Chương 3
3.1.
47
64
69
73
76
81
101
106
106
131
154
157
158
167
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
Chữ viết đầy đủ
Cán bộ quản lý
Độ lệch chuẩn
Điểm trung bình
Giáo dục pháp luật
Giáo dục và đào tạo
Giảng viên, cán bộ quản lý
Học viện Biên phòng
Khoa học xã hội và nhân văn
Phổ biến giáo dục pháp luật
Quân đội nhân dân
Sĩ quan Chính trị
Sĩ quan Lục quân 1
Sĩ quan Pháo binh
Sĩ quan Phòng hóa
Sĩ quan quân đội
Xã hội chủ nghĩa
Chữ viết tắt
CBQL
ĐLC
ĐTB
GDPL
GD&ĐT
GV,CBQL
HVBP
KHXH&NV
PBGDPL
QĐND
SQCT
SQLQ1
SQPB
SQPH
SQQĐ
XHCN
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
TT
Tên
1
2
bảng
3.1.
3.2.
3
3.3.
4
5
6
7
3.4.
4.1.
4.2.
4.3.
8
4.4.
9
4.5.
10
4.6.
11
4.7.
12
4.8.
TT
Tên
biểu đồ
13
4.1.
14
15
16
17
4.2.
4.3.
4.4.
4.5.
Tên
TT
18
19
20
21
22
23
biểu đồ
4.6.
4.7.
4.8.
4.9.
4.10.
4.11.
Nội dung
Trang
Bảng Hopkins phân tích mối quan hệ tương quan
Kết quả khảo sát thực trạng nhận thức về pháp luật của học viên
Thực trạng mức độ nhận thức của giảng viên, cán bộ quản
75
76
lý và học viên về vai trò giáo dục pháp luật
Thực trạng các yếu tố tác động đến giáo dục pháp luật cho học viên
Lượng hóa các tiêu chí đánh giá nhận thức pháp luật của học viên
Lượng hóa các tiêu chí đánh giá thái độ thực hiện pháp luật của học viên
Lượng hoá các tiêu chí đánh giá hành vi pháp luật của học viên
Kết quả đo nhận thức, thái độ, hành vi của học viên ở lớp thực
nghiệm và đối chứng trước thực nghiệm tại cơ sở thực nghiệm 1
Kết quả đo nhận thức, thái độ, hành vi của học viên ở lớp thực
nghiệm và đối chứng sau thực nghiệm tại cơ sở thực nghiệm 1
Kết quả đo nhận thức, thái độ, hành vi của học viên ở lớp thực
nghiệm và đối chứng trước thực nghiệm tại cơ sở thực nghiệm 2
Kết quả đo nhận thức, thái độ, hành vi của học viên ở lớp thực
nghiệm và đối chứng sau thực nghiệm tại cơ sở thực nghiệm 2
So sánh kết quả hành vi pháp luật trước và sau thực
nghiệm tại cơ sở thực nghiệm 2
Nội dung
Nhận thức của học viên trước thực nghiệm cơ sở thực nghiệm
1
Thái độ của học viên trước thực nghiệm tại cơ sở thực nghiệm 1
Hành vi của học viên trước thực nghiệm tại cơ sở thực nghiệm 1
Nhận thức của học viên sau thực nghiệm tại cơ sở thực nghiệm 1
Thái độ của học viên sau thực nghiệm tại cơ sở thực nghiệm 1
78
101
134
135
137
142
144
147
149
151
Trang
143
143
144
145
146
Nội dung
Trang
Hành vi của học viên sau thực nghiệm tại cơ sở thực nghiệm 1
Nhận thức của học viên trước thực nghiệm tại cơ sở thực nghiệm 2
Thái độ của học viên trước thực nghiệm tại cơ sở thực nghiệm 2
Hành vi của học viên trước thực nghiệm tại cơ sở thực nghiệm 2
Nhận thức của học viên sau thực nghiệm tại cơ sở thực nghiệm 2
Thái độ của học viên sau thực nghiệm tại cơ sở thực nghiệm 2
146
148
148
149
150
150
24
TT
4.12.
Tên
sơ đồ
25
3.1.
26
27
4.1.
4.2.
Hành vi của học viên sau thực nghiệm tại cơ sở thực nghiệm 2
Nội dung
Mối tương quan giữa mục tiêu về nhận thức, thái độ, hành vi
theo đánh giá của giảng viên, cán bộ quản lý và học viên
Mối tương quan giữa nhận thức, thái độ và hành vi
Mối tương quan giữa kết quả đo nhận thức, thái độ và hành vi
150
Trang
83
147
152
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật có
vai trò rất quan trọng trong việc tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
quan tâm chăm lo bồi dưỡng cho cán bộ đảng viên và nhân dân ý thức chấp
hành pháp luật. Theo Người: “Công bố đạo luật này chưa phải đã là mọi việc
đều xong, mà còn phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt”
[49, tr.267]. Kế thừa quan điểm của Hồ Chí Minh, trong tiến trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Đảng ta luôn xác định “Giáo dục pháp luật phải
được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục và ở tầm cao hơn nhằm làm cho
cán bộ, nhân dân hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật” [2, tr.1];
hướng tới xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng sự
nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế “Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức,
ý thức tôn trọng pháp luật…” [17, tr.127].
Giáo dục pháp luật trong Quân đội là một trong những yếu tố tạo nên sức
mạnh chiến đấu của Quân đội, là cơ sở hình thành khả năng chiến đấu và trình
độ sẵn sàng chiến đấu của mỗi đơn vị. Nó chi phối tất cả các mặt hoạt động của
quân nhân và góp phần định hướng, hướng dẫn hành động cho mỗi quân nhân
trong chấp hành kỷ luật quân sự, thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao.
Là nơi trực tiếp đào tạo đội ngũ cán bộ cho toàn quân, các trường SQQĐ
đang hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác động tiêu cực của các tệ nạn xã hội nảy
sinh từ mặt trái nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng đến định hướng giá trị
nhân cách, ý thức, hành vi chấp hành pháp luật của mỗi học viên. Mặt khác,
các thế lực thù địch đang đẩy mạnh “chiến lược diễn biến hòa bình”, hòng
“phi chính trị hóa” quân đội, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”. Do vậy, các trường SQQĐ phải không ngừng nâng cao chất lượng
GD&ĐT; giáo dục rèn luyện phẩm chất pháp luật cho học viên theo mục tiêu
đào tạo. Hơn nữa, học viên ở các trường SQQĐ, khi ra trường sẽ là những sĩ
6
quan, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý ở các cơ quan, đơn vị, có nhiệm vụ
lãnh đạo, chỉ huy quản lý con người, giáo dục rèn luyện bộ đội theo đúng
đường lối, quan điểm của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Để hoàn
thành nhiệm vụ trong giai đoạn mới, họ cần phải được giáo dục nâng cao
nhận thức, hình thành thái độ, rèn luyện thói quen hành vi pháp luật, kỷ luật,
tạo cơ sở định hướng sự phát triển nhân cách người cán bộ quân đội.
Thời gian qua, nhận thức đúng vai trò của GDPL, các trường SQQĐ đã
từng bước đổi mới chương trình, nội dung, vận dụng các phương pháp, hình
thức GDPL phù hợp với mục tiêu, yêu cầu, đối tượng đào tạo. Tuy nhiên, tình
hình vi phạm pháp luật của học viên vẫn còn diễn biến phức tạp, tính chất vi
phạm ngày càng nghiêm trọng, đã xuất hiện những hành vi lừa đảo chiếm
đoạt tài sản công dân, cố ý đánh người gây thương tích, lô đề cờ bạc, vay nợ
không có khả năng chi trả dẫn tới tự thương, tự sát ảnh hưởng tới uy tín và
truyền thống của Quân đội. Điều này cho thấy, vấn đề GDPL cho học viên
còn nhiều bất cập, chương trình nội dung GDPL còn nặng về lý thuyết, hạn
chế về bồi dưỡng chuyên môn, kỹ năng xử lý các vấn đề của thực tiễn [8].
Phương pháp GDPL vẫn còn đơn giản, khô cứng, đi theo lối mòn, chủ yếu là
thông tin một chiều, dễ gây nhàm chán, chưa khơi dậy cho học viên niềm say
mê học tập, nghiên cứu. Hình thức GDPL ở một số nhà trường chưa thật sự
phong phú, hấp dẫn, lôi cuốn người học tham gia. “Trình độ năng lực của một
bộ phận nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn thấp so với yêu cầu nhiệm vụ”
[8, tr.17]. Động cơ thái độ học tập rèn luyện của học viên chưa đúng đắn, chưa
kết hợp chặt chẽ giữa quá trình giáo dục với quá trình tự giáo dục nhằm hình
thành, phát triển ý thức hành vi pháp luật của bản thân. Cơ sở vật chất, phương
tiện kĩ thuật đảm bảo cho GDPL vẫn còn thiếu.
Những yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, xây dựng
Quân đội cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đã đòi hỏi
GDPL ở các trường SQQĐ cần phải “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ
các yếu tố theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người
7
học” [16, tr.5]; kết hợp trang bị kiến thức, hình thành niềm tin, rèn luyện thói
quen hành vi, phát triển phẩm chất pháp luật cho học viên. Chính vì vậy,
trong những năm gần đây vấn đề GDPL đã trở nên cấp thiết, được các nhà
khoa học ở trong nước, các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng, Tổng cục
Chính trị và các trường SQQĐ quan tâm, nghiên cứu, tiếp cận dưới nhiều góc
độ khác nhau. Tuy nhiên, GDPL cho học viên trong các trường SQQĐ chưa
được quan tâm nghiên cứu một cách hệ thống. Việc đi tìm lời giải khoa học
đầy đủ cho vấn đề này vẫn đang là đòi hỏi khách quan, cấp thiết đặt ra cả về
mặt lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu vấn đề “Giáo
dục pháp luật cho học viên ở các trường sĩ quan quân đội hiện nay” nhằm
khắc phục những bất cập trên đây đồng thời sẽ góp phần đổi mới căn bản,
toàn diện GD&ĐT ở các trường SQQĐ hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn GDPL, luận án đề xuất những
biện pháp nhằm nâng cao chất lượng GDPL cho học viên ở các trường
SQQĐ trong bối cảnh hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận của quá trình GDPL cho học viên ở các
trường SQQĐ.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng quá trình GDPL cho học viên ở các
trường SQQĐ hiện nay.
- Đề xuất biện pháp GDPL cho học viên ở các trường SQQĐ hiện nay.
- Tổ chức thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng tính đúng đắn, tính khả
thi của các biện pháp đề xuất.
3. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu và giả thuyết khoa học
* Khách thể nghiên cứu: Quá trình GD&ĐT ở các trường SQQĐ.
* Đối tượng nghiên cứu: Quá trình GDPL cho học viên ở các trường SQQĐ.
8
* Phạm vi, giới hạn nghiên cứu
Luận án nghiên cứu quá trình giáo dục ý thức và hành vi pháp luật cho
học viên ở các nhà trường và học viện có đào tạo sĩ quan cấp phân đội bậc
đại học. Những tư liệu, số liệu sử dụng trong luận án được giới hạn chủ yếu
từ năm 2015 đến nay; phạm vi khảo sát thực tế tập trung ở trường SQCT,
SQLQ1, SQPB, SQPH và HVBP.
* Giả thuyết khoa học
Giáo dục pháp luật cho học viên chỉ đạt được hiệu quả khi vận dụng
đúng lôgic, quy luật dạy học và giáo dục nhân cách quân nhân. Hiện nay,
GDPL cho học viên ở các trường SQQĐ còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên
nhân khác nhau. Vì vậy, nếu quá trình đào tạo học viên trong các trường
SQQĐ chú trọng áp dụng hệ thống các biện pháp giáo dục một cách đồng bộ,
từ xây dựng mô hình, mục tiêu GDPL phù hợp đến việc đổi mới nội dung,
phương pháp, hình thức giáo dục, tích cực hóa quá trình tự giáo dục của học
viên, chú trọng xây dựng môi trường văn hóa pháp luật, phối hợp chặt chẽ
giữa các lực lượng sư phạm trong nhà trường thì nhận thức, thái độ và hành
vi pháp luật của học viên sẽ được hình thành, phát triển vững chắc, đáp ứng
mục tiêu nâng cao chất lượng GD&ĐT ở các trường SQQĐ hiện nay.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử Chủ nghĩa Mác - Lênin, quán triệt sâu sắc Tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về GD&ĐT; dựa trên các quan
điểm tiếp cận: Quá trình giáo dục, hệ thống - cấu trúc, lịch sử - lôgic và thực
tiễn trong nghiên cứu khoa học giáo dục từ đó định hướng cho việc tiếp cận
đối tượng nghiên cứu, luận giải các nhiệm vụ của đề tài.
Quan điểm tiếp cận quá trình giáo dục
Giáo dục pháp luật cho học viên ở các trường SQQĐ cần được nghiên
cứu làm sáng tỏ bản chất, lôgic và các thành tố của quá trình GDPL. Trên cơ
9
sở đó, để xác định mục tiêu, tìm ra nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức
và các điều kiện tối ưu để nâng cao nhận thức, bồi dưỡng thái độ tình cảm,
rèn luyện thói quen hành vi chấp hành pháp luật của Nhà nước, điều lệnh của
Quân đội, giúp cho họ trở thành người cán bộ quân đội có phẩm chất năng
lực toàn diện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm hệ thống - cấu trúc
Quá trình GDPL cho học viên ở các trường SQQĐ là một hệ thống toàn
vẹn bao gồm các thành tố có quan hệ mật thiết với nhau. Các thành tố của
quá trình GDPL không tồn tại độc lập mà tác động qua lại và phụ thuộc lẫn
nhau. Sự vận động, phát triển của các thành tố này là cơ sở cho sự vận động,
phát triển của các thành tố khác và ngược lại. Do đó, GDPL cho học viên ở
các trường SQQĐ phải xác định được các thành tố cơ bản quy định đặc trưng
của GDPL trong môi trường quân đội.
Quan điểm lịch sử - lôgic
Giáo dục pháp luật cho học viên ở các trường SQQĐ cần đặt trong bối
cảnh lịch sử cụ thể; trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng quân đội cách mạng chính quy. Từ đó,
đòi hỏi GDPL phải có sự tương thích về mặt mục tiêu, nội dung, phương pháp,
hình thức tổ chức… đồng thời không tách rời với xu thế đổi mới giáo dục.
Quan điểm thực tiễn
Quan điểm này đòi hỏi trong nghiên cứu GDPL cho học viên ở các
trường SQQĐ phải bám sát thực tiễn quá trình GD&ĐT và thực tiễn quá trình
GDPL, để làm cơ sở khoa học đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng giáo
dục ý thức và hành vi pháp luật cho học viên.
* Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học
chuyên ngành, bao gồm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết, phương pháp
nghiên cứu thực tiễn và phương pháp hỗ trợ để phân tích, khai thác các tài liệu
lý luận và thực tiễn thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài; … Cụ thể là:
10
Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phân tích, tổng hợp các tài liệu liên quan đến quá trình GD&ĐT học
viên để rút ra những vấn đề liên quan trực tiếp đến GDPL cho học viên ở các
trường SQQĐ.
Phân loại các lý thuyết, các quan điểm GDPL khác nhau trong lịch sử.
Từ đó, phân tích, luận giải đưa ra những luận điểm về GDPL cho học viên ở
các trường SQQĐ.
Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Quan sát quá trình GDPL của GV,CBQL và học viên ở các trường SQQĐ.
Toạ đàm với GV,CBQL và học viên ở các trường SQQĐ.
Điều tra, trưng cầu ý kiến bằng phiếu ankét đối với 96 GV,CBQL và
818 học viên ở các trường SQCT, SQLQ1, SQPH, SQPB và HVBP. Ngoài
ra, trưng cầu ý kiến của cán bộ ở một số đơn vị cơ sở để tìm hiểu những nội
dung liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề tài và khẳng định tính khách
quan của vấn đề nghiên cứu.
Nghiên cứu một số sản phẩm cần thiết như báo cáo tổng kết của các nhà
trường có nhiệm vụ GD&ĐT học viên, báo cáo phân tích chất lượng các mặt
hoạt động của học viên, giáo án của giảng viên, vở ghi của học viên… Nắm
chất lượng học viên tại một số trường SQQĐ.
Xin ý kiến chuyên gia của một số nhà khoa học, nhà sư phạm ở trong và
ngoài Quân đội đã từng tham gia vào quá trình đào tạo học viên bậc đại học.
Tổ chức thực nghiệm một số nội dung nhằm kiểm chứng các biện pháp
được đề xuất; việc thực nghiệm được tiến hành tại trường SQLQ1 và SQCT.
Các phương pháp nghiên cứu hỗ trợ
Khi xử lý số liệu, tác giả tiến hành phân tích, tổng hợp, sử dụng phương
pháp thống kê toán học và phần mềm IBM SPSS Statistics 20 để đảm bảo
tính khách quan của kết quả nghiên cứu.
11
5. Đóng góp mới của luận án
* Về lý luận
Xây dựng khung lý luận về vấn đề GDPL cho học viên ở các trường
SQQĐ trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, làm rõ khái niệm về pháp luật và
GDPL; luận giải làm rõ bản chất, lôgic của quá trình GDPL.
Xác định rõ cơ sở khoa học của vấn đề GDPL cho học viên ở các trường
SQQĐ bao gồm: chủ thể, đối tượng, chương trình, nội dung, phương pháp, hình
thức tổ chức và con đường GDPL cho học viên. Luận giải đặc điểm, yêu cầu và
các yếu tố tác động đến quá trình GDPL cho học viên phù hợp với mục tiêu đào
tạo người cán bộ quân đội trong bối cảnh hiện nay.
* Về thực tiễn
Khảo sát thực trạng GDPL cho học viên ở các trường SQQĐ hiện nay còn
nhiều hạn chế. Luận án xác định được các nguyên nhân khách quan và chủ
quan ảnh hưởng đến kết quả GDPL cho học viên. Từ đó, đề xuất hệ thống biện
pháp GDPL để tác động tới 3 mặt: nhận thức, thái độ và hành vi pháp luật của
học viên. Đồng thời, luận án còn khẳng định tính đúng đắn, tính khả thi của
các biện pháp đã được đề xuất thông qua kết quả thực nghiệm sư phạm, kết
hợp với sự đánh giá của các nhà khoa học, đội ngũ GV,CBQL và học viên.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp thêm cơ sở khoa học giúp
các chủ thể giáo dục, nhất là đội ngũ GV,CBQL ở các trường SQQĐ vận
dụng vào quá trình GDPL cho học viên, góp phần nâng cao chất lượng
GD&ĐT, xây dựng các trường SQQĐ chính quy, tiên tiến, mẫu mực.
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy các môn pháp luật, Công tác đảng, công tác chính trị, Giáo dục học quân sự
ở các trường SQQĐ cũng như các quá trình GDPL ở các đơn vị quân đội.
7. Kết cấu luận án
Luận án được kết cấu gồm: Mở đầu; 4 chương (13 tiết); kết luận, kiến
nghị; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
12
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu giáo dục pháp luật
1.1.1. Các công trình nghiên cứu giáo dục pháp luật
của tác giả nước ngoài
Giáo dục pháp luật là một trong những nội dung quan trọng góp phần
nâng cao văn hóa pháp lý, hình thành ý thức và hành vi pháp luật công dân. Ở
ngoài nước, đã có một số tác giả quan tâm nghiên cứu với những công trình
tiêu biểu như sau:
Trong giáo trình: “Теория государствa и правa - Lý luận nhà nước và
pháp luật” [105], các tác giả N.I.Matuzova, A.V.Malưko (2001), đã quan
niệm GDPL là một thể thống nhất giữa các thành tố: Chủ thể, đối tượng, nội
dung, phương pháp, hình thức. GDPL là hoạt động có chủ đích của nhà nước,
các tổ chức xã hội và mỗi công dân nhằm truyền đạt các kinh nghiệm pháp
luật; sự tác động có hệ thống lên ý thức và hành vi của con người nhằm hình
thành nhận thức, định hướng giá trị, cách nhìn nhận tích cực, bảo đảm cho việc
thực hiện và sử dụng pháp luật. GDPL trang bị cho mọi người những hiểu biết
về nhà nước và pháp luật, về các đạo luật, các quyền tự do, dân chủ của mỗi cá
nhân, định hướng cho công dân thực hiện những hành vi pháp luật hợp pháp.
Trong đề tài: “Правовое воспитание в Российской Федерации Giáo dục pháp luật ở Liên bang Nga” [106], của tác giả T.I. Akimova, K.V.
Naumenkova (2014), trên cơ sở tiếp cận dưới các góc độ khác nhau các tác giả
có những quan niệm khác nhau về GDPL. Theo tác giả T.I. Akimova, “Giáo
dục pháp luật là sự tác động có định hướng, có tổ chức, mang tính hệ thống lên
các cá nhân nhằm làm hình thành tri thức pháp luật, thói quen, hành vi xử sự
tích cực theo pháp luật, văn hóa pháp luật”; hoặc theo tác giả K.V.
Naumenkova, “Giáo dục pháp luật có thể định nghĩa như là một hệ thống các
biện pháp định hướng làm hình thành tư tưởng pháp luật, các nguyên tắc, chuẩn
13
mực pháp luật, những nhân tố làm nên các giá trị văn hóa pháp luật của dân tộc
và nhân loại”. Như vây, mỗi định nghĩa đưa ra đều chứa đựng góc nhìn chủ
quan của mỗi tác giả, nhưng không phải tất cả họ đều thống nhất cách hiểu về
tính cấp thiết phải tạo dựng trong con người tư tưởng pháp luật, sự tôn trọng
pháp luật; các tác giả đi đến kết luận: “Giáo dục pháp luật là làm hình thành
quan hệ - cách xử sự tôn trọng pháp luật, coi pháp luật như một giá trị xã hội lớn
lao, có liên quan mật thiết đến mỗi cá nhân; phát triển thái độ trách nhiệm, tính
thần không khoan nhượng với thói chuyên quyền, nạn tham nhũng”.
Luận án Tiến sĩ của tác giả Strelaieva (2008), “Правовое воспитание
в условиях становления правового государства - Giáo dục pháp luật trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền” [104], gồm 2 chương, 7 tiết.
Chương 1, tác giả luận án bàn về cơ sở lý luận của GDPL với 03 tiết: (1) Bản
chất, phân loại GDPL; (2) Cấu trúc của GDPL và (3) Chức năng của GDPL.
Theo tác giả, bản chất của GDPL là quá trình định vị một cách bền vững
những nguyên tắc, tư tưởng pháp luật vào trong ý thức pháp luật của đối tượng
được giáo dục. Chương 2 luận án với tiêu đề “Khía cạnh tổ chức GDPL trong
xã hội Nga đương đại” gồm 4 tiết được dành để bàn về (1) Hệ thống xã hội
hóa GDPL trong xã hội Nga đương đại; (2) GDPL trong tiếp cận với các nhóm
xã hội khác nhau; (3) GDPL trong hệ thống định hướng nghề nghiệp cho các
luật gia hiện nay; (4) Nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục lại về pháp
luật. Do vậy, để xây dựng một nhà nước thượng tôn pháp luật thì cần phải tăng
cường giáo dục pháp luật cho các đối tượng trong xã hội.
Luận án Tiến sĩ của tác giả Vilay Philavong (2017), “Giáo dục pháp
luật cho công chức hành chính ở nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện
nay” [94], đã quan niệm: GDPL cho công chức hành chính Lào là những tác
động có tổ chức, có định hướng, có chủ định của chủ thể giáo dục để cung cấp
tri thức, bồi dưỡng tình cảm và hành vi hợp pháp cho công chức hành chính
nhằm mục đích hình thành cho họ có ý thức, niềm tin và thói quen hành động
14
phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành. Trên cơ sở phân tích thực
trạng GDPL cho công chức hành chính ở Lào, tác giả đề xuất 10 giải pháp
nhằm tác động vào các thành tố của quá trình GDPL đồng thời tăng cường
phát huy vai trò trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền; phối hợp đồng bộ
giữa các cơ quan (tư pháp, đài phát thanh, truyền hình…) để tạo điều kiện cho
công chức hành chính tiếp cận pháp luật một cách kịp thời chính xác; tăng
cường quan hệ quốc tế trong GDPL cho công chức hành chính.
Ngoài ra, có thể kể thêm một số công trình nghiên cứu có cùng chủ đề
GDPL, như: Krưgina I.A. (1999), với cuốn sách: “Правовая культура, правовое
воспитание и управление правовоспитательным процессом в современном
российском обществе - Văn hóa pháp luật, giáo dục pháp luật và quản lý quá
trình giáo dục pháp luật trong xã hội Nga hiện nay” [101]; Pochtar T.M. (2001),
với cuốn sách chuyên khảo: “Правовое воспитание в педагогических вузах:
вопросы методологии и методики - Giáo dục pháp luật trong các trường đại
học sư phạm: Những vấn đề phương pháp luận và phương pháp” [103]. Các
công trình nghiên cứu khoa học trên đây ở những mức độ khác nhau đã đề cập
đến khái niệm, bản chất, các yếu tố cấu thành GDPL.
Tóm lại, những công trình nghiên cứu về GDPL trên thế giới đã phản ánh
về quá trình GDPL của một số nước như: Liên bang Nga và các nước ASEAN.
Các công trình đã phân tích tương đối toàn diện, có hệ thống về GDPL cho các
đối tượng cụ thể; làm rõ khái niệm, mục tiêu của GDPL, phân biệt rõ phương
pháp với hình thức GDPL. Đây là nguồn tài liệu có giá trị để luận án kế thừa
làm sáng tỏ tính cấp thiết và cơ sở lý luận GDPL cho học viên ở các trường
SQQĐ. Tuy nhiên, các nghiên cứu này được áp dụng với các nước có điều kiện
kinh tế, văn hóa, xã hội, tư duy giáo dục khác biệt so với nước ta.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu giáo dục pháp luật
của tác giả trong nước
Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận GDPL ở Việt Nam có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng giúp cho tác giả luận án có cơ sở để xây dựng khung
15
lý thuyết cho đề tài GDPL cho học viên ở các trường SQQĐ. Trên phương diện
này, có thể kể ra một số luận án, đề tài khoa học và bài báo khoa học như sau:
Tác giả Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai (1995), chủ biên
cuốn sách: “Bàn về giáo dục pháp luật” [22]. Lần đầu tiên ở nước ta đã
nghiên cứu một cách cơ bản những vấn đề lý luận GDPL bao gồm khái
niệm, mục đích, đối tượng, chủ thể, nội dung, hình thức và phương pháp
GDPL. Các tác giả đã làm rõ vai trò trách nhiệm của Đảng và Nhà nước,
các tổ chức xã hội mà trước hết là trách nhiệm của các cơ quan trong
ngành giáo dục có trách nhiệm trang bị hệ thống tri thức, bồi dưỡng tình
cảm, rèn luyện thói quen hành vi pháp luật cho mọi người dân. Đề cập đến
vai trò của GDPL các tác giả đã khẳng định ý nghĩa to lớn của công tác
này trong hoạt động quản lý Nhà nước; trong phát huy dân chủ, mở rộng
quyền tự do của mỗi công dân; hình thành phát triển văn hóa pháp lý đồng
thời gắn liền với đổi mới hệ thống chính trị, cải cách bộ máy Nhà nước cần
được tiến hành cùng với quá trình GDPL. Hiệu quả GDPL cũng là vấn đề
được các tác giả quan tâm nghiên cứu. Sau khi đưa ra ba chỉ số xác định
trạng thái của xã hội trước và sau khi có sự tác động của GDPL các tác giả
đã nêu lên khái niệm và các chỉ số tính toán hiệu quả GDPL.
Trong cuốn sách: “Xã hội học pháp luật” [53], của tác giả Ngọ Văn
Nhân (2012), đã bàn đến biện pháp “Tăng cường GDPL, bồi dưỡng kỹ năng
nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng
pháp luật”. Theo tác giả, chất lượng, hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật của
đội ngũ cán bộ công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật phụ
thuộc phần lớn vào trình độ tri thức, hiểu biết pháp luật và kỹ năng nghiệp vụ
của đội ngũ này. Vì vậy, việc tăng cường GDPL, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ
cho đội ngũ này là một biện pháp hết sức quan trọng. Quá trình GDPL luôn là
thể thống nhất hữu cơ của các thành tố: mục đích, mục tiêu, chủ thể, đối tượng,
nội dung, phương pháp và hình thức GDPL. Từ lập luận đó, tác giả đi vào
16
phân tích các nét đặc thù thể hiện trong từng thành tố của quá trình GDPL cho
đội ngũ cán bộ công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật.
Tác giả Nguyễn Quốc Sửu (2014) chủ biên cuốn sách: “Tăng cường
giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính của tỉnh Đắk
Lắk” [66], đã chỉ ra những nét đặc trưng của công tác này gắn với sự tác động,
ảnh hưởng của những luật tục, tập quán, lối sống, bản sắc văn hóa của các dân
tộc thiểu số ở Tây Nguyên; đánh giá thực trạng công tác GDPL cho đội ngũ
cán bộ công chức hành chính của tỉnh Đắk Lắk thông qua điều tra, khảo sát,
đánh giá thực tế; trên cơ sở đó, đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng,
hiệu quả của công tác này.
Trong đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 92-98-223 của Viện Nghiên cứu
Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1998), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới” [92], các tác giả cho rằng:
Công cuộc đổi mới toàn diện các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đã và đang đặt ra những yêu cầu phải
tăng cường công tác tổng kết lý luận và thực tiễn trên các lĩnh vực phục vụ
công cuộc đổi mới. Công tác GDPL ở nước ta cũng không nằm ngoài yêu cầu
trên. Từ việc trình bày, phân tích quan niệm về GDPL, các thành tố cơ bản
của GDPL, đánh giá thực tiễn công tác GDPL cho cán bộ, nhân dân ở nước ta
trong những năm qua, chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế của công tác này,
các tác giả đã nêu lên những biện pháp và kiến nghị nhằm tiếp tục đẩy mạnh
công tác GDPL trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Trong Luận án Phó Tiến sĩ: “Giáo dục pháp luật cho người lao động
trong điều kiện đổi mới của Việt Nam” [21], tác giả Trần Ngọc Đường
(1986), cho rằng: Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết quản lý xã hội bằng pháp
luật, công tác GDPL cho cán bộ và nhân dân cần phải được chú trọng theo
quan điểm của Đảng: “Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích
pháp luật... Cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để giáo dục, nâng cao
17
ý thức pháp luật và làm tư vấn pháp luật cho nhân dân”. Đó là cách thức hiệu
quả để tăng cường hiệu lực quản lý xã hội bằng pháp luật.
Nguyễn Đình Lộc (1987), với Luận án Phó Tiến sĩ: “Ý thức pháp luật
và giáo dục ý thức pháp luật ở Việt Nam” [41], đã tập trung phân tích những
vấn đề lý luận về ý thức pháp luật như: Khái niệm, đặc điểm và cấu trúc của
ý thức pháp luật; tính cấp thiết của việc nghiên cứu ý thức pháp luật phục vụ
công cuộc đổi mới đất nước. Trên cơ sở đó, tác giả đánh giá tình hình thực
hiện giáo dục ý thức pháp luật ở Việt Nam, chỉ ra những điểm tích cực, hạn
chế trong công tác giáo dục ý thức pháp luật ở nước ta thời kỳ trước đổi mới; từ
đó, đề xuất những biện pháp thiết thực cho công tác giáo dục ý thức pháp luật
tại Việt Nam. Đây được coi là công trình đặt nền móng cho việc nghiên cứu lý
luận về GDPL, có giá trị tham khảo đối với tác giả luận án.
Luận án Tiến sĩ của tác giả Dương Thanh Mai (1996), “Giáo dục pháp
luật qua hoạt động tư pháp - hình thức đặc thù của giáo dục pháp luật” [59], đã
nêu lên thực trạng trên diễn đàn khoa học pháp lý hiện nay, quan niệm GDPL
vẫn chưa được hiểu một cách thống nhất, tác giả đã khái quát ở ba quan niệm cơ
bản sau: Quan niệm thứ nhất không thừa nhận GDPL; quan niệm thứ hai xem
nhẹ vai trò của GDPL; quan niệm thứ ba lại đơn giản hóa, cho rằng GDPL được
lồng ghép trong tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật. Trên cơ sở đó, tác
giả bàn sâu về các biện pháp cụ thể phát huy hiệu quả GDPL thông qua hoạt
động tư pháp bằng thực tiễn của Tòa án và luật sư.
Tác giả Vũ Thị Hoài Phương (2009), với Luận án Tiến sĩ: “Giáo dục
pháp luật trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam” [55], sau khi luận giải
khá toàn diện về vị trí vai trò, mục đích, nội dung GDPL trong doanh nghiệp
nhà nước, luận án đã khảo sát thực trạng GDPL cho người lao động và cán bộ
công đoàn, cán bộ quản lý trong doanh nghiệp nhà nước, chỉ ra những hạn chế
và nguyên nhân GDPL trong doanh nghiệp nhà nước. Để nâng cao ý thức,
hành vi pháp luật cho các đối tượng giáo dục trong các doanh nghiệp nhà nước
18
luận án đã đề xuất những biện pháp rất cơ bản nhằm đổi mới nội dung, phương
pháp, hình thức, phát huy vai trò của nhà giáo dục và đối tượng giáo dục.
Tác giả Nguyễn Quốc Sửu (2010), với Luận án Tiến sĩ: “Giáo dục pháp
luật cho cán bộ, công chức hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam” [65], trên cơ sở phân tích đặc điểm và các thành
tố cơ bản của GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Tác giả đã quan
niệm GDPL là hoạt động có định hướng, có tổ chức thông qua các phương pháp
đặc thù và bằng nhiều hình thức khác nhau hướng tới cung cấp, trang bị cho cán
bộ, công chức hành chính những tri thức pháp luật, hình thành tình cảm và hành
vi phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật. Luận án đã phân tích khá đầy đủ
thực trạng GDPL cho cán bộ công chức hành chính những năm gần đây như sự
quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự đầu tư từ ngân sách, sự phát triển cơ sở
GD&ĐT. Luận án chỉ ra những bất cập hạn chế được biểu hiện đó là sự thiếu
quan tâm đến mục tiêu, chủ thể giáo dục thiếu về số lượng, yếu về chất lượng,
nội dung giáo dục dàn trải, công tác kiểm tra đánh giá kết quả GDPL chưa khoa
học. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất hệ thống biện pháp nâng cao chất lượng
GDPL cho cán bộ công chức hành chính như xác định mục tiêu, nâng cao năng
lực giáo dục, ý thức trách nhiệm của chủ thể giáo dục và đối tượng giáo dục;
tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục và những
điều kiện đảm bảo cho quá trình GDPL.
Luận án Tiến sĩ của tác giả Đoàn Thị Thanh Huyền (2014), “Giáo dục
pháp luật cho con cái trong gia đình hiện nay” [33], đã hệ thống hóa các
khái niệm cơ bản, các lý thuyết xã hội học được sử dụng trong nghiên cứu đề
tài; tìm hiểu tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh hiện nay; đánh giá thực trạng quá trình GDPL cho con cái
thuộc nhóm tuổi trung học cơ sở, trung học phổ thông trong các gia đình tại
tỉnh Quảng Ninh thông qua nghiên cứu nhận thức của các bậc cha mẹ; xác
định nội dung, phương pháp, hiệu quả GDPL trong gia đình; phân tích các
yếu tố ảnh hưởng đến GDPL cho con cái trong gia đình ở Quảng Ninh hiện
19
nay. Trên cơ sở đó tác giả đã đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả
GDPL cho con cái trong gia đình.
Tác giả Lê Thị Phương Nga (2015), với Luận án Tiến sĩ: “Giáo dục pháp
luật cho trẻ em ở nước ta hiện nay” [52], đã nghiên cứu một cách có hệ thống,
toàn diện về đặc trưng cơ bản của GDPL đối với trẻ em; phân tích mối quan hệ
biện chứng và sự cần thiết khách quan của GDPL, giáo dục đạo đức, giáo dục
quyền con người và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em ở nước ta hiện nay. Từ
đó, luận án đề xuất việc đổi mới chương trình GDPL cho trẻ em trên nguyên tắc
kết hợp, lồng ghép giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức, giáo dục quyền con
người và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em trong các trường học và cộng đồng,
nhấn mạnh vai trò của gia đình trong việc GDPL cho trẻ em.
Luận án Tiến sĩ của tác giả Dương Thành Trung (2016), “Giáo dục pháp
luật cho đồng bào dân tộc Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, Việt
Nam” [80], đã chỉ rõ: Đồng bào dân tộc Khmer cư trú ở địa bàn có chiến lược
đặc biệt quan trọng về mặt địa chính trị và quốc phòng an ninh, GDPL cho đồng
bào dân tộc Khmer là một biện pháp hữu hiệu nhằm trang bị kiến thức, hình
thành lối sống và làm việc theo pháp luật; giúp đồng bào hiểu rõ về các quyền
con người, quyền công dân, ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia. Từ đó, tác giả đã
luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn theo các yếu tố cơ bản cấu thành quá
trình GDPL và đề xuất 4 nhóm biện pháp bảo đảm GDPL cho đồng bào dân tộc
Khmer ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong những năm tới.
Tác giả Nguyễn Thị Tĩnh (2016), với Luận án Tiến sĩ: “Giáo dục pháp
luật cho người dân ở tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn hiện nay” [70], trên cơ sở
nghiên cứu kết hợp giữa khoa học giáo dục, khoa học chuyên ngành với các
khoa học liên ngành, tác giả đã vận dụng lý luận GDPL trong điều kiện, bối
cảnh đặc thù của người dân Đắk Lắk, xây dựng các hình thức GDPL mới như:
Kết hợp GDPL với giáo dục tư tưởng đạo đức, chính trị, lối sống, phong tục tập
quán của người bản địa; kết hợp GDPL trong gia đình với giáo dục nhà trường
và xã hội… Thông qua đề tài, lần đầu tiên thực trạng GDPL cho người dân tỉnh
20
Đắk Lắk được phân tích, đánh giá một cách khoa học dưới tác động của các yếu
tố khách quan và chủ quan. Từ đó, là tiền đề thực tiễn để thực hiện các mục tiêu,
biện pháp GDPL cho người dân tỉnh Đắk Lắk nói riêng và người dân các dân
tộc thiểu số nói chung.
Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu về GDPL: Sở Tư
pháp Hà Nội (1993), Đề tài khoa học cấp thành phố: “ Giáo dục nâng cao
hiểu biết pháp luật ở Thủ đô - thực trạng và biện pháp” [62]; Sở Tư pháp
Hà Nội (1994), Đề tài Khoa học cấp thành phố: “Nghiên cứu tác động
của gia đình đối với giáo dục pháp luật cho trẻ em ở Hà Nội ” [63];
Nguyễn Duy Lãm (1997), Sách tham khảo: “Một số vấn đề về phổ biến,
giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay” [36]; Lê Đình Khiên
(2002), Luận án Phó Tiến sĩ: “Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán
bộ quản lý hành chính” [35]. Các công trình nghiên cứu này đều khẳng
định GDPL là một nội dung quan trọng trong tiến trình xây dựng Nhà
nước Việt Nam pháp quyền XHCN. Cho nên, để nâng cao hiểu biết pháp
luật cho các đối tượng cần đánh giá đúng thực trạng, tìm ra nguyên nhân
hạn chế, đề xuất các biện pháp mang tính đồng bộ và khả thi để tác động
vào các khâu, các bước của quá trình giáo dục nhằm thay đổi ý thức và
hành vi pháp luật của công dân.
Tóm lại, những công trình nghiên cứu về GDPL ở nước ta đã luận giải
cơ sở lý luận của GDPL, phân tích làm rõ quan niệm GDPL, nội dung,
phương pháp, hình thức GDPL; căn cứ theo từng đối tượng nghiên cứu cụ thể
các công trình đã làm rõ thực trạng và đề xuất một số biện pháp nâng cao
chất lượng GDPL. Đây là những tư liệu quý có thể kế thừa những cơ sở lý
luận về bản chất, lôgic và các thành tố của quá trình GDPL... Tuy nhiên,
GDPL là một lĩnh vực có hướng nghiên cứu rộng, đa dạng và phong phú. Các
tác giả trên đây chủ yếu nghiên cứu những vấn đề liên quan trực tiếp đến việc
GDPL cho các đối tượng cụ thể ở những địa bàn xác định. Do vậy, vấn đề
- Xem thêm -